Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học Địa lí lớp 12

Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học Địa lí lớp 12

Địa lí là môn học cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản, cần thiết về Trái đất,

về các đặc điểm, sự phân bố, mối quan hệ tác động qua lại giữa tự nhiên với hoạt động KT-

XH của con người. Qua đó làm cơ sở cho sự hình thành thế giới quan khoa học, giáo dục

tư tưởng tình cảm đúng đắn cho học sinh; đồng thời, rèn luyện cho học sinh các kĩ năng

hành động, ứng xử phù hợp với môi trường tự nhiên, môi trường xã hội, phù hợp với yêu

cầu phát triển của đất nước và xu thế của thời đại. Theo đó, mục tiêu của môn Địa lí chú

trọng đến sự hình thành và rèn luyện cho học sinh các năng lực cần thiết của người lao động

mới.

Trong thực tế hiện nay, còn nhiều học sinh học tập một cách thụ động, nhớ kiến thức

một cách máy móc, chưa có sự liên hệ kiến thức với nhau, vì vậy chưa phát huy được tư

duy logic và tư duy hệ thống. Đặc biệt, Địa lí lại là môn học nằm trong tổ hợp KHXH -

được phần lớn các em học sinh trường THPT Trần Đại Nghĩa chọn để xét tốt nghiệp. Xuất

phát từ thực tế đó nên trong quá trình giảng dạy tôi luôn cố gắng tìm tòi các phương pháp

mới để việc giảng dạy và học tập đạt hiệu quả, học sinh hứng thú học tập và có thể nhớ kiến

thức trọng tâm ngay tại lớp, không mất nhiều thời gian học tập ở nhà. Để giải quyết được

vấn đề trên, với tôi việc “Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học Địa lí lớp 12” là một hướng

đi đúng, góp phần nâng cao hiệu quả học tập của học sinh.

pdf 19 trang haihuy29 15/08/2023 4817
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học Địa lí lớp 12", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 
MỤC LỤC 
Trang 
PHẦN I. MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 2 
 1. Lí do chọn đề tài .......................................................................................................... 2 
 2. Mục đích nghiên cứu ................................................................................................... 2 
 3. Đối tượng nghiên cứu .................................................................................................. 2 
 4. Giới hạn của đề tài ....................................................................................................... 3 
PHẦN II. NỘI DUNG, BIỆN PHÁP THỰC HIỆN. ...................................................... 4 
 1. Cơ sở lí luận ................................................................................................................ 4 
 1.1. Cơ sở của việc lựa chọn sáng kiến .................................................................... 4 
 1.2. Khái niệm sơ đồ tư duy ..................................................................................... 4 
 2. Cơ sở thực tiễn ............................................................................................................ 5 
 2.1. Thực trạng dạy và học Địa lí 12 ở trường THPT ............................................... 5 
 2.1.1. Thực trạng dạy của giáo viên .................................................................. 5 
 2.1.2. Thực trạng học của học sinh .................................................................... 5 
 2.2. Nguyên nhân của thực trạng dạy và học Địa lí 12 hiện nay ở trường THPT ..... 5 
 3. Một số gợi ý sử dụng sơ đồ tư duy giúp nâng cao chất lượng dạy học Địa lí THPT . 6 
 4. Một số vấn đề cần lưu ý khi sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học Địa lí 12 ............. 15 
 5. Kiểm nghiệm lại kinh nghiệm .................................................................................. 15 
 5.1. Kết quả định lượng .......................................................................................... 15 
 5.2. Kết quả định tính ............................................................................................ 16 
PHẦN III. KẾT LUẬN ................................................................................................... 18 
PHỤ LỤC 
2 
PHẦN I – MỞ ĐẦU 
1. Lý do chọn đề tài 
Địa lí là môn học cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản, cần thiết về Trái đất, 
về các đặc điểm, sự phân bố, mối quan hệ tác động qua lại giữa tự nhiên với hoạt động KT-
XH của con người. Qua đó làm cơ sở cho sự hình thành thế giới quan khoa học, giáo dục 
tư tưởng tình cảm đúng đắn cho học sinh; đồng thời, rèn luyện cho học sinh các kĩ năng 
hành động, ứng xử phù hợp với môi trường tự nhiên, môi trường xã hội, phù hợp với yêu 
cầu phát triển của đất nước và xu thế của thời đại. Theo đó, mục tiêu của môn Địa lí chú 
trọng đến sự hình thành và rèn luyện cho học sinh các năng lực cần thiết của người lao động 
mới. 
Trong thực tế hiện nay, còn nhiều học sinh học tập một cách thụ động, nhớ kiến thức 
một cách máy móc, chưa có sự liên hệ kiến thức với nhau, vì vậy chưa phát huy được tư 
duy logic và tư duy hệ thống. Đặc biệt, Địa lí lại là môn học nằm trong tổ hợp KHXH - 
được phần lớn các em học sinh trường THPT Trần Đại Nghĩa chọn để xét tốt nghiệp. Xuất 
phát từ thực tế đó nên trong quá trình giảng dạy tôi luôn cố gắng tìm tòi các phương pháp 
mới để việc giảng dạy và học tập đạt hiệu quả, học sinh hứng thú học tập và có thể nhớ kiến 
thức trọng tâm ngay tại lớp, không mất nhiều thời gian học tập ở nhà. Để giải quyết được 
vấn đề trên, với tôi việc “Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học Địa lí lớp 12” là một hướng 
đi đúng, góp phần nâng cao hiệu quả học tập của học sinh. 
2. Mục đích nghiên cứu 
- Hiểu được sơ đồ tư duy và vai trò của nó trong đổi mới phương pháp dạy học. 
- Vận dụng sơ đồ tư duy vào việc dạy và học của giáo viên và học sinh. 
- Giúp học sinh hiểu và nắm vững kiến thức, phát triển kĩ năng và tư duy Địa lí, đạt 
kết quả cao nhất trong học tập bộ môn. 
- Giúp nâng cao chất lượng giảng dạy môn Địa lí trong nhà trường. 
3. Đối tượng nghiên cứu 
Học sinh khối 12 – trường THPT Trần Đại Nghĩa. 
3 
4. Giới hạn của đề tài 
Đề tài chỉ nghiên cứu về việc sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học phần Địa lí tự nhiên 
Việt Nam – Địa lí lớp 12. 
4 
PHẦN II – NỘI DUNG, BIỆN PHÁP THỰC HIỆN 
1. Cơ sở lí luận 
1.1. Cơ sở của việc lựa chọn sáng kiến 
Cùng với xu thế phát triển của thời đại, việc nâng cao dân trí, đào tạo bồi dưỡng nhân 
tài ngày càng đóng vai trò ngày càng quan trọng. Do vậy, giáo dục luôn là vấn đề được 
Đảng, nhà nước và nhân dân quan tâm, vì thế trách nhiệm của người giáo viên càng phải 
được nâng cao. “Dạy học là một nghệ thuật” nên giáo viên phải có kĩ năng vận dụng các 
phương pháp để truyền đạt kiến thức cho học sinh. Tùy theo nội dung của từng tiết học mà 
giáo viên lựa chọn phương pháp phù hợp với đặc trưng của từng bộ môn và từng đối tượng 
học sinh. Không những thế, giáo viên còn rèn luyện cho học sinh các kĩ năng quan sát, 
nghiên cứu, phân tích, so sánh, tổng hợp. 
Xuất phát từ định hướng đổi mới phương pháp dạy học hiện nay, buộc người giáo 
viên phải áp dụng các phương pháp dạy học tích cực. Việc rèn luyện phương pháp học tập 
cho học sinh không chỉ là môt biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là mục tiêu dạy 
học. Hiện nay, một trong những phương pháp dạy học tích cực là phương pháp dạy học 
bằng sơ đồ tư duy. 
1.2. Khái niệm sơ đồ tư duy (SĐTD) 
Sơ đồ tư duy hay còn gọi là Lược đồ tư duy, Bản đồ tư duy (Mind Map) là phương 
pháp dạy học chú trọng đến cơ chế ghi nhớ, dạy cách học, cách tự học nhằm tìm tòi, đào 
sâu, mở rộng một ý tưởng, hệ thống hóa một chủ đề hay một mạch kiến thức,bằng cách 
kết hợp việc sử dụng đồng thời hình ảnh, đường nét, màu sắc, chữ viết với sự tư duy tích 
cực. 
Đặc biệt đây là một dạng sơ đồ mở, không yêu cầu tỉ lệ, chi tiết chặt chẽ như bản đồ 
Địa lí, các em có thể vẽ những sơ đồ phân nhánh đơn giản hoặc sử dụng những màu sắc, 
hình ảnh, chữ viết và các cụm từ, từ khóa diễn đạt ngắn gọn để SĐTD có tính khoa học và 
thẩm mỹ hơnTuy cùng một chủ đề nhưng mỗi em có thể “thể hiện” nó dưới dạng sơ đồ 
tư duy theo cách riêng của mình. Do đó, việc lập sơ đồ tư duy phát huy tối đa khả năng 
sáng tạo của mỗi người. 
5 
2. Cơ sở thực tiễn 
 2.1. Thực trạng dạy và học Địa lí 12 ở trường THPT 
 2.1.1. Thực trạng dạy của giáo viên 
 Nhìn chung, chương trình Địa lí lớp 12 ở trường THPT là phần khái quát về các vấn 
đề tự nhiên cũng như kinh tế - xã hội, các vùng kinh tế nội dung của bài học phân phối 
trong một tiết dạy là rất dài nên thông thường giáo viên dạy theo kiểu “chạy chương trình”, 
cố gắng dạy nhanh cho kịp hết nội dung bài. Chính vì áp lực thời gian trong tiết dạy nên 
phần lớn giáo viên chưa chú ý đến việc đổi mới phương pháp dạy học, chưa tích cực hóa 
hoạt động của học sinh tạo điều kiện cho các em suy nghĩ, chiếm lĩnh và nắm vững kiến 
thức mà vẫn còn sử dụng phương pháp dạy học truyền thống “thầy nói, trò nghe”, “thầy 
đọc, trò chép”. Do đó nhiều học sinh chưa nắm vững được kiến thức mà chỉ học thuộc một 
cách máy móc, đôi khi còn chưa nhớ nội dung bài học hoặc nội dung trọng tâm của bài 
 2.1.2. Thực trạng học của học sinh 
Qua quá trình giảng dạy tôi nhận thấy, đối với học sinh thì môn Địa lí là một học lí 
thuyết, quá khô khan nên thông thường các em không có nhiều hứng thú với môn học, chưa 
dành nhiều thời gian cho môn học nên giáo viên rất khó khăn trong việc truyền đạt kiến 
thức, đổi mới phương pháp dạy học. Với đặc thù môn học, Địa lí có nhiều nội dung từ tự 
nhiên đến kinh tế - xã hội, với khối lượng kiến thức lớn nên học sinh không nhớ nổi toàn 
bộ kiến thức, phần lớn các em chỉ học thuộc lòng hay nhớ máy móc. 
 2.2. Nguyên nhân của thực trạng dạy và học Địa lí hiện nay ở trường THPT 
 Thứ nhất: Giáo viên ngại áp dụng các phương pháp mới và trong quá trình dạy học, 
bên cạnh đó thì việc sử dụng các đồ dùng dạy học, phương tiện dạy học như tranh ảnh, bản 
đồ, clip.vào trong quá trình giảng dạy vẫn còn rất hạn chế. Đặc biệt đối với phương pháp 
sử dụng sơ đồ tư duy nhiều GV còn khá lúng túng, không biết khi nào thì sử dụng, sử dụng 
trong các hoạt động cụ thể nào để đạt hiệu quả cao. Ngoài ra, việc sử dụng phầm mềm vẽ 
sơ đồ tư duy của giáo viên còn gặp nhiều khó khăn do trình độ tin học còn hạn chế. 
Thứ hai: Hiện nay trong các trường THPT thì môn Địa lí vẫn bị học sinh xem là môn 
học phụ, không quan trọng, các em chỉ học để đối phó, học khi phải thi tốt nghiệp hoặc thi 
6 
Đại học, bên cạnh đó nội dung của bài học thường dài và mang tính chất học thuộc lòng 
nên các em thường ngại học, học tủ, học vẹt. 
Ngoài ra có một nguyên nhân không kém phần quan trọng đó là hiện nay cở sở vật chất, 
trang thiết bị phục vụ cho việc dạy và học Địa lí ở các trường THPT hiện nay vẫn còn khá 
hạn chế. Học sinh ít được tiếp cận với các đồ dùng dạy học mới, ít có điều kiện tìm hiểu 
thực tế. nên khả năng lĩnh hội kiến thức vẫn còn hạn chế. 
3. Một số gợi ý sử dụng hiệu quả SĐTD giúp nâng cao chất lượng dạy học Địa lí 
trung học phổ thông 
3.1. Sử dụng SĐTD trong việc dạy học bài mới 
Sử dụng SĐTD là một gợi ý cho cách trình bày bài giảng mới. Giáo viên thay vì gạch 
đầu dòng các ý cần trình bày lên bảng, sẽ sử dụng SĐTD để thể hiện một phần hoặc toàn 
bộ nội dung bài học một cách rất trực quan. Toàn bộ nội dung cần truyền đạt đến học sinh 
được thể hiện trên bản đồ mà không bị sót ý. 
Học sinh thay vì ghi chép một cách tỉ mỉ thì chỉ cần chọn lọc các thông tin quan trọng, 
sơ đồ hóa chúng bằng các mối quan hệ và thể hiện lại theo cách hiểu của mình. Với cách 
học này, cả giáo viên và học sinh đều phải tham gia vào quá trình dạy học một cách chủ 
động và tích cực hơn. Giáo viên vừa giảng bài vừa thể hiện trên sơ đồ tư duy hoặc vừa tổ 
chức cho học sinh khai thác kiến thức, vừa hoàn thành SĐTD trên giấy hoặc trên bảng. Học 
sinh được nghe giảng, nhìn bản đồ, đọc sách giáo khoa, trả lời câu hỏi và ghi chép nên học 
sinh học tập tích cực hơn. 
Ví dụ: Khi học bài bài 9, “Thiên nhiên nhiệt đới ẩm gió mùa”, phần 1, mục c – gió 
mùa - đây là một trong những nội dung kiến thức khó của bài học. Nếu ghi bài theo hình 
thức gạch đầu dòng các em sẽ không nhớ được rất nhiều các thông tin như: thời gian, nguồn 
gốc, phạm vi ảnh hưởng, hướng gió, đặc điểm thời tiếtBên cạnh đó, bài này có liên quan 
rất nhiều đến kiến thức Địa lí đại cương (phần Địa lí tự nhiên lớp 10) nên đòi hỏi các em 
phải nắm vững kiến thức từ các lớp dưới. Vì vậy, khi dạy bằng sơ đồ tư duy giáo viên có 
thể giúp học sinh nắm được những kiến thức cốt lõi, ngắn gọn, giúp học sinh nhớ các từ 
khóa để trả lời các câu hỏi trắc nghiệm ở mức độ nhận biết. Bên cạnh đó, khi dạy giáo viên 
7 
có thể hỏi các câu hỏi ở mức độ hiểu, vận dụng để học sinh trả lời và bổ sung vào sơ đồ tư 
duy của mình. 
Đối với phần kiến thức này, bên cạnh dạy theo hình thức SĐTD, giáo viên có thể kết 
hợp thêm các hình vẽ đơn giản để tăng hiệu quả nhớ và hiểu bài cho học sinh (có thể sử 
dụng hình vẽ này để ôn bài trong các tiết ôn tập cho học sinh). 
8 
Để tiết kiệm thời gian, giáo viên chỉ cần phác họa nhanh, đơn giản hình dạng lãnh thổ 
Việt Nam. Sau đó đặt các câu hỏi tái hiện kiến thức để học sinh trả lời, vừa giúp các em 
9 
nhớ lại bài, vừa hoàn thành hình vẽ như trên. Sau khi hoàn thành hình vẽ giáo viên có thể 
đặt các câu hỏi ở mức độ hiểu hoặc vận dụng cho học sinh. 
Ví dụ như: 
- “Tại sao vùng núi Đông Bắc và vùng Đồng bằng sông Hồng có mùa đông lạnh nhất 
nước?” 
Trả lời: Vùng núi Đông Bắc và vùng Đồng bằng sông Hồng có mùa đông lạnh nhất nước 
là do bốn cánh cung (Sông Gâm, Ngân Sơn, Bắc Sơn, Đông Triều) tạo thành phễu hút gió 
vào sâu trong đồng bằng. Tạo nên một mùa đông lạnh nhất nước, mùa đông đến sớm và kết 
thúc muộn. 
- “Tại sao ở vùng núi Tây Bắc có mùa đông ấm hơn vùng núi Đông Bắc?” 
Trả lời: Vùng núi Tây Bắc có mùa đông ấm hơn vùng núi Đông Bắc là do dãy núi Hoàng 
Liên Sơn cao đồ sộ chắn gió mùa Đông Bắc, làm cho vùng núi Tây Bắc mùa đông ấm hơn 
Đông Bắc, mùa đông đến muộn và kết thúc sớm. 
Hoặc thay 2 câu hỏi đó bằng câu hỏi sau: “So sánh và giải thích sự khác nhau về khí hậu 
trong mùa đông của vùng núi Đông Bắc và vùng núi Tây Bắc” 
- “Tại sao Duyên hải Nam Trung bộ và Tây Nguyên có sự đối lập về mùa mưa và mùa 
khô?” 
Hoặc qua hình ảnh đó, yêu cầu học sinh giải thích câu thơ sau: 
Trường Sơn, Đông nắng, Tây mưa 
Ai chưa đến đó như chưa hiểu mình. 
Hoặc câu tương tự trong một bài hát: Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây 
Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây 
Bên nắng đốt, bên mưa quây. 
Trả lời: Vào mùa hè ở nước ta, gió mùa Tây Nam hoạt động mạnh gây mưa cho khu 
vực Tây Nguyên và Nam Bộ, khu vực sườn Tây dãy Trường Sơn (trên lãnh thổ của Lào). 
Nhưng tới vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Nam Trung Bộ, do ảnh hưởng của địa hình 
chắn gió của dãy Trường Sơn nên khu vực Duyên dải miền Trung đặc biệt là Bắc Trung Bộ 
bị hiệu ứng phơn (hay còn gọi là gió Lào khô nóng) gây nên hiện tượng nắng nóng ở sườn 
Đông dãy Trường Sơn. 
10 
Học sinh chỉ cần nhìn vào hình vẽ và kiến thức đã học có thể trả lời được các câu hỏi 
trên. Ngoài ra hình vẽ này còn giúp học sinh thấy rõ hơn, khái quát hơn về tác động của gió 
mùa đến các vùng lãnh thổ nước ta. 
3.2. Sử dụng SĐTD trong việc củng cố kiến thức sau mỗi bài học 
Sử dụng SĐTD để củng cố kiến thức bài học là việc làm rất có hiệu quả. Giáo viên 
sử dụng SĐTD để thể hiện lại những nội dung cơ bản của bài học, tránh bị bỏ sót ý, khắc 
sâu các kiến thức trọng tâm. 
Học sinh sử dụng SĐTD để thể hiện lại sự hiểu biết của mình sau khi tiếp thu nội 
dung bài học, đồng thời là một kênh thông tin phản hồi mà qua đó giáo viên có thể đánh 
giá nhận thức của từng học sinh và điều chỉnh cách dạy, cách truyền đạt của mình sao cho 
phù hợp. 
Đáp ứng cho mục đích củng cố kiến thức cho học sinh sau mỗi bài học thì dạng bài 
tập thích hợp nhất là điền thông tin còn thiếu vào SĐTD. Các thông tin còn thiếu này sẽ 
bao trùm nội dung toàn bài để một lần nữa nhằm khắc sâu kiến thức và lưu ý đến trọng tâm 
bài học. 
Ví dụ: Sử dụng SĐTD sau khi kết thúc bài 11, 12 “Thiên nhiên phân hóa đa dạng” sẽ 
giúp học sinh khái quát hóa được nội dung toàn, hiểu được nguyên nhân của phân hóa theo 
Bắc – Nam, theo Đông – Tây và theo độ cao. Thấy được sự khác nhau về khí hậu, cảnh 
quan, sinh vậtcủa từng phần lãnh thổ đó là do sự thay đổi của khí hậu, tác động địa hình, 
gió mùa và hướng các dãy núi. Sử dụng SĐTD để củng cố và hệ thống lại toàn bộ kiến thức 
của bài sẽ là phương pháp hợp lí và tối ưu nhất nhằm giúp giáo viên và học sinh không bị 
bỏ sót ý, học sinh nhớ lâu và hiểu sâu các ý chính. 
11 
3.3. Sử dụng SĐTD để tổng hợp kiến thức một chương, một chủ đề 
Dùng SĐTD có thể thể hiện một lượng thông tin từ nhỏ đến rất lớn. Tương tự, giáo 
viên và học sinh có thể thể hiện một phần nội dung bài học, một bài học hoặc nhiều bài học, 
một chương kiến thức. Vấn đề là các nội dung này, có điểm chung với nhau, có mối quan 
hệ với nhau thông qua từ khóa. Tùy theo mục đích sử dụng mà có thể thiết kế SĐTD trong 
một giờ học thông thường, trong giờ kiểm tra, giờ thực hành, ôn tập, tổng kết hay hệ thống 
một chương, một phần kiến thức. Với cách sử dụng SĐTD như thế này, giáo viên có thể 
cùng học sinh làm ngay tại lớp hoặc có thể giao về nhà cho học sinh hay nhóm học sinh 
thực hiện. 
Ví dụ: Sau khi học xong phần “Đặc điểm chung của tự nhiên Việt Nam” (bao gồm 7 
bài, tính từ bài 6 đến bài 12, Địa lí 12), giáo viên có thể ôn tập, tổng kết kiến thức phần này 
để kiểm tra hoặc để bước sang một phần mới bằng cách thành lập một SĐTD, trong đó thể 
hiện được gần như trọn vẹn và logic những nội dung chính của các bài mà không mất nhiều 
thời gian. Qua đó, giúp học sinh có thể dễ dàng hơn trong việc ôn tập và củng cố kiến thức. 
12 
Sử dụng SĐTD để tổng hợp kiến thức một chương, một chủ đề sẽ mất khá nhiều thời gian 
nên giáo viên có thể giao cho học sinh về nhà thực hiện trước mỗi tiết ôn tập. Sau đó, trong 
tiết ôn tập giáo viên và học sinh sẽ nhận xét và ôn tập kiến thức trên sơ đồ tư duy đó. Giáo 
viên dẫn dắt, đặt các câu hỏi tái hiện kiến thức và các câu hỏi mức độ cao hơn để hoàn 
thành chi tiết hơn, nhiều nhánh phụ hơn cho SĐTD đó. 
 3.4. Sử dụng SĐTD trong việc kiểm tra, đánh giá 
Vì thời gian kiểm tra bài cũ đầu giờ không nhiều, chỉ khoảng 5-7 phút, nên yêu cầu 
kiểm tra của giáo viên thường không quá khó, phần lớn sẽ chấm điểm tùy vào mức độ thuộc 
lòng của học sinh mà ít quan tâm đến mức độ hiểu biết bản chất vấn đề. Do đó, việc sử 
dụng SĐTD khi kiểm tra bài cũ vừa giúp giáo viên kiểm tra được phần nhớ lẫn phần hiểu 
của học sinh, bằng cách giáo viên yêu cầu học sinh phác thảo nhanh SĐTD lên bảng hoặc 
13 
đưa ra các SĐTD thiếu thông tin và yêu cầu học sinh điền thông tin vào các phần còn thiếu 
đó, đồng thời rút ra nhận xét về mối quan hệ của các nhánh thông tin với từ khóa. Cách làm 
này vừa tránh được việc học vẹt, vừa đánh giá chính xác được khả năng nhận thức của học 
sinh, từ đó tìm ra các biện pháp nâng cao chất lượng dạy và học. 
 Ví dụ: Trước khi chuyển qua dạy bài 13 – Thực hành, giáo viên yêu cầu học sinh 
lên bảng trình bày sự phân hóa thiên nhiên theo độ cao ở nước ta bằng SĐTD. Giáo viên có 
thể yêu cầu học sinh trình bày cụ thể về độ cao, nhiệt độ, độ ẩm, đất, sinh vật của ba đai 
cao. Để hoàn thành được sơ đồ này, học sinh không thể học vẹt, học thuộc lòng, mà bắt 
buộc các em phải hiểu được sự thay đổi của nhiệt độ, độ ẩm theo độ cao sẽ dẫn đến hình 
thành các loại đất, sự xuất hiện các loài động, thực vật khác nhau. 
Sau khi học sinh trình bày xong, giáo viên nhận xét và đặt các câu hỏi để đánh giá mức độ 
hiểu của học sinh. Giáo viên có thể đặt các câu hỏi sau: 
14 
- “Tại sao đai ôn đới gió mùa trên núi không xuất hiện ở miền Nam?” 
Trả lời: Đai Ôn đới gió mùa trên núi không xuất hiện ở miền Nam là do địa hình miền Nam 
không có địa hình cao trên 2600m. 
- “Tại sao đai nhiệt đới gió mùa ở miền Bắc thấp hơn miền Nam?” 
Giải thích: Đai nhiệt đới gió mùa ở miền Bắc thấp hơn miền Nam là do: miền Bắc nằm gần 
chí tuyến, chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của Gió mùa Đông Bắc và địa hình miền Bắc cao hơn 
miền Nam à nền nhiệt của miền Bắc thấp hơn miền Nam. Vì thế, chỉ cần lên đến độ cao 
600 – 700m là nhiệt độ hạ thấp tương đương nhiệt độ ở độ cao 900 – 1000m của miền Nam. 
Hoặc “Tại sao đai nhiệt đới gió mùa ở miền Nam cao hơn miền Bắc?” (Đối với câu 
hỏi này học sinh trả lời ngược lại với câu hỏi trên) 
- “Trong 3 đai, đai cao nào chiếm diện tích lớn nhất ở nước ta? Tại sao?” 
Trả lời: Đai nhiệt đới gió mùa chiếm diện tích lớn nhất là do 85% diện tích nước ta là đồng 
bằng và đồi núi thấp. 
Để trả lời các câu hỏi này, học sinh đòi hỏi phải hiểu bài, có sự liên kết kiến thức với các 
bài học trước (bài 2, bài 6, bài 7, bài 9). Ngoài ra, các em còn phải nhớ kiến thức Địa lí đại 
cương đã học ở lớp 10. 
3.5. Sử dụng SĐTD để ra bài tập về nhà 
Vì làm bài tập về nhà sẽ có nhiều thời gian và điều kiện để tìm kiếm tài liệu nên bài 
tập về nhà mà giáo viên giao cho học sinh hoặc nhóm học sinh trước hết phải gắn với nội 
dung bài học và trong điều kiện cho phép (trình độ học sinh, thời gian, kinh tế,...). Yêu cầu 
đối với bài tập về nhà cũng cần khó hơn, phức tạp hơn và cần sự đầu tư hơn (cả kênh chữ, 
kênh hình, màu sắc, lượng thông tin,...), qua đó còn thể hiện cả tính sáng tạo và sự tích cực 
tìm kiếm tài liệu học tập của học sinh. Bài tập về nhà nên thiên về tính mở, vì vậy giáo viên 
cần định hướng cho học sinh cách tìm kiếm thông tin từ các nguồn tài liệu khác nhau, đặc 
biệt từ mạng Internet bằng cách cung cấp cho học sinh một số trang web thông dụng và 
chuẩn xác. 
15 
4. Một số vấn đề cần lưu ý khi sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học Địa lí 12 
- Để sử dụng SĐTD trong dạy học có hiệu quả, giáo viên cần nghiên cứu

Tài liệu đính kèm:

  • pdfsang_kien_kinh_nghiem_su_dung_so_do_tu_duy_trong_day_hoc_dia.pdf