SKKN Phương pháp dạy học thực nghiệm bài “Thực hành: Lên men etilic và lactic” nhằm góp phần nâng cao hứng thú và hiệu quả học tập môn Sinh học ở trường THPT Lê Lợi
"Giáo dục là quốc sách hàng đầu'' - đó là phương châm của Đảng và Nhà nước ta. Giáo dục nước ta luôn được cải cách để nâng cao chất lượng toàn diện. Và trong đó, đổi mới phương pháp dạy học là vấn đề them chốt, đã và đang đạt được nhiều bước tiến mới.
Dạy học thực nghiệm được xem là một trong những phương pháp dạy học tích cực mang tính thực tiễn đạt hiệu quả cao nhất. Phương pháp thực nghiệm đang được áp dụng rộng rãi ở các nước trong khu vực và trên thế giới, với phương châm "học đi đôi với hành”, “lí luận gắn liền với thực tiễn", “lí thuyết không xa dời thực tiễn”. Đây là phương pháp giúp học sinh có thể trực tiếp khám phá, tự mình tìm ra bản chất và giải thích các sự vật, hiện tượng diễn ra xung quanh dựa trên những hiểu biết của mình. Thực hành giúp học sinh khám phá sự vật hiện tượng cụ thể, thực tế gắn với các kiến thức đã học.Từ đó các em hiểu rõ bản chất kiến thức đã học và có thể ứng dụng linh hoạt trong cuộc sống.
Nhiều trường Trung học phổ thông (THPT) trên cả nước đang gặp rất nhiều khó khăn trong việc dạy học các tiết dạy thực hành ở tất cả các môn. Nguyên nhân là do ở một vài bài thực hành, các nguyên liệu thí nghiệm còn hạn chế, không phù hợp với từng địa phương, từng vùng miền, từng thời điểm thí nghiệm; các mẫu vật, dụng cụ và hóa chất chưa đáp ứng đủ cho các bài thực hành; cách thức tiến hành thí nghiệm phức tạp, không đảm bảo thời lượng cho một tiết học, có những bài học có quá nhiều thí nghiệm.
Sinh học là một trong những môn khoa học tự nhiên thực nghiệm. Dạy học thực hành trong môn Sinh học là một tất yếu đang được quan tâm. Kiến thức sinh học rất đa dạng và phong phú, để tìm hiểu rõ bản chất của kiến thức đòi hỏi phải tiến hành nhiều thí nghiệm khác nhau.
Qua kinh nghiệm dạy học, tôi thấy, hầu hết học sinh đều rất thích làm thực hành, kể cả những nội dung phải giao việc về nhà trước hoặc sau tiết thực hành. Trong tiết học đó các em không phải “nhồi nhét” kiến thức mà vẫn tự mình chiếm lĩnh tri thức, mang lại hiệu quả học tập cao.
MỤC LỤC Trang Mục lục 1 PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ 3 I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI 3 II. MỤC ĐÍCH CỦA VIỆC THỰC HIỆN ĐỀ TÀI 4 III. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU 4 IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 4 PHẦN II. NỘI DUNG 5 Chương I. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI 5 1. Khái niệm Sinh học 5 2. Thí nghiệm sinh học 5 2.1. Thí nghiệm sinh học là gì? 5 2.2. Phân loại thí nghiệm sinh học 5 2.3. Yêu cầu khi tiến hành thí nghiệm sinh học 6 2.4. Vai trò, vị trí của giáo viên và học sinh trong tiết thực hành, thí nghiệm 6 3. Phương pháp thực hành thí nghiệm 6 3.1. Bản chất 6 3.2. Vai trò 6 3.3. Yêu cầu 6 Chương II. THỰC TRẠNG DẠY HỌC THỰC HÀNH Ở TRƯỜNG THPT 7 1.Thực trạng về cơ sở vật chất 7 2. Thực trạng dạy học thực hành trong dạy học Sinh học ở trường THPT 7 Chương III. GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ. 9 I. THUYẾT MINH TÍNH MỚI CỦA ĐỀ TÀI 9 II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP CỦA ĐỀ TÀI 9 1. THIẾT KẾ GIÁO ÁN 9 A. MỤC TIÊU DẠY HỌC 9 1. Kiến thức 9 2. Kĩ năng 9 3. Thái độ 10 4. Các năng lực cần hướng tới 10 B. PHƯƠNG TIỆN DẠY HỌC 11 C. PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC 11 D. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC 11 1. Chuyển giao nhiệm vụ học tập ở nhà 11 2. Hoạt động dạy học 12 Chương IV. HIỆU QUẢ THỰC HIỆN ĐỀ TÀI. 16 1. Kết quả thực nghiệm 16 1.1. Xử lí số liệu bằng thống kê toán học 16 1.2. Đánh giá kết quả 16 2. Phạm vi ảnh hưởng của đề tài 17 2.1. Tới các cấp quản lí 17 2.2. Tới giáo viên 17 2.3. Tới học sinh 17 PHẦN III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ 18 I. KẾT LUẬN 18 II. KIẾN NGHỊ 18 a. Với các cấp quản lí 18 b. Với giáo viên bộ môn Sinh học. 18 TÀI LIỆU THAM KHẢO 19 DANH MỤC CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP SỞ GD&ĐT XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN 20 Phụ lục 1: Phiếu học tập 21 Phụ lục 2: Một số hình ảnh hoạt động học tập 22 PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI "Giáo dục là quốc sách hàng đầu'' - đó là phương châm của Đảng và Nhà nước ta. Giáo dục nước ta luôn được cải cách để nâng cao chất lượng toàn diện. Và trong đó, đổi mới phương pháp dạy học là vấn đề them chốt, đã và đang đạt được nhiều bước tiến mới. Dạy học thực nghiệm được xem là một trong những phương pháp dạy học tích cực mang tính thực tiễn đạt hiệu quả cao nhất. Phương pháp thực nghiệm đang được áp dụng rộng rãi ở các nước trong khu vực và trên thế giới, với phương châm "học đi đôi với hành”, “lí luận gắn liền với thực tiễn", “lí thuyết không xa dời thực tiễn”. Đây là phương pháp giúp học sinh có thể trực tiếp khám phá, tự mình tìm ra bản chất và giải thích các sự vật, hiện tượng diễn ra xung quanh dựa trên những hiểu biết của mình. Thực hành giúp học sinh khám phá sự vật hiện tượng cụ thể, thực tế gắn với các kiến thức đã học.Từ đó các em hiểu rõ bản chất kiến thức đã học và có thể ứng dụng linh hoạt trong cuộc sống. Nhiều trường Trung học phổ thông (THPT) trên cả nước đang gặp rất nhiều khó khăn trong việc dạy học các tiết dạy thực hành ở tất cả các môn. Nguyên nhân là do ở một vài bài thực hành, các nguyên liệu thí nghiệm còn hạn chế, không phù hợp với từng địa phương, từng vùng miền, từng thời điểm thí nghiệm; các mẫu vật, dụng cụ và hóa chất chưa đáp ứng đủ cho các bài thực hành; cách thức tiến hành thí nghiệm phức tạp, không đảm bảo thời lượng cho một tiết học, có những bài học có quá nhiều thí nghiệm. Sinh học là một trong những môn khoa học tự nhiên thực nghiệm. Dạy học thực hành trong môn Sinh học là một tất yếu đang được quan tâm. Kiến thức sinh học rất đa dạng và phong phú, để tìm hiểu rõ bản chất của kiến thức đòi hỏi phải tiến hành nhiều thí nghiệm khác nhau. Qua kinh nghiệm dạy học, tôi thấy, hầu hết học sinh đều rất thích làm thực hành, kể cả những nội dung phải giao việc về nhà trước hoặc sau tiết thực hành. Trong tiết học đó các em không phải “nhồi nhét” kiến thức mà vẫn tự mình chiếm lĩnh tri thức, mang lại hiệu quả học tập cao. Tuy nhiên, hiện nay, tại các trường THPT nhiều học sinh có xu hướng chọn môn học hướng về các tổ hợp môn thuộc các khối A, A1, D nhiều hơn, ít em chọn tổ hợp môn thi có môn Sinh học. Do đó, các em ít chú ý đến môn không theo tổ hợp xét tuyển Đại học, Cao đẳng của mình, vì các em quan niệm “Thi gì, học nấy”. Chính điều này đã làm giảm hứng thú học tập của các em ở các tiết học thuộc các môn không xét tuyển, trong đó có môn Sinh học. Thái độ học tập của học sinh cũng làm giảm hứng thú của giáo viên khi lên lớp. Cũng vì vậy, nhiều người không muốn cho học sinh lên phòng thực hành để thực hiện các bài thực hành trong phân phối chương trình vì nhiều lí do khác nhau. Tiết thực hành trở thành tiết “nghỉ ngơi”, học sinh càng giảm hứng thú học tập bộ môn. Từ những trải nghiệm thực tế qua nhiều năm dạy học và kết quả đạt được trong công tác dạy học THPT, tôi mạnh dạn chọn đề tài: “Phương pháp dạy học thực nghiệm bài “Thực hành: Lên men etilic và lactic” nhằm góp phần nâng cao hứng thú và hiệu quả học tập môn Sinh học ở trường THPT Lê Lợi”. II. MỤC ĐÍCH CỦA VIỆC THỰC HIỆN ĐỀ TÀI - Nghiên cứu cơ sở lí luận và thực tiễn của việc dạy học thực hành Sinh học ở trường THPT, từ đó đề xuất một số phương pháp dạy học có hiệu quả khi dạy bài 24 “Thực hành: Lên men etilic và lactic” – sách giáo khoa Sinh học 10 Cơ bản. - Sử dụng các phương pháp thực hành thí nghiệm để thiết kế tiến trình dạy học bài thực hành theo hướng tổ chức hoạt động học cho học sinh nhằm nâng cao hứng thú và hiệu quả học tập bộ môn Sinh học tại trường THPT. - Đánh giá tính khả thi của đề tài thông qua khả năng nhận thức của học sinh và hiệu quả của các phương án thực hành. III. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU 1. Đối tượng nghiên cứu: - Đối tượng: Bài Thực hành: Lên men etilic và lactic - chương trình Sinh học 10 Cơ bản. - Khách thể: Học sinh lớp 10A6, 10A11 Khóa học 2018 - 2021 Trường THPT Lê Lợi. 2. Phạm vi nghiên cứu: - Đề tài chỉ nghiên cứu Bài Thực hành: Lên men etilic và lactic - chương trình Sinh học 10 Cơ bản. - Nghiên cứu và đổi mới một số phương pháp, đối tượng, dụng cụ thí nghiệm và các phương án thực hành cho phù hợp với thực tiễn. IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1. Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết Thu thập, nghiên cứu và hệ thống lại các tài liệu có liên quan đến đề tài để làm cơ sở nghiên cứu và thực nghiệm. 2. Phương pháp thực nghiệm sư phạm - Tiến hành thực hành bài thực hành thuộc chương trình Sinh học 10 theo những cách khác nhau. - Khảo sát tính khả thi của các thí nghiệm thực hành. 3. Phương pháp phân tích, đánh giá kết quả, thống kê xử lí số liệu Xử dụng công thức toán thống kê để xử lí số liệu thu thập được nhằm đánh giá kết quả thực nghiệm. 4. Phương pháp viết báo cáo khoa học. PHẦN II. NỘI DUNG Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI 1. Khái niệm Sinh học. Sinh học hay là Sinh vật học là một môn khoa học về sự sống (từ tiếng Anh: biology bắt nguồn từ Hy Lạp với bios là sự sống và logos là môn học).[1] Sinh học là một nhánh của khoa học tự nhiên, tập trung nghiên cứu các cá thể sống, mối quan hệ giữa chúng với nhau và với môi trường. Nó miêu tả những đặc điểm và tập tính của sinh vật, ví dụ: cấu trúc, chức năng, sự phát triển, môi trường sống, cách thức các cá thể và loài tồn tại ví dụ: nguồn gốc, sự tiến hóa và phân bổ của chúng [1]. Sinh học bao hàm nhiều ngành học khác nhau được xây dựng dựa trên những nguyên lý riêng. Có 4 nguyên lý tạo thành nền tảng cho sinh học hiện đại: lý thuyết tế bào, tiến hóa, di truyền và cân bằng nội môi. Các môn học này có mối quan hệ qua lại với nhau, giúp ta hiểu về sự sống với các mức độ, phạm vi khác nhau. Sinh học là khoa học thực nghiệm, để lĩnh hội các kiến thức Sinh học, cần thực hành, thí nghiệm.[1] 2. Thí nghiệm sinh học. 2.1. Thí nghiệm sinh học là gì? Thí nghiệm sinh học là mô hình nhân tạo, mô phỏng quá trình cơ chế sinh học để qua đó con người hiểu biết bản chất của các hiện tượng, đối tượng sống.[2] - Thí nghiệm là mô hình đại diện cho hiện thực khách quan, là cơ sở xuất phát của quá trình nhận thức. Thí nghiệm sinh học là một trong những phương pháp trong nhóm trực quan và thực hành, là phương pháp có ý nghĩa rất quan trọng trong dạy học Sinh học.[2] - Thí nghiệm là cầu nối giữa lí thuyết với thực tiễn. Vì vậy, thí nghiệm là phương tiện duy nhất giúp học sinh hình thành kĩ năng, kĩ xảo thực hành và tư duy kĩ thuật: + Kĩ năng sử dụng và bảo quản các dụng cụ thí nghiệm.[2] + Kĩ năng tiến hành thí nghiệm: xử lí mẫu vật, sử dụng hóa chất và dụng cụ, quan sát, so sánh, ...[2] + Kĩ năng phân tích, so sánh các hiện tượng xảy ra trong thí nghiệm.[2] + Kĩ năng sử dụng các phương pháp thống kê, xử lí kết quả thí nghiệm và rút ra kết luận.[2] - Thí nghiệm sinh học giúp học sinh tìm hiểu bản chất của các hiện tượng hay quá trình sinh học.[2] - Thí nghiệm sinh học có thể sử dụng để tổ chức các hoạt động nhận thức của học sinh với các mức độ tích cực, tự lực và sáng tạo khác nhau như thông báo, tái hiện, tìm tòi, nghiên cứu...[2] 2.2. Phân loại thí nghiệm sinh học [5] a. Căn cứ vào mục đích sử dụng thí nghiệm, thí nghiệm được phân thành 3 loại: - Thí nghiệm chứng minh: có vai trò minh họa cho lời giảng của giáo viên. - Thí nghiệm nghiên cứu: có vai trò là nguồn dẫn đến tri thức mới cho học sinh. - Thí nghiệm thực hành: có vai trò củng cố tri thức, rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo cho học sinh.[5] b. Căn cứ vào chủ thể tiến hành thí nghiệm, thí nghiệm được phân thành 2 loại: - Thí nghiệm do thầy cô và phụ tá thí nghiệm thực hiện. - Thí nghiệm do họ sinh thực hiện.[5] c. Căn cứ vào thời gian, địa điểm tiến hành, thí nghiệm được chia thành 2 loại: - Thí nghiệm được chuẩn bị sẵn ở nhà. - Thí nghiệm được tiến hành trong tiết thực hành trên lớp.[5] 2.3. Yêu cầu khi tiến hành thí nghiệm sinh học [5] - Trước khi tiến hành thí nghiệm, giáo viên phải chỉ rõ mục đích thí nghiệm, vai trò của các dụng cụ, hóa chất và mẫu vật thí nghiệm. - Thí nghiệm thực hành phải đơn giản, phù hợp với điều kiện ở trường, địa phương, dễ tiến hành, vừa sức với học sinh. - Thời gian thí nghiệm phải hợp lí, hạn chế kéo dài thí nghiệm quá thời lượng cho phép của một tiết học. - Số học sinh tham gia vào nhóm thực hành phù hợp với từng bài thực hành. - Sau khi tiến hành thí nghiệm phải tổ chức cho học sinh thảo luận dựa trên kết quả quan sát và trả lời các câu hỏi đã nêu ra từ trước. - Những kết luận của học sinh phải được giáo viên bổ sung và hoàn thiện.[5] 2.4. Vai trò, vị trí của giáo viên và học sinh trong tiết thực hành, thí nghiệm - Giáo viên là người hướng dẫn, tổ chức cho học sinh hoạt động, giúp học sinh tự tìm ra kết luận và ghi nhớ. Giáo viên chỉ là người cố vấn, theo dõi, giám sát các hoạt động học của học sinh. - Học sinh ở vị trí người nghiên cứu, sau khi nhận biết được mục tiêu của tiết thực hành, học sinh hoạt động nhóm để tiến hành thực hành thí nghiệm dưới sự hướng dẫn của giáo viên, chủ động hoạt động chiếm lĩnh tri thức. 3. Phương pháp thực hành thí nghiệm 3.1. Bản chất Thí nghiệm thực hành do học sinh tự tiến hành theo hướng dẫn của giáo viên hoặc do giáo viên tiến hành để học sinh quan sát để hình thành kiến thức mới hoặc củng cố hoàn thiện tri thức, rèn luyện kĩ năng.[5] 3.2. Vai trò - Thực hành cho phép học sinh đi sâu tìm hiểu bản chất của vấn đề cần được nghiên cứu nên có tác dụng giúp học sinh nắm vững và khắc sâu kiến thức. - Trong khi tiến hành thực hành, học sinh phải trực tiếp tác động vào đối tượng, chủ động thay đổi các điều kiện thí nghiệm,... Vì vậy, ngoài tác dụng về mặt trí dục, thực hành còn có tác dụng rèn luyện một số kĩ năng như: kĩ năng lắp ráp dụng cụ thí nghiệm, kĩ năng thao tác thực hành trên đối tượng nghiên cứu.[5] 3.3. Yêu cầu - Để thực hành thu được kết quả tốt, giáo viên cần xác định rõ mục đích yêu cầu, hướng dẫn cách thức tiến hành, theo dõi, thu thập số liệu, phân tích kết quả. - Yêu cầu học sinh viết bài tường trình về bài thực hành để đánh giá mức độ lĩnh hội tri thức của các em. Chương II. THỰC TRẠNG DẠY HỌC THỰC HÀNH Ở TRƯỜNG THPT 1. Thực trạng về cơ sở vật chất Những năm gần đây, thiết bị dạy học đã và đang được quan tâm hơn đáp ứng nhu cầu dạy học ở các trường THPT. Tuy vậy, thực trạng thiết bị dạy học thực hành vẫn còn rất nhiều hạn chế, thể hiện: - Thiết bị dạy học thực hành vẫn thiếu nhiều do quy mô, hệ thống trường THPT rộng lớn. Do đó, tình trạng "Dạy chay - học chay" còn đang phổ biến ở nhiều trường. Mặt khác, thiết bị được đầu tư không đồng bộ, bảo quản không đúng cách nên không sử dụng được. - Môn Sinh học là môn khoa học thực nghiệm nhưng không có vườn trường, ao trường để học sinh làm thực hành. - Có sự khác biệt trong việc trang bị và sử dụng thiết bị dạy học giữa các trường ở các vùng miền và khác biệt trong đầu tư trang thiết bị của các trường chuẩn và trường chưa đạt chuẩn. - Chất lượng thiết bị dạy học còn nhiều hạn chế: Nhiều thiết bị dạy học không đảm bảo chất lượng, không đạt những yêu cầu, có nhiều thiết bị dạy học mua về mà không được sử dụng. Mặt khác, nhiều thiết bị dạy học ở các trường THPT quá cũ, hóa chất hết hạn sử dụng, nên khi tiến hành thí nghiệm cho kết quả thiếu chính xác. Ở Thanh Hóa, tiến trình đổi mới đổi mới PPDH đang từng bước được triển khai ở các trường THPT. Do đó, việc sử dụng thí nghiệm trong dạy học đang được quan tâm. Tuy nhiên, so với số lượng học sinh thì mức độ đầu tư thiết bị dạy học còn thiếu và gặp nhiều khó khăn. Trường THPT Lê Lợi là trường chuẩn Quốc gia nên cơ sở vật chất được đầu tư rất nhiều, trong đó có trang thiết bị phòng thực hành, tuy nhiên vẫn còn nhiều hạn chế như phòng thực hành dùng chung cho cả 2 bộ môn: Sinh học và Hóa học; các dụng cụ và hóa chất thí nghiệm không đầy đủ, không đảm bảo chất lượng cho tiết thực hành; không có vườn trường để thực hành Sinh học, Công nghệ, Nghề Làm vườn[5] 2. Thực trạng dạy học thực hành trong dạy học Sinh học ở trường THPT - Với thực trạng thiết bị thực hành thiếu thốn, hỏng hóc, quá hạn sử dụng, nhiều giáo viên không thể thường xuyên đưa học sinh lên phòng làm thực hành, hình thành thói quen ngại làm thực hành, ngay cả những thí nghiệm trong chương trình rất dễ thực hiện với trang thiết bị hiện có. Điều đó cũng làm giảm hứng thú của học sinh với môn học. Đồng thời cũng không giúp các em tự lĩnh hội tri thức mà việc lĩnh hội kiến thức mang tính thụ động. - Nhiều giáo viên ngại dạy tiết thực hành vì tốn thời gian, công sức, kĩ năng thực hành kém, - Cán bộ phụ trách thí nghiệm ở hầu hết các trường chỉ hầu như làm nhiệm vụ “giữ chìa khóa” phòng thực hành và làm các công việc khác do Ban Giám hiệu giao, không phụ trách thực hành cùng giáo viên bộ môn. - Chỉ có 1 cán bộ phụ trách phòng thực hành, các thiết bị, dụng cụ thực hành chung cho tất cả các môn: Vật lí, Hóa học, Sinh học, Tin học, không có phụ tá phụ trách riêng từng bộ môn, Cán bộ phụ tá thí nghiệm lại còn kiêm nhiệm nhiều công việc khác. Như vậy, mặc dù thí nghiệm có vai trò quan trọng trong dạy học Sinh học, nhưng trên thực tế thí nghiệm vẫn chưa được chú trọng đúng mức và thực hành chưa đạt được hiệu quả mong muốn. Trên thực tế, nhiều bài thực hành được tiến hành nhưng chưa đạt mục tiêu đề ra, các phương tiện, dụng cụ hiện đại còn rất hạn chế, nên dẫn đến tình trạng ''dạy chay - học chay" còn phổ biến, học sinh phải công nhận kiến thức mà không chứng minh được đúng hay sai. Với thực trạng về cơ sở vật chất, thiết bị dạy học, như trên, trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này, tôi mạnh dạn giới thiệu một số phương pháp dạy học thực hành Sinh học 11 để học sinh dễ tiến hành, giúp tiết học thực hành trở nên có ý nghĩa hơn, học sinh có hứng thú cao trong học tập bộ môn Sinh học và việc dạy học đạt hiệu quả cao. Cụ thể: + Sử dụng tối ưu những trang thiết bị còn sử dụng được trong phòng thí nghiệm. + Thay thế một số nguyên liệu phù hợp với từng địa phương, từng vùng miền, từng mùa và với từng thời điểm thí nghiệm. + Thay thế một số hóa chất, dụng cụ thực hành dễ kiếm, rẻ tiền hoặc có thể tận dụng các vật dụng xung quanh đời sống chúng ta. + Xây dựng các phương án thực hành đơn giản, thao tác dễ tiến hành giúp giáo viên và học sinh dễ dàng tiến hành thí nghiệm mà vẫn đảm bảo mục tiêu bài thực hành, đồng thời khắc phục một phần những bất cập nêu trên.[5] Chương III. GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. THUYẾT MINH TÍNH MỚI CỦA ĐỀ TÀI Từ thực trạng nêu trên, qua tìm tòi nghiên cứu, trao đổi kinh nghiệm với đồng nghiệp, bản thân tôi đã đúc rút được một số kinh nghiệm. Đồng nghiệp có thể xem đó là tính mới của đề tài: Làm thế nào để dạy một tiết thực hành đạt hiệu quả trên cơ sở vận dụng các kĩ thuật, PPDH tích cực và ứng dụng công nghệ thông tin...học sinh tích cực tham gia giờ học, tìm tòi, nghiên cứu khoa học, vận dụng và giải quyết các vấn đề trong học tập và thực tế cuộc sống... Tôi đã mạnh dạn thay đổi một số nội dung thực hành trong bài học để phù hợp với thực tiễn và tạo hứng thú cho học sinh như: - Thay vì cho học sinh thực hành lên men etilic như thí nghiệm trong sách giáo khoa trang 95, tôi đã cho các em lên men etilic bằng cách ủ men rượu bằng cơm nếp cẩm để kết hợp với sữa chua thành món ăn ngon, bổ dưỡng – sữa chua nếp cẩm. Nội dung bài vẫn đảm bảo đầy đủ, tường minh. - Thay vì cho học sinh làm thực hành trên lớp (vì cần thời gian nên sẽ không thấy ngay được kết quả thực hành), tôi đã giao cho các em làm thực hành ở nhà, có chụp ảnh và quay video lại để chứng minh quá trình các em làm thực hành nhóm ở nhà. Sản phẩm thực hành được mang đến lớp vào tiết học thực hành để chấm sản phẩm và học sinh cùng thưởng thức sản phẩm của mình. Các em cảm thấy rất thích thú khi được trải nghiệm cùng nhau. II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP CỦA ĐỀ TÀI Bài thực hành nhằm củng cố lí thuyết của 2 bài: Bài 22: Dinh dưỡng, chuyển hóa vật chất và năng lượng ở vi sinh vật. Bài 23: Quá trình tổng hợp và phân giải các chất ở vi sinh vật. Ngoài ra cũng là tiền đề để học các bài: Bài 25 + 26: Sinh trưởng của vi sinh vật. Sinh sản của vi sinh vật (chỉ giới thiệu các hình thức sinh sản của VSV). Bài 27: Các yếu tố ảnh hưởng đến sinh trưởng của vi sinh vật. 1. THIẾT KẾ GIÁO ÁN Bài: Thực hành: Lên men etilic và lactic A. MỤC TIÊU DẠY HỌC Sau khi học xong chủ đề, học sinh đạt được: 1. Kiến thức - Nêu được quy trình làm sữa chua hoặc muối chua rau quả. - Viết được phương trình lên men lactic, etilic. - Vận dụng nuôi cấy liên tục trong sản xuất, nêu được các yếu tố ảnh hưởng đến sinh trưởng của vi sinh vật trong quá trình nuôi cấy. - Nêu được các ứng dụng của vi sinh vật trong đời sống. 2. Kĩ năng Học sinh biết làm sữa chua, ủ cái rượu bằng cơm nếp cẩm. Quan sát, giải thích và rút ra kết luận của các hiện tượng của thí nghiệm lên men lactic, nên men etilic. Phát triển kĩ năng tính toán. Phát triển kĩ năng tư duy, kĩ năng giải quyết vấn đề, kĩ năng làm việc nhóm, kĩ năng sử dụng công nghệ thông tin. 3. Thái độ Vận dụng kiến thức vào thực tiễn: lên men rượu, làm sữa chua làm thực phẩm hàng ngày. Vận dụng ảnh hưởng của các yếu tố hóa học, vật lí để điều chỉnh sinh trưởng của vi sinh vật. Có ý thức tìm tòi, phát triển các nguyên liệu lên men để ứng dụng trong thực tiễn như bảo quản thực phẩm, bảo vệ môi trường (từ các nguyên liệu là chất phế thải). Học sinh định hướng nghề nghiệp liên quan đến chủ đề. 4. Các năng lực cần hướng tới a. Năng lực tự học - Học sinh xác định được mục tiêu của chủ đề, tiểu chủ đề. - Học sinh lập và thực hiện được kế hoạch học tập. b. Năng lực giải quyết vấn đề - Giải thích được cơ sở khoa học của thí nghiệm. - Giải thích được các hiện tượng thực tiễn liên quan đến chủ đề. c. Năng lực giao tiếp - Học sinh rèn luyện được khả năng thuyết trình vấn đề, bày tỏ ý kiến khi tranh luận, d. Năng lực hợp tác Có năng lực hợp tác giữa: học sinh - học sinh, học sinh - giáo viên. e. Năng lực sử dụng CNTT và truyền thông (ICT) - Học sinh có khả năng khai thác mạng internet để tìm hiểu các thông tin liên quan đến chủ đề. - Sử dụng phần mềm tạo video, chụp ảnh quá trình thực hiện. f. Năng lực tính toán - Tính được tỉ lệ nước: sữa, nhiệt độ. g. Các năng lực chuyên biệt Năng lực quan sát: Quan sá
Tài liệu đính kèm:
- skkn_phuong_phap_day_hoc_thuc_nghiem_bai_thuc_hanh_len_men_e.doc