SKKN Nâng cao hiệu quả phương pháp dạy học vận dụng kiến thức liên môn trong phần: Công dân với việc hình thành thế giới quan, phương pháp luận khoa học
“Hiện nay hệ thống giáo dục phổ thông nước ta đang thực hiện bước chuyển từ chương trình giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực của người học - từ chỗ quan tâm tới việc HS học được gì đến chỗ quan tâm tới việc HS học được cái gì qua việc học. Để thực hiện được điều đó, nhất định phải thực hiện thành công việc chuyển từ PPDH theo lối “truyền thụ một chiều” sang dạy cách học, cách vận dụng kiến thức, rèn luyện kỹ năng, hình thành năng lực và phẩm chất, đồng thời phải chuyển cách đánh giá kết quả giáo dục từ nặng về kiểm tra trí nhớ sang kiểm tra, đánh giá năng lực vận dụng kiến thức giải quyết vấn đề, coi trọng kiểm tra đánh giá kết quả học tập với kiểm tra, đánh giá trong quá trình học tập để có tác động kịp thời nhắm nâng cao chất lượng của hoạt động dạy học và giáo dục” [6;1]. Cho nên việc dạy học tích hợp là một trong những quan điểm giáo dục đang được quan tâm. Thực hiện tích hợp trong dạy học sẽ mang lại rất nhiều lợi ích cho việc góp phần hình thành và phát triển các năng lực hành động, năng lực giải quyết vấn đề cho HS.
Đối với việc dạy và học môn GDCD ở trường phổ thông cũng đã và đang được Đảng, Nhà nước, Bộ Giáo dục và Đào tạo, các cấp, các ngành, các bậc phụ huynh, HS và đặc biệt là đội ngũ GV trực tiếp giảng dạy bộ môn rất quan tâm. Trong những năm qua, việc cải tiến nội dung chương trình, đổi mới phương pháp, phương tiện dạy học môn GDCD đã được đẩy mạnh thực hiện và bắt đầu thu được những thành tựu, có những chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, từ thực tế giảng dạy của bản thân cũng như việc đi dự giờ đồng nghiệp tại trường chúng tôi thấy rằng sự sáng tạo trong việc đổi mới PPDH, phát huy tính tích cực, tự lực của HS chưa nhiều. Dạy học vẫn nặng về truyền thụ kiến thức, việc rèn luyện kỹ năng chưa được quan tâm đúng mức. Hoạt động kiểm tra, đánh giá chưa thực sự khách quan, chính xác (chủ yếu tái hiện kiến thức), chú trọng đánh giá cuối kì chưa chú trọng đánh giá quá trình. Tất cả những điều đó dẫn tới HS học thụ động, lúng túng khi giải quyết các tình huống trong thực tiễn.
MỤC LỤC Trang DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT 1 1. MỞ ĐẦU 2 1.1. Lý do chọn đề tài 2 1.2. Mục đích nghiên cứu 3 1.3. Đối tượng nghiên cứu 3 1.4. Phương pháp nghiên cứu 3 2. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 4 2.1. Cơ sở lý luận sáng kiến kinh nghiệm 4 2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm 4 2.3. Giải pháp và biện pháp thực hiện 5 2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường 12 3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ 13 3.1. Kết luận 13 3.2. Kiến nghị 13 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 15 DANH MỤC CÁC ĐỀ TÀI SKKN 16 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT - GV: Giáo viên - HS: Học sinh - GDCD: Giáo dục công dân - PPDH: Phương pháp dạy học - THPT: trung học phổ thông - TGQ, PPL: Thế giới quan, phương pháp luận - [ ]: Số thứ tự tên Tài liệu tham khảo 1. MỞ ĐẦU 1.1. Lý do chọn đề tài “Hiện nay hệ thống giáo dục phổ thông nước ta đang thực hiện bước chuyển từ chương trình giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực của người học - từ chỗ quan tâm tới việc HS học được gì đến chỗ quan tâm tới việc HS học được cái gì qua việc học. Để thực hiện được điều đó, nhất định phải thực hiện thành công việc chuyển từ PPDH theo lối “truyền thụ một chiều” sang dạy cách học, cách vận dụng kiến thức, rèn luyện kỹ năng, hình thành năng lực và phẩm chất, đồng thời phải chuyển cách đánh giá kết quả giáo dục từ nặng về kiểm tra trí nhớ sang kiểm tra, đánh giá năng lực vận dụng kiến thức giải quyết vấn đề, coi trọng kiểm tra đánh giá kết quả học tập với kiểm tra, đánh giá trong quá trình học tập để có tác động kịp thời nhắm nâng cao chất lượng của hoạt động dạy học và giáo dục” [6;1]. Cho nên việc dạy học tích hợp là một trong những quan điểm giáo dục đang được quan tâm. Thực hiện tích hợp trong dạy học sẽ mang lại rất nhiều lợi ích cho việc góp phần hình thành và phát triển các năng lực hành động, năng lực giải quyết vấn đề cho HS. Đối với việc dạy và học môn GDCD ở trường phổ thông cũng đã và đang được Đảng, Nhà nước, Bộ Giáo dục và Đào tạo, các cấp, các ngành, các bậc phụ huynh, HS và đặc biệt là đội ngũ GV trực tiếp giảng dạy bộ môn rất quan tâm. Trong những năm qua, việc cải tiến nội dung chương trình, đổi mới phương pháp, phương tiện dạy học môn GDCD đã được đẩy mạnh thực hiện và bắt đầu thu được những thành tựu, có những chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, từ thực tế giảng dạy của bản thân cũng như việc đi dự giờ đồng nghiệp tại trường chúng tôi thấy rằng sự sáng tạo trong việc đổi mới PPDH, phát huy tính tích cực, tự lực của HS chưa nhiều. Dạy học vẫn nặng về truyền thụ kiến thức, việc rèn luyện kỹ năng chưa được quan tâm đúng mức. Hoạt động kiểm tra, đánh giá chưa thực sự khách quan, chính xác (chủ yếu tái hiện kiến thức), chú trọng đánh giá cuối kì chưa chú trọng đánh giá quá trình. Tất cả những điều đó dẫn tới HS học thụ động, lúng túng khi giải quyết các tình huống trong thực tiễn. Nội dung tri thức môn học GDCD lớp 10 THPT đầu tiên là trang bị TGQ, PPL khoa học, tư duy biện chứng duy vật, thực chất là các tri thức của bộ môn Triết học. Đây là những tri thức quan trọng và cần thiết có tác dụng định hướng và nâng cao chất lượng học tập, góp phần đào tạo, phát triển nguồn nhân lực cho xã hội, đáp ứng những đòi hỏi của thực tiễn và xu thế hội nhập quốc tế của nước ta hiện nay.Tuy nhiên thực tế cho thấy, để giảng dạy hiệu quả tri thức Triết học cho HS, mà đặc biệt là HS lớp 10 phổ thông hiện nay không phải là một việc làm đơn giản. Đối với các em, kiến thức về Triết học là mới mẻ, việc tiếp thu, lĩnh hội tri thức là rất trừu tượng, khó hiểu,... Vì vậy dẫn đến tình trạng HS không có hứng thú học tập, đa số chỉ học vẹt, học qua loa mà không hiểu cái hay của Triết học, cái giá trị cải tạo thực tiễn, cải tạo bản thân của Triết học nên không thích học bộ môn này. Xuất phát từ lý luận và thực tiễn trên, bản thân tôi trực tiếp giảng dạy môn GDCD luôn trăn trở làm sao để HS tiếp nhận tri thức bộ môn một cách nhẹ nhàng, dễ hiểu. Qua thực tế dạy học, tôi nhận thấy một trong các biện pháp giảng dạy hiệu quả tri thức Triết học trong chương trình GDCD 10 là vận dụng các tri thức liên môn trong khi giảng dạy. Vì vậy, tôi mạnh dạn sử dụng các PPDH theo định hướng phát triển năng lực khi vận dụng một số kiến thức của các bộ môn: Văn, Lịch Sử, Hóa, Sinh, Lý, Toán, vào bài dạy sao cho phù hợp nhằm gây sự hứng thú cho HS; góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động dạy - học môn GDCD lớp 10 phần: “Công dân với việc hình thành TGQ, PPL khoa học”. Với những lý do trên tôi chọn đề tài: “Nâng cao hiệu quả phương pháp dạy học vận dụng kiến thức liên môn trong phần: Công dân với việc hình thành thế giới quan, phương pháp luận khoa học” làm sáng kiến kinh nghiệm cho công tác giảng dạy của mình và đồng nghiệp. 1.2. Mục đích nghiên cứu. Tìm hiểu, vận dụng những kiến thức liên môn thông qua các biện pháp đổi mới PPDH theo định hướng phát triển năng lực của người học để góp phần hình thành ở HS những năng lực cần hướng đến của môn GDCD. Cụ thể là: - Năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề đạo đức, pháp luật. - Năng lực tự nhận thức và điều chỉnh hành vi phù hợp với pháp luật và chuẩn mực đạo đức - Năng lực tự chịu trách nhiệm và thực hiện trách nhiệm công dân với cộng đồng, đất nước. - Năng lực sáng tạo. - Năng lực hợp tác. - Năng lực tự quản bản thân. - Năng lực giao tiếp, tự tin. - Năng lực hợp tác,... 1.3. Đối tượng nghiên cứu. Trong phạm vi một sáng kiến kinh nghiệm, tôi chưa thể giải quyết hết được những vấn đề về việc dạy học tích hợp liên môn theo định hướng phát triển năng lực của người học một cách triệt để, bởi đây là vấn đề mới và phức tạp. Tôi chỉ xin tập trung làm rõ một số phương pháp, kỹ thuật dạy học của môn GDCD theo định hướng năng lực. Cụ thể như: - Các phương pháp đặc thù của bộ môn GDCD: + PPDH nhóm. + PPDH qua trải nghiệm và khám phá + Phương pháp nghiên cứu trường hợp điển hình + Phương pháp động não + Phương pháp đóng vai và giải quyết tình huống + Phương pháp trò chơi + PPDH theo dự án Qua đó, tôi hi vọng sẽ tìm ra những cách tiếp cận, dạy - học có hiệu quả theo theo định hướng phát triển năng lực của người học cho những phần còn lại của bộ môn. 1.4. Phương pháp nghiên cứu. Vận dụng và phối hợp một cách linh hoạt các PPDH và kiến thức liên môn của một số môn học, như môn: Hóa học, vật lý, sinh học, lịch sử, trong các bài học cụ thể. 2. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM. 2.1. Cơ sở lý luận sáng kiến kinh nghiệm. Dạy học là một quá trình truyền thụ tri thức khoa học, kỹ năng và phương pháp hành động. Đó cũng là sự tác động của người dạy vào các giác quan của người học cung cấp các sự kiện, hình ảnh, tri thức, kích thích tư duy nhận thức của người học. GV cần phải vận dụng kiến thức liên môn phù hợp với nội dung bài dạy học GDCD để HS tiếp thu tri thức một cách dễ dàng, từ dễ đến khó, thấp đến cao nhằm khắc sâu kiến thức, khơi gợi sự liên tưởng cho HS, gây hứng thú học tập cho HS, là cầu nối liền giữa khái niệm, đời sống hiện tại. Vì vậy việc vận dụng kiến thức liên môn linh hoạt đa dạng sẽ giúp cho HS khắc sâu kiến thức, vừa mở rộng sự hiểu biết của mình và chủ động lĩnh hội kiến thức. 2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm. Nội dung phần Công dân với việc hình thành TGQ, PPL khoa học được bố trí dạy và học ở kì I, cho HS lớp 10 trong chương trình GDCD THPT, gồm 9 bài nhưng trên thực tế dạy và học 7 bài (giảm tải bài 2 và bài 8): Học xong phần này, HS cần đạt được. - Về kiến thức: + Nhận biết được nội dung cơ bản của thế giới quan duy vật và phương pháp luận biện chứng. + Hiểu được bản chất của thế giới là vật chất. Vận động và phát triển theo quy luật khách quan (Quy luật mâu thuẫn, quy luật lượng chất, quy luật phủ định) là thuộc tính vốn có của thế giới vật chất. Con người có thể nhận thức và vận dụng được những quy luật ấy. + Thấy được mối quan hệ biện chứng giữa chủ thể với khách thể qua các mối quan hệ: thực tiễn với nhận thức, con người là chủ thể của lịch sử và là mục tiêu phát triển của xã hội. - Về kỹ năng: + Vận dụng những tri thức triết học với tư cách là TGQ, PPL để phân tích các hiện tượng tự nhiên, xã hội thông thường và các hiện tượng đạo đức, kinh tế, nhà nước, pháp luật,... + Vận dụng các tri thức triết học để hiểu các tri thức của các bộ môn khoa học khác như Văn, Sử, Sinh, Hóa, Toán, Vật lí ,... - Về thái độ: + Tôn trọng những quy luật khách quan của tự nhiên và đời sống xã hội và những tư tưởng lành mạnh trong xã hội; khắc phục những hiện tượng duy tâm trong cuộc sống hàng ngày và phê phán các hiện tượng mê tín dị đoan. + Có quan điểm phát triển, ủng hộ và làm theo cái mới, cái tiến bộ, tham gia tích cực và có trách nhiệm với các hoạt động của cộng đồng. [7; 3] Trong thực tế giảng dạy của bản thân và việc dự giờ đồng nghiệp, tôi thấy việc dạy - học các kiến thức bộ môn GDCD nói chung, phần Công dân với việc hình thành Thế giới quan, phương pháp luật khoa học nói riêng trong chương trình tại đơn vị chưa thật phát huy và khơi dậy tối đa các năng lực của HS. Điều đó, thể hiện ở những tồn tại sau: Về phía HS: HS có tâm lý coi môn GDCD là môn phụ, thậm chí không thích học môn GDCD, kiến thức môn học liên quan đến Triết học cho nên rất “khô khan”, trừu tượng, khó hiểu, do đó, HS không có hứng thú học. Trong quá trình giảng dạy, tôi thấy tình trạng HS không học bài cũ, không xem bài mới còn phổ biến, khi đưa ra yêu cầu phải về nhà soạn bài bằng sơ đồ tư duy thì HS cũng có làm nhưng miễn cưỡng, bắt buộc, hiệu quả mang lại không cao. HS ham học, thích tìm hiểu khám phá những cái chưa biết, nhưng lại không thấy rằng môn GDCD, đặc biệt phần Triết học rất sát với đời sống, là những tri thức đã từng được học và sẽ vận dụng để học tốt hơn ở các bộ môn khác như Văn, Sử, Sinh, Lí, Hóa,... và nó trang bị cho chúng ta phương pháp, cách thức khám phá thế giới vô cùng vô tận và từ đó có thể cải tạo thế giới một cách có hiệu quả. Nhìn chung, HS chưa thấy được ý nghĩa môn học và chưa biết vận dụng tri thức đã học vào cuộc sống. Về phía GV: Để dạy tốt GDCD 10 đòi hỏi GV phải vững vàng về trình độ chuyên môn, biết đổi mới PPDH để biến cái khó, phức tạp thành cái đơn giản, khơi dậy niềm hứng thú ham học và nắm bắt kiến thức của HS. Thế nhưng, đa số GV chưa đầu tư xứng đáng cho môn học, không ít GV trình độ còn hạn chế, khi dạy chỉ nhắc lại kiến thức quá cao trong SGK, vẫn còn chú trọng truyền thụ kiến thức theo kiểu thuyết trình, giảng giải, ít phát huy tích cưc và phát triển tư duy cho HS. 2.3. Giải pháp và biện pháp thực hiện. 2.3.1. Các giải pháp thực hiện Các PPDH GDCD truyền thống và hiện đại đã được đề cập tới trong nhiều tài liệu khác nhau, được GV làm quen qua các đợt tập huấn và thực hiện nhiều trong các giờ dạy học trên lớp. Mỗi PPDH có những bước cấu trúc khác nhau, thực hiện những chức năng lí luận dạy học khác nhau, có những ưu, nhược điểm riêng. Trong khi nghiên cứu và viết sáng kiến kinh nghiệm này tôi xin trình bày một số phương pháp, kĩ thuật dạy học có ưu thế trong việc định hướng phát triển năng lực mà GV dễ sử dụng nhằm tạo ra sự thay đổi vai trò của người học và người dạy trong giờ học. Sự thay đổi này đã biến quá trình học của HS từ thụ động sang chủ động, từ việc nghe giảng sang hoạt động tư duy, làm việc độc lập, làm việc theo nhóm; đổi mới quan hệ GV - HS theo hướng cộng tác có ý nghĩa quan trọng nhằm phát triển năng lực xã hội. Cụ thể tác giả đi sâu vào các PPDH và kết hợp với một số kĩ thuật dạy học mới khi vận dụng kiến thức liên môn trong lúc dạy phần Công dân với việc hình thành TGQ, PPL khoa học. 2.3.2. Biện pháp thực hiện. a. Phương pháp dạy học nhóm: PPDH nhóm có ưu thế sử dụng trong dạy học tích hợp liên môn, là phương pháp trong đó GV tổ chức học tập cho HS theo những nhóm nhỏ nhằm giải quyết các vấn đề trong nội dung tích hợp; tạo điều kiện cho HS được giao lưu, học hỏi lẫn nhau, cùng nhau hợp tác để giải quyết những nhiệm vụ chung của cả nhóm. GV kết hợp với kĩ thuật dạy học chia nhóm, giao nhiệm vụ. Các năng lực có thể hình thành qua phương pháp này: Dạy học nhóm nếu được tổ chức tốt sẽ có tác dụng phát triển năng lực giao tiếp, tăng cường sự tự tin cho HS; năng lực hợp tác làm việc nhóm; năng lực sáng tạo, tự lực và tính trách nhiệm của HS. Cách tiến hành: Dạy học nhóm thường được áp dụng để đi sâu, luyện tập, củng cố một chủ đề đã học, hoặc cũng có thể tìm hiểu một chủ đề mới; được triển khai theo cách sau: - HS của lớp được chia thành từng nhóm nhỏ. - GV giao nhiệm vụ và xác định nhiệm vụ các nhóm. - Qui định thời gian giới hạn cho các nhóm. - Mỗi nhóm tự lực hoàn thành các nhiệm vụ trên cơ sở hợp tác với các bạn trong nhóm. - Trình bày kết quả làm việc của nhóm và đánh giá trước lớp. [51; 1] Ví dụ: Khi giảng Bài 3: Sự vận động và phát triển của thế giới vật chất [19; 2] để HS hiểu rõ và phân biệt được các hình thức vận động của vật chất. GV tích hợp môn Thể dục, Vật lí, Hóa học, Sinh học, Lịch sử. GV chia nhóm và giao nhiệm vụ trước cho HS các nhóm 1, 2, 3, 4, 5 và hỏi về các hình thức vận động. Nhóm 1: Thực hiện tập 2 động tác thể dục giữa giờ, nêu được vận động cơ học là gì, thấy được vận động cơ học có mối quan hệ gì với các hình thức vận động khác không? [7] Nhóm 2: Tiến hành thí nghiệm Vật lý về lực Ma sát, lực ma sát nghỉ [7] Nhóm 3: Thí nghiệm hoá học về tính khử màu của SO2, hoặc minh họa phản ứng Hóa học: 2Na + 2H2O => NaOH + H2, Fe + CuSO4 => Cu + FeSO4 [7] Nhóm 4: Trồng và quan sát sự sinh trưởng của cây đỗ xanh [7] Nhóm 5: Sưu tầm một đoạn video về cách mạng tháng Tám năm 1945 và nêu ý nghĩa [7] b. Phương pháp động não Phương pháp động não thường được sử dụng trong dạy học tích hợp trước khi giới thiệu bài học mới, giới thiệu một nội dung mới hoặc tìm hiểu về quy định cụ thể nào đó của pháp luật. Các năng lực có thể hình thành qua phương pháp này: Phương pháp này có tác dụng phát triển năng lực tư duy độc lập; năng lực giao tiếp; năng lực sáng tạo, tự lực và tính trách nhiệm của HS. Cách tiến hành: GV có thể triển khai theo cách sau: - Nêu câu hỏi hoặc vấn đề, trong đó có nhiều cách trả lời, cần được tìm hiểu trước cả lớp hoặc trước nhóm. - Khích lệ HS phát biểu. - Liệt kê các ý kiến lên bảng hoặc giấy tờ. - Phân loại ý kiến, làm sáng tỏ các ý kiến chưa rõ. - Tổng hợp các ý kiến của HS và rút ra kết luận. [54; 1] Ví dụ: Khi giảng về nội dung thế giới quan ở Bài 1 “Thế giới quan duy vật và phương pháp luận biện chứng” [4; 2] , GV tích hợp môn Văn, sử dụng câu chuyện Sơn Tinh Thủy Tinh, Thần trụ trời và đặt ra những câu hỏi động não: Quan niệm của con người từ thời xa xưa về thế giới, về vũ trụ, về các hiện tượng tự nhiên như thế nào?Quan điểm đó đã cho thấy con người nhìn nhận thế giới một cách sâu sắc, đầy đủ và đúng đắn hay chưa? Quan điểm đó ảnh hưởng đến hoạt động thực tiễn của con người như thế nào? HS trả lời , GV nhận xét và đi đến kết luận. c. Phương pháp nghiên cứu trường hợp điển hình Nghiên cứu trường hợp điển hình là phương pháp sử dụng một câu chuyện có thật về một người, một tập thể, một cơ quan, đơn vị hoặc sử dụng một câu chuyện được viết dựa theo những trường hợp gần gũi thường xảy ra trong thực tiễn cuộc sống. Đôi khi nghiên cứu trường hợp điển hình còn có thể được thực hiện qua video hay một băng catset. Các năng lực có thể hình thành qua phương pháp này: Phương pháp này được sử dụng trong dạy học có tác dụng phát huy năng lực phát hiện, giải quyết vấn đề cá nhân và hợp tác giải quyết các vấn đề xã hội; năng lực tư duy sáng tạo,năng lực tự nhận thức, tự điều chỉnh hành vi và năng lực tự học, tự nghiên cứu và tính trách nhiệm của HS. Cách tiến hành: GV có thể triển khai phương pháp này theo cách sau: - GV sử dụng một câu chuyện có thật, hoặc chuyện được viết dựa trên những trường hợp thường xảy ra trong thực tiễn cuộc sống để minh chứng cho một vấn đề. - GV có thể cho HS đọc, xem, nghe về trường hợp điển hình sau đó suy nghĩ về nó. - Yêu cầu HS viết ra giấy của mình và thảo luận về trường hợp điển hình theo các câu hỏi của GV. [56; 1] Ví dụ 1: Khi giảng xong phần 1: Thế nào là Mâu thuẫn (bài 4: Nguồn gốc vận động và phát triển của sự vật hiện tượng[24; 2] ) GV tích hợp nội dung giáo dục pháp luật để GV củng cố thêm cho HS bằng việc cả lớp nghiên cứu trường hợp điển hình, GV có thể nêu tình huống sau: Nam 16 tuổi, do mâu thuẫn cá nhân, Nam đã đánh nhau với bạn cùng lớp, làm bạn bị thương gãy chân phải nằm bệnh viện. Vậy Nam có phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi đánh bạn không? Pháp luật quy định thế nào về tuổi chịu trách nhiệm hình sự? Giải quyết mâu thuẫn với bạn như Nam vậy có được coi là nguồn gốc vận động và phát triển của sự vật hiện tượng không? HS trả lời, HS nhận xét bạn, bổ sung ý kiến. GV hướng dẫn, kết luận: Trách nhiệm hình sự là trách nhiệm mà người phạm tội phải chịu các biện pháp xử lý về hình sự đối với hành vi phạm tội do mình gây ra. Theo quy định tại Điều 2 Bộ luật hình sự về Cơ sở của trách nhiệm hình sự thì chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự. Tuổi chịu trách nhiệm hình sự: Người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 12 Bộ luật hình sự như sau: “Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý (là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù) hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng (là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình).” Hành vi đánh người gây thương tích của Nam được quy định tại Điều 104 Bộ luật Hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, Nam đã 16 tuổi. Vì vậy Nam phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi của mình theo quy định của pháp luật hình sự, căn cứ mức độ, hậu quả hành vi mà đó gây ra (mức độ thương tích) [8] Ví dụ 2: Tùy điều kiện GV có thể sử dụng thêm một số video Thông điệp cuộc sống, Tòa tuyên án (sưu tầm trên Internet) để tích hợp thêm các trường hợp điển hình vào các bài dạy của mình. d. Phương pháp dạy học qua trải nghiệm và khám phá Các năng lực có thể hình thành qua phương pháp này Phương pháp này góp phần phát triển cho HS năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề; năng lực tự nghiên cứu; năng lực sáng tạo và năng lực tự chịu trách nhiệm của HS. Cách tiến hành: GV có thể triển khai theo cách sau: - GV cho HS xác nhận, nhận dạng vấn đề / tình huống. - HS thu thập thông tin có liên quan, liệt kê các cách giải quyết có thể. - HS thông báo kết quả, cảm tưởng, phản ứng và phát hiện cách giải quyết vấn đề. - HS và GV cùng nhau phân tích theo hướng 5W1H(ai, cái gì, ở đâu, khi nào, tại sao,...). - GV khái quát hóa kiến thức và đúc kết bài học (bài học gì, qui luật gì, nguyên tắc gì, kết luận gì) và vận dụng kiến thức vào thực tế. [57; 1] Ví dụ: Khi dạy xong phần 2, bài 4, Nguồn gốc vận động và phát triển của sự vật hiện tượng[24; 2] ở phần rút ra bài học, tìm các câu tục ngữ nói về qui luật mâu thuẫn, (nếu còn thời gian thì làm trên lớp, hết thời gian cho HS về nhà, giờ sau GV và HS cùng tìm hiểu trong khi kiểm tra bài cũ) (GV giới thiệu cho học sinh về sách [4] ) GV tích hợp kiến thức môn Văn học và kĩ năng sống, GV cho HS trải nghiệm và khám phá câu tục ngữ “Thất bại là mẹ thành công” của bản thân HS trong cuộc sống để thấy rằng khi giải quyết Mâu thuẫn, sự vật hiện tượng vận động phát triển đi lên, giải quyết thất bại sẽ dẫn đến thành công. GV cho HS nhớ lại, ghi ra giấy 1 lần thất bại đáng nhớ nhất của mình, nguồn gốc, bối cảnh của thất bại đó, tại sao em nghĩ đó lại là thất bại của bản thân, cảm xúc của bản thân em khi bị thất bại, bản thân em đã làm gì để vượt qua thất bại đó không? HS trình bày các trải nghiệm của bản thân. GV nhận xét, kết luận hướng HS rèn luyện tư duy và hành động trên thực tế. đ. Phương pháp đóng vai
Tài liệu đính kèm:
- skkn_nang_cao_hieu_qua_phuong_phap_day_hoc_van_dung_kien_thu.doc