SKKN Phương pháp thiết kế giáo án gắn với thực tiễn ở một số tiết của phân môn Tập làm văn thuộc chương trình Ngữ Văn THCS nhằm rèn kỹ năng làm văn cho học sinh

SKKN Phương pháp thiết kế giáo án gắn với thực tiễn ở một số tiết của phân môn Tập làm văn thuộc chương trình Ngữ Văn THCS nhằm rèn kỹ năng làm văn cho học sinh

Mỗi một ngành nghề, một công việc có những phương tiện đặc trưng để giúp người làm thực hiện công việc. Phương tiện càng tốt, càng đem lại hiệu quả tối ưu cho công việc giúp chúng ta hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Đối với giáo viên, phương tiện dạy học chính là giáo án (Thiết kế bài giảng, Lập kế hoạch bài dạy học, Bài soạn ), Giáo án là phương án thiết kế toàn bộ quá trình dạy học của giáo viên trong một tiết dạy.

Đối với bộ môn Ngữ Văn, giáo án cũng có những đặc thù riêng biệt. Ngoài việc tuân thủ kiến thức, kỹ năng chuẩn xác như các bộ môn khoa học xã hội lịch sử, địa lý, giáo dục công dân thì với mỗi bài giảng còn in đậm dấu ấn cá nhân của mỗi Thầy cô giáo. Đó là cách cảm, cách nghĩ riêng đối với từng tác phẩm mà mỗi thầy cô gửi gắm trong nội dung bài giảng đem đễn cho học sinh cách tiếp cận bài giảng phong phú, đa dạng. Trong thực tế, bộ môn Ngữ văn cấp trung học cơ sở hiện nay bao gồm 3 phân môn: Đọc hiểu văn bản (Văn học), Tiếng Việt và Tập làm văn. Ba phân môn này được xây dựng trên quan điểm tích hợp nên có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Tuy nhiên trong cách thức thiết kế và trình bày giáo án giữa phân môn Đọc hiểu văn bản và phân môn Tiếng Việt, Tập làm văn lại có những điểm khác nhau do mục tiêu khiến thức và phương pháp đặc thù của mỗi phân môn.

Phân môn Tập làm văn là môn học mang tính thực hành, vận dụng cao. Nhiệm vụ cơ bản của phân môn Tập làm văn là giúp học sinh tạo ra được các ngôn bản nói và viết theo các phong cách chức năng ngôn ngữ, hình thành và phát triển năng lực tạo lập ngôn bản - một năng lực được tổng hợp từ các kĩ năng theo một quy trình từ thấp đến cao: thực hành tìm hiểu về đặc điểm loại văn bản, phân tích đề, tìm ý, lập dàn ý, dựng đoạn – luyện nói, làm bài viết hoàn chỉnh Đối với học sinh bậc THCS, nhất là lớp 6,7, khi các em vừa chuyển từ bậc Tiểu học sang bậc THCS các em bắt đầu làm quen với kiến thức, kỹ năng của phân môn ở một mức độ cao hơn nhất là ở những kiểu văn bản mới và khó như Văn bản nghị luận, văn bản biểu cảm, văn bản thuyết minh thì thực tế cho thấy rất nhiều em cón lúng túng ngay từ kỹ những năng đơn giản nhất. Vậy giúp các em khắc phục hạn chế này không phải ai khác mà chính là giáo viên. Có nhiều con đường, giải pháp để khắc phục những nhược điểm trong lỗi kỹ năng của học sinh. Và một trong những con đường có hiệu quả nhất phải là xuất phát từ khâu thiết kế bài giảng của giáo viên.

 

doc 21 trang thuychi01 7871
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Phương pháp thiết kế giáo án gắn với thực tiễn ở một số tiết của phân môn Tập làm văn thuộc chương trình Ngữ Văn THCS nhằm rèn kỹ năng làm văn cho học sinh", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục
Trang
I. Mở đầu
2
1. Lí do chọn đề tài
2
2. Mục đích nghiên cứu
3
3. Đối tượng nghiên cứu
3
4. Phương pháp nghiên cứu
3
II. NỘI DUNG
3
1. Cơ sở lý luận:
3
1.1 Xuất phát từ những định hướng đổi mới giáo dục của Đảng và Nhà nước ta
3
1.2. Xuất phát từ vị trí, nhiệm vụ của dạy học Tập làm văn 
4
1.3. Xuất phát từ cơ sở nguyên tắc và phương pháp môn học: Dạy học Tập làm văn theo định hướng giao tiếp 
4
2. Cơ sở thực tiễn
5
2.1. Về phía giáo viên
5
2.2. Về phía học sinh
10
III. Giải pháp 
12
1. Nắm vững chất lượng đối tượng dạy học nhất là về kỹ năng.
12
2. Sử dụng tài liệu chính thống làm căn cứ để soạn giảng sử dụng tài liệu tham khảo sáng tạo, linh hoạt, hiệu quả.
12
3. Căn cứ vào nội dung bài học để tách phần, mục tạo mạch lạc rõ ràng.
15
4. Sử dụng linh hoạt ngữ liệu, hệ thống câu hỏi trong SGK.
15
5. Luôn luôn gắn với thực tiễn
17
IV. Kiểm nghiệm
19
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
19
1. Kết luận
19
2. Kiến nghị:
20
I. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Mỗi một ngành nghề, một công việc có những phương tiện đặc trưng để giúp người làm thực hiện công việc. Phương tiện càng tốt, càng đem lại hiệu quả tối ưu cho công việc giúp chúng ta hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Đối với giáo viên, phương tiện dạy học chính là giáo án (Thiết kế bài giảng, Lập kế hoạch bài dạy học, Bài soạn), Giáo án là phương án thiết kế toàn bộ quá trình dạy học của giáo viên trong một tiết dạy.
Đối với bộ môn Ngữ Văn, giáo án cũng có những đặc thù riêng biệt. Ngoài việc tuân thủ kiến thức, kỹ năng chuẩn xác như các bộ môn khoa học xã hội lịch sử, địa lý, giáo dục công dân  thì với mỗi bài giảng còn in đậm dấu ấn cá nhân của mỗi Thầy cô giáo. Đó là cách cảm, cách nghĩ riêng đối với từng tác phẩm mà mỗi thầy cô gửi gắm trong nội dung bài giảng đem đễn cho học sinh cách tiếp cận bài giảng phong phú, đa dạng. Trong thực tế, bộ môn Ngữ văn cấp trung học cơ sở hiện nay bao gồm 3 phân môn: Đọc hiểu văn bản (Văn học), Tiếng Việt và Tập làm văn. Ba phân môn này được xây dựng trên quan điểm tích hợp nên có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Tuy nhiên trong cách thức thiết kế và trình bày giáo án giữa phân môn Đọc hiểu văn bản và phân môn Tiếng Việt, Tập làm văn lại có những điểm khác nhau do mục tiêu khiến thức và phương pháp đặc thù của mỗi phân môn. 
Phân môn Tập làm văn là môn học mang tính thực hành, vận dụng cao. Nhiệm vụ cơ bản của phân môn Tập làm văn là giúp học sinh tạo ra được các ngôn bản nói và viết theo các phong cách chức năng ngôn ngữ, hình thành và phát triển năng lực tạo lập ngôn bản - một năng lực được tổng hợp từ các kĩ năng theo một quy trình từ thấp đến cao: thực hành tìm hiểu về đặc điểm loại văn bản, phân tích đề, tìm ý, lập dàn ý, dựng đoạn – luyện nói, làm bài viết hoàn chỉnhĐối với học sinh bậc THCS, nhất là lớp 6,7, khi các em vừa chuyển từ bậc Tiểu học sang bậc THCS các em bắt đầu làm quen với kiến thức, kỹ năng của phân môn ở một mức độ cao hơn nhất là ở những kiểu văn bản mới và khó như Văn bản nghị luận, văn bản biểu cảm, văn bản thuyết minhthì thực tế cho thấy rất nhiều em cón lúng túng ngay từ kỹ những năng đơn giản nhất. Vậy giúp các em khắc phục hạn chế này không phải ai khác mà chính là giáo viên. Có nhiều con đường, giải pháp để khắc phục những nhược điểm trong lỗi kỹ năng của học sinh. Và một trong những con đường có hiệu quả nhất phải là xuất phát từ khâu thiết kế bài giảng của giáo viên. 
Qua quá trình công tác nhiều năm, tôi nhận thấy một số các giáo viên do chủ quan, ngại khó nên chưa coi trọng đầu tư cho công tác soạn giảng phân môn Tập làm văn. Đa số giáo án sơ sài, đơn giản, chủ yếu phụ thuộc vào hệ thống câu hỏi trong SGK hoặc SGV. Đặc biệt là giáo án không có tính mạch lạc, rõ ràng, thiếu kiến thức liện hệ thực tiễn, nâng cao cho học sinh. Từ đó học sinh rất khó theo dõi bài giảng, không nhớ được kiến thức bài học dẫn đến kỹ năng vận dụng yếu
Với mục tiêu quan trọng của bộ môn Ngữ văn là hình thành các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết cho học sinh, tôi thiết nghĩ phân môn Tập làm văn chiếm một vai trò vị trí quan trọng. Trong đó kiểu văn bản nghị luận sẽ giúp các em có được tư duy mạch lạc lo gic, có tính ứng dụng cao trong thực tiễn đời sống. Muốn đạt được điều ấy thì một trong những khâu quan trọng nhất phải là xuất phát điểm từ công tác soạn bài của giáo viên. Thực tế đã chứng minh giáo án thiết kế như thế nào, kết quả bài học như vậy. Có một thiết kế giáo án phù hợp sẽ giúp học sinh dễ dàng theo dõi nội dung bài học, nhớ nhanh được kiến thức, từ đó sẽ vận dụng tốt góp phần hoàn thành mục tiêu giáo dục của phân môn và mục tiêu chung của môn học. Chính vì vậy tôi đã chọn đề tài Phương pháp thiết kế giáo án gắn với thực tiễn ở một số tiết của phân môn Tập làm văn thuộc chương trình Ngữ Văn THCS nhằm rèn kỹ năng làm văn cho học sinh. 
2. Mục đích nghiên cứu
Bằng kinh nghiêm thực tế, với đề tài này, mục đích của tôi là muốn chia sẻ đến đồng nghiệp phương pháp thiết kế giáo án gắn với liên hệ thực tiễn thuộc phân môn Tập làm văn của chương trình Ngữ Văn THCS. Giúp đồng nghiệp có thêm cách thức thiết kế bài dạy học đem lại hiệu quả cao cho tiết dạy của mình. Từ đó sẽ giúp học sinh nắm vững bài dạy và vận dụng thành thạo để tạo lập van bản.
3. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tổng hợp, tổng kết phương pháp thiết kế bài dạy phân môn Tập làm văn THCS của một số giáo viên Ngữ văn thuộc các đơn vị: Trường THCS Ngọc Khê, THCS Thị Trấn và THCS Lê Đình Chinh thuộc huyện Ngọc Lặc, tỉnh Thanh Hóa qua 2 tiết minh họa:
- Ngữ văn 7: Tiết 79 – Đặc điểm của văn bản nghị luận
- Ngữ văn 9: Tiết 118: Nghị luận về một tác phẩm truyện hoặc đoạn trích (Nghị luận về nhân vật Văn học)
4. Phương pháp nghiên cứu:
- PP nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết
- PP điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin
- PP thống kê, xử lý số liệu.
II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận:
1.1 Xuất phát từ những định hướng đổi mới giáo dục của Đảng và Nhà nước ta:
- Luật Giáo dục số - Điều 28 quy định: ” Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm; rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh.
- Nghị quyết hội nghị trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo: ” Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt, một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực”
- Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2011-2020 ban hành kèm theo quyết định 711/QĐ-TTg ngày 13/6/2012 của thủ tướng chính phủ chỉ rõ: ” Tiếp tục đổi mới phương pháp dạy học và đánh giá kết quả học tập, rèn luyện theo hướng phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo và năng lục tự học của người học.”
- Trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 12 của Đảng cũng nhấn mạnh: Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực.
1.2. Xuất phát từ vị trí, nhiệm vụ của dạy học Tập làm văn 
1.2.1. Vị trí của dạy học Tập làm văn 
Tập làm văn được hiểu là tập sản sinh, tạo lập ngôn bản. Dạy Tập làm văn là dạy các kiến thức và kĩ năng giúp học sinh tạo lập, sản sinh ra ngôn bản. Phân môn Tập làm văn có vai trò, vị trí quan trọng trong việc hoàn thiện và nâng cao dần các kĩ năng sử dụng tiếng Việt đã được hình thành, xây dựng ở các phân môn khác. Nhờ quá trình vận dụng các kĩ năng để tạo lập, sản sinh văn bản trong dạy học Tập làm văn trở thành một công cụ sinh động trong quá trình học tập và giao tiếp của học sinh tiểu học. 
1.2.2. Nhiệm vụ của dạy học Tập làm văn 
Nhiệm vụ cơ bản của phân môn Tập làm văn là giúp học sinh tạo ra được các ngôn bản nói và viết theo các phong cách chức năng ngôn ngữ, hình thành và phát triển năng lực tạo lập ngôn bản - một năng lực được tổng hợp từ các kĩ năng bộ phận như: xác định mục đích nói, lập ý, triển khai ý thành lời (dạng nói, viết bằng câu, đoạn, bài). Nhiệm vụ cụ thể của phân môn Tập làm văn bao gồm: 
- Cung cấp kiến thức và hình thành, phát triển các kĩ năng bộ phận, góp phần hình thành và phát triển năng lực tạo lập, sản sinh ngôn bản. 
- Cung cấp tri thức về các dạng nghi thức lời nói, rèn kĩ năng nói theo các nghi thức đó. 
- Rèn kĩ năng nói, viết các ngôn bản thông thường và một số văn bản nghệ thuật. 
- Rèn các kĩ năng đặc thù phù hợp với mỗi dạng bài, kiểu bài Tập làm văn (kĩ năng quan sát trong văn tả, kể; kĩ năng xây dựng cốt truyện, chi tiết, tình tiết trong văn kể chuyện...). 
- Ngoài ra, phân môn Tập làm văn cũng góp phần rèn luyện tư duy (tư duy hình tượng, tư duy logic, kĩ năng phân tích - tổng hợp - phân loại - lựa chọn) và hình thành nhân cách (lịch sự, khuôn mẫu trong giao tiếp; bồi dưỡng tình cảm đẹp và vốn sống...) cho học sinh.
1.3. Xuất phát từ cơ sở nguyên tắc và phương pháp môn học: Dạy học Tập làm văn theo định hướng giao tiếp 
1.3.1. Những nguyên tắc dạy học cơ bản
* Nguyên tắc hướng vào hoạt động giao tiếp
* Nguyên tắc rèn luyện ngôn ngữ gắn liền với rèn luyện tư duy
* Nguyên tắc tận dụng những kinh nghiệm sử dụng tiếng Việt của học sinh
* Nguyên tắc so sánh và hướng tới hai dạng nói và viết
* Nguyên tắc đảm bảo mối quan hệ hữu cơ giữa dạy học tri thức và rèn luyện kỹ năng.
* Nguyên tắc vận dụng quan điểm tích hợp trong quá trình dạy học
1.3.2. Các phương pháp dạy học tập làm văn:
* Phương pháp giao tiếp 
* Phương pháp nêu vấn đề
* Phương pháp thảo luận nhóm
* Phương pháp thực hành, luyện tập
2. Cơ sở thực tiễn
2.1. Về phía giáo viên
2.1.1. Khảo sát thực tiễn:
Để chuẩn bị một tiết dạy bao gồm nhiều khâu từ thiết kế bài, tài liệu tham khảo, hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài, phương tiện thiết bị, đồ dùng dạy họcNhưng trong đó khâu thiết kế bài là quan trọng nhất bởi nó là phương tiện cơ bản hình thành kiến thức và kỹ năng cho học sinh trong một tiết dạy. Phân môn Tập làm văn là một môn học có tính đặc thù gắn với thực tiễn cao, kể cả tiết cung cấp lý thuyết cũng không bao giờ tách rời thực tiễn. Tuy nhiên đây là một phân môn khó cho nên trong hoạt động thiết kế bài giảng của giáo viên còn nhiều tồn tại. 
Sau đây là bảng khảo sát thực trạng thiết kế bài dạy học của 7 giáo viên bộ môn Ngữ văn thuộc các trường THCs Lê Đình Chinh, THCS Ngọc Khê và THCS Thị Trấn huyện Ngọc Lặc
Nội dung
Số lượng
Tuân thủ 100% hệ thống câu hỏi SGK
Gắn với thực tiễn
Có sáng tạo linh hoạt tiến trình
Đúng đặc trưng phương pháp tiết dạy
Có mở rộng, nâng cao, tích hợp
07
06
02
02
02
03
- Ví dụ minh họa: 
Tiết 118: Ngữ văn 9: Nghị luận về một tác phẩm truyện hoặc đoạn trích
Hoạt động của Thầy và Trò 
Nội dung bài học 
Hoạt động 1
- HS đọc văn bản mẫu ở SGK.
?Vấn đề nghị luận của bài văn là gì .
? Hãy đặt một nhan đề thích hợp cho văn bản ? ( các nhóm hoạt động ) 
(Hoặc là):
+ Hình ảnh anh thanh niên làm công tác khí tượng kiêm vật lí địa cầu trong " Lặng lẽ Sa Pa" của Nguyễn Thành Long 
+ Vẻ đẹp , lối sống , tình người trong " Lặng lẽ Sa Pa " của Nguyễn Thành Long 
?Người viết đã triển khai vấn đề nghị luận qua những luận điểm nào ? 
? Tìm những câu nêu lên hoặc cô đúc luận điểm của văn bản ? 
?Để khẳng định các luận điểm, người viết đã lập luận( dẫn dắt , phân tích, chứng minh ) như thế nào ? 
 GV: Chia lớp thành 3 nhóm thảo luận 3 luận điểm đại diện nhóm trình bày)
 ( GV : ghi vào bảng phụ cho HS quan sát các luận điểm )
? Nhận xét về các hình thức luận điểm, luận cứ trong bài văn ?
GV: Luận cứ, luận điểm rõ ràng, phù hợp, ngắn gọn. Biết chọn lựa những chi tiết tiêu biểu trong truyện để làm dẫn chứng.
+ Bài viết có sự mạch lạc: nêu vấn đề nghị luận -> trình bày hệ thống luận điểm, luận cứ rõ ràng, rành mạch , nhất quán rồi khái quát, nâng cao vấn đề nghị luận .
 ? Em có nx gì về bố cục của VB ?
? Qua tìm hiểu văn bản mẫu em hãy cho biết thế nào là nghị luận về tác phẩm truyện hoặc đoạn trích ? 
 Nhận xét đúng nhân vật, dựa vào đặc điểm tính cách nhân vật, ý nghĩa nhân vật, phải có luận cứ, luận chứng. Lời văn chính xác .
? Khi viết một bài văn nghị luận về một tác phẩm truyện hoặc đoạn trích cần chú ý những yêu cầu gì ?
 Học sinh đọc to ghi nhớ SGK .
Giáo viên lưu ý, nhấn mạnh một số điểm trong ghi nhớ .
Hoạt động 3
Học sinh đọc đoạn văn , suy nghĩ lần lợt trả lời các câu hỏi ở SGK .
I. Tìm hiểu bài nghị luận về tác phẩm truyện (đoạn trích)
 1. Văn bản: sgk
- Vấn đề nghị luận: Vẻ đẹp của nhân vật anh thanh niên trong “ Lặng lẽ sa Pa” của Nguyễn Thành Long.
 - Nhan đề:
+ Sức mạnh của niềm đam mê.
+ Một vẻ đẹp nơi lặng lẽ Sa Pa.
- Hệ thống luận điểm :
* Các câu nêu vấn đề nghị luận : 
" Dù được miêu tả ......... khó phai mờ " 
* Các câu nêu luận điểm: 
+ Câu 1 ở đầu đoạn 2: Trước tiên nhân vật anh thanh niên này .... của mình .
+ Câu 2 ở đoạn 3: " Nhng anh thanh niên này ..... chu đáo " .
+ Câu 1 ở đoạn 4 : Công việc vất vả ..... rất khiêm tốn .
* Câu cô đúc luận điểm : 
Cuộc sống ......... tin yêu -> cuối đoạn .
- Cách lập luận :
+ Vừa phân tích + giải thích + chứng minh vẻ đẹp của anh thanh niên .
- LĐ1: Anh thanh niên đẹp ở tấm lòng.
+ H/cảnh sống.
+ Công việc: cần phải tỉ mỉ chịu khó.
+ Yêu công việc .
+ Lo toan tổ chức cuộc sống.
LĐ2: Nhưng anh thanh niên...
+ Vui được đón khách, nhiệt tình ân cần chu đáo .
+ Say sưa kể về công việc của mình .
+ Đón mọi ngời đến thăm, biếu tam thất, tặng hoa.
LĐ3: Công việc vất vả...
+ Thấy đóng góp của mình là nhỏ bé 
+ Từ chối vẽ chân dung mình, giới thiệu vẽ ngời khác.
=> Luận cứ, luận điểm rõ ràng, ngắn gọn, gợi được ở người đọc sự chú ý .
- Bố cục của VB : 3 phần rõ ràng dẫn dắt tự nhiên .
2. Ghi nhớ 1: SGK
2.1.2. Phân tích thực trạng:
a. Thiết kế bài dạy học tuân thủ máy móc hệ thống câu hỏi trong sách giáo khoa, thiếu hệ thống các câu hỏi dẫn dắt phát hiện kỹ năng.
- Sách giáo khoa, sách giáo viên là các tài liệu chính thống mà giáo viên cần căn cứ vào để soạn bài. Đây là hai tài liệu quan trọng. SGK giúp giáo viên hiểu được đích của tiết dạy (kết quả cần đạt), nội dung bài học. Còn SGV giúp định hướng phương pháp, nội dung kiến thức cần truyền tải, có những bài SGV còn cung cấp kiến thức bổ trợ rất hữu ích cho GV có thể mở rộng, nâng cao hoặc bổ sung kiến thức cho bài dạy.
- Tuy nhiên nhiều GV không hiểu rằng SGK và SGV chỉ có tính định hướng, gợi ý hướng dẫn. Nhất là hệ thống câu hỏi trong SGK chủ yếu là để phục vụ việc tìm hiểu bài của học sinh. Tất nhiện Gv vẫn phải sử dụng hệ thống câu hỏi đó để thiết kế bài giảng nhưng cần linh hoạt sáng tạo.
- Thực tế khảo sát cho thấy: Trong số 07 thiết kế bài giảng thì có tới 06 thiết kế bài giảng sử dụng 100% số lượng câu hỏi trong SGK mà GV không có sự linh hoạt thay đổi, thêm, bớt. Rõ ràng trong thực tế, có nhiều câu hỏi trong sách SKG mang tính chất tổng hợp, thường khó đối với HS. Nếu GV không biết thêm các câu dẫn dắt thì rất khó để hướng dẫn học sinh phát hiện rút ra kỹ năng làm bài. Vì thế tập làm văn không còn là tập làm nữa. Khi áp dụng vào thực tế, các em lúng túng không có gì để soi sáng, dẫn đường. Lý thuyết tập làm vô hình chung đã không cón tác dụng nữa.	
b. Đa số GV trung thành với tiến trình của hệ thống câu hỏi trong SGK nên bố cục thiết kế bài học không rõ ràng đặc trưng phương pháp giảng dạy phân môn.
- Phương pháp dạy phân môn tập làm văn đối với những tiết lý thuyết là quy nạp. Tức là từ khai thác bài học của GV mà học sinh có thể rút ra nội dung bài học.
- Thực tế lại không như vậy. Ví dụ như giáo án minh họa trên, giáo viên đã tuân thủ 100% trình tự các câu hỏi trong sánh giáo khoa. Vì thế sau khi học bài xong, nếu muốn đặt câu hỏi để học sinh tự rút ra phần ghi nhớ - nội dung bài học trong sách giáo khoa thì học sinh chỉ nhìn sgk mới trả lời được. Nếu nhìn lên bảng- phần khai thác bài học của GV thì HS không trả lời được. Như vậy, tính quy nạp đã bị mất đi. Việc rút ra bài học của HS nhiều khi áp đặt, khiên cưỡng thiếu cơ sở từ bài dạy của GV. Điều đó cũng có nghĩa là việc khai thác ví dụ không còn tác dụng. Tiết dạy lý thuyết cũng không đạt được mục tiêu.
Ví dụ: Nếu theo tiến trình câu hỏi như gáo án minh họa trên, sau khi dạy xong GV hỏi: Vậy qua bài học em hiểu thế nào là nghị luận về tác phẩm truyện hoặc đoạn trích thì rõ ràng học sinh không trả lời được.
c. GV thiếu linh hoạt, sáng tạo trong thiết kế bài dạy.
 Có lẽ do tuân thủ tiến trình và sử dụng 100% hệ thống câu hỏi trong SGK nên đó là nguyên nhân thiết kế bài học thiếu tính sáng tạo:
+ Thiếu tính sáng tạo trong bố cục nội dung bài học: Rõ ràng đối với bài học trên có hai phần đơn vị kiến thức:
- Thứ nhất: Khái niệm kiểu bài nghị luận về tác phẩm truyện hoặc đoạn trích
- Thứ hai: Yêu cầu của kiểu bài
GV không tách rõ hai đơn vị kiến thức nên dẫn đến bố cục bài học thiếu mạch lạc, rõ ràng. Gv không chốt được phần nhận xét của ví dụ. Vì thế học sinh cũng sẽ khó rút ra được khái niệm của bài học.
+ Không mạnh dạn thay đổi tiến trình câu hỏi: Có những tiết dạy, GV không sắp xếp lại tiến trình hệ thống câu hỏi trong SGK do đó không tạo được sự logic trong mối quan hệ với nội dung bài học rút ra từ ghi nhớ SGK.
+ Không mạnh dạn bổ sung hệ thống câu hỏi: Bao gồm các câu hỏi gắn với kỹ năng, câu hỏi dẫn dắt, câu hỏi nâng cao, mở rộng...Vì vậy thiết kế bài dạy học kém sinh động không hiệu quả. Ví dụ giáo án minh họa trên thiếu hệ thống câu hỏi dẫn dắt rút ra khái niệm (? Nghị luận về tác phẩm truyện hoặc đoạn trích là gì?)
+ Không mạnh dạn thay đổi, bổ sung ngữ liệu: Vẫn biết khi xây dựng chương trình SKG các nhà viết sách đã có sự nghiên cứu, lựa chọn kỹ càng hệ thống ngữ liệu. Tuy nhiên trong một số bài, một số tiết, khi ngữ liệu khó hoặc chưa đủ để hình thành kiến thức bài học thì GV có thể mạnh dạn thay đổi, bổ sung ngữ liệu đảm bảo phù hợp với đối tượng và nội dung bài học.
Ví dụ: Như tiết 118-Ngữ văn 9. GV có thể bổ sung thêm các dạng đề để rút ra khái niệm như sau: (Giáo án của GV Tô Thị Hiền – Trường THCS Lê Đình Chinh-Năm học 2015-2016)
HOẠT ĐỘNG CỦA GV VÀ HS
NỘI DUNG BÀI HỌC
Hoạt động 1: Tìm hiểu bài nghị luận về một tác phẩm truyện hoặc đoạn trích
* Gv treo ví dụ ghi ví dụ cho hs quan sát
+ Có một số bài văn bàn về các vấn đề sau:
1) Vẻ đẹp của nhân vật anh thanh niên trong “ Lặng lẽ Sa Pa” của NTL
2) Nghệ thuật xây dựng tình huống trong truyện ngắn Làng của KL
3.Chi tiết bé Thu (Truyện Chiếc lược ngà- Nguyễn Quang Sáng) không nhận cha (Khi anh Sáu đi kháng chiến trở về thăm nhà) gợi cho em suy nghĩ gì?
4) Phân tích Chiếc lược Ngà để làm nổi bật chủ đề của tác phẩm.
? Những yếu tố nào của tác phẩm truyên (của đoạn trích ) trở thành vấn đề nghị luận trong các bài văn trên ?
? Gắn với yêu cầu của kiểu bài Nghị luận thì trước những vấn đề như vậy người viết sẽ phải làm gì để làm rõ yêu cầu của đề?
? Vậy qua đó em hiểu thế nào là nghị luận về tác phẩm truyện hoặc đoạn trích?
1. Thế nào là nghị luận về tác phẩm truyện hoặc đoạn trích.
a) Ví dụ
+ Yếu tố: nhân vật, nghệ thuật, sự kiện, chủ đề của tác phẩm.
+ Người viết trình bày suy nghĩ, nhận xét, đánh giá của mình về các yếu tố trên.
=> Trình bày những suy nghĩ, nhận xét,đánh giá của mình về nhân vật, sự kiện, chủ đềcủa tác phẩm -> Nghị luận về tác phẩm truyện hoặc đoạn trích.
b) Ghi nhớ: ý 1 (sgk)
Như vậy là sau khi GV bổ sung phần ngữ liệu và dẫn dắt học sinh tìm hiểu, thì các em sẽ dễ dàng rút ra khía niệm về kiểu bài. Còn nếu như cứ theo tiến trình trong SGK thì các em sẽ khó rút ra khái niệm một cách hoàn chỉnh. Như vậy, đối với từng bài học, GV càn mạnh dạn, sáng tạo trong thiết kế bài dạy học để tạo tính mạch lạc, dễ hiểu, sát với nội dung bài học. Giúp học sinh nhận diện khiến thức một cách rõ ràng. Điều đó cúng giúp các em hiểu lý thuyết và vận dụng vào tạo lập văn bản hiệu quả hơn.
d. Các thiết kế bài dạy của giáo viên thiếu kiến thức mở rộng, nâng cao, tích hợp.
- Hiện nay, theo quy định mục tiêu của môn học, khi thiết kế bài dạy học GV cần bám sát chuẩn kiến thức, kỹ

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_phuong_phap_thiet_ke_giao_an_gan_voi_thuc_tien_o_mot_so.doc