SKKN Nâng cao hiệu quả dạy học một số bài trong chương trình Ngữ văn lớp 10 – CB qua phương pháp dạy học tích hợp cho học sinh trường THPT Thường Xuân 2

SKKN Nâng cao hiệu quả dạy học một số bài trong chương trình Ngữ văn lớp 10 – CB qua phương pháp dạy học tích hợp cho học sinh trường THPT Thường Xuân 2

Tích hợp là một trong những xu thế dạy học hiện đại hiện đang được quan tâm nghiên cứu và áp dụng vào nhà trường ở nhiều nước trên thế giới và Việt Nam. Chương trình THPT, môn Ngữ văn, năm 2002 do Bộ GD&ĐT dự thảo đã ghi rõ: “Lấy quan điểm tích hợp làm nguyên tắc chỉ đạo để tổ chức nội dung chương trình, biên soạn SGK và lựa chọn các phương pháp giảng dạy.” [tr. 27] “Nguyên tắc tích hợp phải được quán triệt trong toàn bộ môn học, từ Đọc văn, Tiếng Việt đến Làm văn; quán triệt trong mọi khâu của quá trình dạy học; quán triệt tromg mọi yếu tố của hoạt động học tập; tích hợp trong chương trình; tích hợp trong SGK; tích hợp trong phương pháp dạy học của GV và tích hợp trong hoạt động học tập của HS; tích hợp trong các sách đọc thêm, tham khảo.” [tr.40].

Như vậy, ở nước ta hiện nay, vấn đề cần hay không cần tích hợp trong xây dựng nội dung chương trình, biên soạn SGK và lựa chọn các phương pháp giảng dạy môn Ngữ văn không đặt ra nữa. Bài toán đang đặt ra trong lĩnh vực lí luận và phương pháp dạy học bộ môn là phải tiếp cận, nghiên cứu và vận dụng dạy học tích hợp vào dạy học Ngữ văn ở THPT nhằm hình thành và phát triển năng lực cho HS một cách có hiệu quả hơn, góp phần thực hiện tốt mục tiêu giáo dục và đào tạo của bộ môn .Với quan điểm như vậy, chương trình sách giáo khoa mới so với các bộ sách đã được giảng dạy lâu nay tất nhiên là có nhiều điểm khác biệt. Do vậy, người làm công tác giảng dạy không thể không tìm cách tự thay đổi phương pháp dạy học cho phù hợp với yêu cầu mới, mục tiêu dạy học mới. Chính vì lí do trên tôi chọn đề tài “Nâng cao hiệu quả dạy học một số bài trong chương trình Ngữ văn lớp 10 – CB qua phương pháp dạy học tích hợp” cho học sinh trường THPT Thường Xuân 2

 

docx 28 trang thuychi01 7004
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Nâng cao hiệu quả dạy học một số bài trong chương trình Ngữ văn lớp 10 – CB qua phương pháp dạy học tích hợp cho học sinh trường THPT Thường Xuân 2", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài.
Tích hợp là một trong những xu thế dạy học hiện đại hiện đang được quan tâm nghiên cứu và áp dụng vào nhà trường ở nhiều nước trên thế giới và Việt Nam. Chương trình THPT, môn Ngữ văn, năm 2002 do Bộ GD&ĐT dự thảo đã ghi rõ: “Lấy quan điểm tích hợp làm nguyên tắc chỉ đạo để tổ chức nội dung chương trình, biên soạn SGK và lựa chọn các phương pháp giảng dạy.” [tr. 27] “Nguyên tắc tích hợp phải được quán triệt trong toàn bộ môn học, từ Đọc văn, Tiếng Việt đến Làm văn; quán triệt trong mọi khâu của quá trình dạy học; quán triệt tromg mọi yếu tố của hoạt động học tập; tích hợp trong chương trình; tích hợp trong SGK; tích hợp trong phương pháp dạy học của GV và tích hợp trong hoạt động học tập của HS; tích hợp trong các sách đọc thêm, tham khảo.” [tr.40].
Như vậy, ở nước ta hiện nay, vấn đề cần hay không cần tích hợp trong xây dựng nội dung chương trình, biên soạn SGK và lựa chọn các phương pháp giảng dạy môn Ngữ văn không đặt ra nữa. Bài toán đang đặt ra trong lĩnh vực lí luận và phương pháp dạy học bộ môn là phải tiếp cận, nghiên cứu và vận dụng dạy học tích hợp vào dạy học Ngữ văn ở THPT nhằm hình thành và phát triển năng lực cho HS một cách có hiệu quả hơn, góp phần thực hiện tốt mục tiêu giáo dục và đào tạo của bộ môn .Với quan điểm như vậy, chương trình sách giáo khoa mới so với các bộ sách đã được giảng dạy lâu nay tất nhiên là có nhiều điểm khác biệt. Do vậy, người làm công tác giảng dạy không thể không tìm cách tự thay đổi phương pháp dạy học cho phù hợp với yêu cầu mới, mục tiêu dạy học mới. Chính vì lí do trên tôi chọn đề tài “Nâng cao hiệu quả dạy học một số bài trong chương trình Ngữ văn lớp 10 – CB qua phương pháp dạy học tích hợp” cho học sinh trường THPT Thường Xuân 2
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Ở nước ta, từ thập niên 90 của thế kỷ XX trở lại đây, vấn đề xây dựng môn học tích hợp với những mức độ khác nhau mới thực sự được tập trung nghiên cứu, thử nghiệm và áp dụng vào nhà trường phổ thông, chủ yếu ở bậc Tiểu học và cấp THCS. Trước ñó, tinh thần giảng dạy tích hợp chỉ mới được thực hiện ở những mức độ thấp như liên hệ, phối hợp các kiến thức, kĩ năng thuộc các môn học hay phân môn khác nhau để giải quyết một vấn đề giảng dạy.
Hiện nay, xu hướng tích hợp vẫn đang được tiếp tục nghiên cứu, thử nghiệm và áp dụng vào đổi mới chương trình và SGK THPT. Mặc dù đã được qua một số đợt tập huấn, bồi dưỡng thường xuyên về đổi mới phương pháp dạy học theo quan điểm tích hợp, nhưng do chương trình quá mới mẻ nên chưa hẳn tất cả giáo viên đều đã nhận thức về vấn đề một cách thấu đáo.Bản thân người viết đề tài này cũng không ít lần lúng túng trong thiết kế bài dạy cũng như vận dụng một cách hiệu quả các phương pháp dạy học theo quan điẻm tích hợp.
Từ những cơ sở trên, khi chọn đề tài này người viết cũng không ngoài mục đích là muốn đúc rút những vấn đề lí luận cơ bản nhằm giúp cho việc nhận thức về phương pháp dạy học theo quan điểm tích hợp rõ hơn, từng bước góp phần đổi mới phương pháp giảng dạy và nâng cao chất lượng dạy và học bộ môn Ngữ văn bậc THPT ( nâng cao năng lực sử dụng những kiến thức và kĩ năng mà HS lĩnh hội được, bảo đảm cho mỗi HS khả năng huy động có hiệu quả những kiến thức và kĩ năng của mình để giải quyết những tình huống có ý nghĩa, cũng có khi là một tình huống khó khăn, bất ngờ, một tình huống chưa từng gặp. Mặt khác, tránh được những nội dung, kiến thức và kĩ năng trùng lặp, đồng thời lĩnh hội những nội dung, tri thức và năng lực mà mỗi môn học hay phân môn riêng rẽ không có được ).
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Trong đề tài này tôi chỉ đi vào tìm hểu một số vấn đề lí luận về phương pháp dạy học tích hợp nói chung và đối với bộ môn Ngữ văn THPT nói riêng, sau đó minh hoạ bằng một số thiết kế bài giảng trong chương trình lớp 10.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
Bản thân tiến hành nghiên cứu dưa trên việc khảo sát các tiết dạy cụ thể trên lớp bằng việc áp dụng một số phương pháp dạy học .
- Phương pháp dạy học nhóm.
- Phương pháp dạy học theo dự án.
- Phương pháp trò chơi.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm.
2.1. Cơ sở lí luận.
- Tích hợp (integration) có nghĩa là sự hợp nhất, sự hoà nhập, sự kết hợp. Nội hàm khoa học khái niệm tích hợp có thể hiểu một cách khái quát là sự hợp nhất hay là sự nhất thể hoá đưa tới một đối tượng mới như là một thể thống nhất trên những nét bản chất nhất của các thành phần đối tượng, chứ không phải là một phép cộng giản đơn những thuộc tính của các thành phần ấy. Hiểu như vậy, tích hợp có hai tính chất cơ bản, liên hệ mật thiết với nhau, quy định lẫn nhau, là tính liên kết và tính toàn vẹn. Liên kết phải tạo thành một thực thể toàn vẹn, không còn sự phân chia giữa các thành phần kết hợp. Tính toàn vẹn dựa trên sự thống nhất nội tại các thành phần liên kết, chứ không phải sự sắp đặt các thành phần bên cạnh nhau. 
Không thể gọi là tích hợp nếu các tri thức, kĩ năng chỉ được thụ đắc, tác động một cách riêng rẽ, không có sự liên kết, phối hợp với nhau trong lĩnh hội nội dung hay giải quyết một vấn đề, tình huống. Trong lí luận dạy học, tích hợp được hiểu là sự kết hợp một cách hữu cơ, có hệ thống, ở những mức ñộ khác nhau, các kiến thức, kĩ năng thuộc các môn học khác nhau hoặc các hợp phần của bộ môn thành một nội dung thống nhất, dựa trên cơ sở các mối liên hệ về lí luận và thực tiễn được đề cập đến trong các môn học hoặc các hợp phần của bộ môn ñó. Trong Chương trình THPT, môn Ngữ văn, năm 2002 của Bộ GD&ĐT, khái niệm tích hợp cũng được hiểu là “sự phối hợp các tri thức gần gũi, có quan hệ mật thiết với nhau trong thực tiễn, để chúng hỗ trợ và tác động vào nhau, phối hợp với nhau nhằm tạo nên kết quả tổng hợp nhanh chóng và vững chắc.” [tr. 27]
	Việc vận dụng quan điểm tích hợp vào dạy học Ngữ văn ở trường THPT chẳng những dựa trên cơ sở các mối liên hệ về lí luận và thực tiễn được đề cập trong các phân môn Văn học, Tiếng Việt, Làm văn cũng như các bộ phận tri thức khác như hiểu biết lịch sử xã hội, văn hoá nghệ thuật... mà còn xuất phát từ đòi hỏi thực tế là cần phải khắc phục, xoá bỏ lối dạy học theo kiểu khép kín, tách biệt thế giới nhà trường và thế giới cuộc sống, cô lập giữa những kiến thức và kĩ năng vốn có liên hệ, bổ sung cho nhau, tách rời kiến thức với các tình huống có ý nghĩa, những tình huống cụ thể mà HS sẽ gặp sau này. Nói khác đi, đó là lối dạy học khép kín “trong nội bộ phân môn”, biệt lập các bộ phận Văn học, Tiếng Việt và Làm văn vốn có quan hệ gần gũi về bản chất, nội dung và kĩ năng cũng như mục tiêu, đủ cho phép phối hợp, liên kết nhằm tạo ra những đóng góp bổ sung cho nhau cả về lí luận và thực tiễn, đem lại kết quả tổng hợp và vững chắc trong việc giải quyết những tình huống tích hợp hoặc những vấn đề thuộc từng phân môn.
- Vận dụng quan điểm tích hợp trong dạy học Ngữ văn là cách thức để khắc phục, hạn chế lối dạy học đó nhằm nâng cao năng lực sử dụng những kiến thức và kĩ năng mà HS lĩnh hội được, bảo đảm cho mỗi HS khả năng huy động có hiệu quả những kiến thức và kĩ năng của mình để giải quyết những tình huống có ý nghĩa, cũng có khi là một tình huống khó khăn, bất ngờ, một tình huống chưa từng gặp. Mặt khác, tránh được những nội dung, kiến thức và kĩ năng trùng lặp, đồng thời lĩnh hội những nội dung, tri thức và năng lực mà mỗi môn học hay phân môn riêng rẽ không có được.
2.2. Thực trạng của vấn đề.
Chương trình mới chỉ còn một bộ sách với tên gọi chung là Ngữ văn. Trong khi lâu nay vẫn quen dùng riêng biệt 3 quyển ứng với 3 phân môn được biên soạn độc lập đó là: Tiếng Việt, Làm văn và Văn học. Chương trình được biên soạn theo hướng tích hợp. Chương trình phân ban mới soạn theo lô gích tích hợp. Chú trọng rèn kĩ năng tổng hợp: Đọc, nói, nghe, viết cho học sinh bằng việc gắn kết, phối hợp các nội dung gần gũi liên quan giữa các phân môn Tiếng Việt, Làm văn, Đọc - hiểu văn bản. Chương trình được phân bố theo các cụm bài học có kiến thức gần gũi .
Ví dụ:
*Chương trình lớp 10, ở tuần học 21, 25 được sắp xếp gồm :
- Đọc hiểu văn bản : 
+ Tựa “Trích diễm thi tập” ( Hoàng Đức Lương )
+ Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn 
+ Thái sư Trần Thủ Độ (Ngô Sĩ Liên)
- Xen kẽ là các tiết luyện tập về :
+ Các hình thức kết cấu văn bản thuyết minh.
+ Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật.
+ Đọc hiểu văn bản văn học.
* Hay từ tuần thứ 26 đến tuần 29, chương trình được bố trí như sau:
+ Đọc- hiểu : Một số đoạn trích trong Truyện Kiều
+ Tiếng Việt : Những yêu cầu sử dụng Tiếng Việt.
+ Thực hành các phép tu từ: Phép điệp và phép đối.
- Sắp xếp cụm bài học như vậy chính là nhằm tập trung hình thành và rèn cho học sinh kỹ năng đọc văn và làm văn. Theo cách bố trí này thì 3 phân môn Tiếng Việt, làm văn và văn không còn là 3 phân môn độc lập cung cấp những kiến thức kỹ năng độc lập mà có mối quan hệ qua lại chặt chẽ: Trang bị kiến thức Tiếng Việt là để giúp đọc - hiểu văn bản, làm văn.Còn các tri thức văn học, văn hoá xã hội, lịch sử, Tiếng Việt ... là những công cụ cần thiết giúp cho việc đọc- hiểu văn bản văn học cũng như khả năng tạo lập văn bản .
* Trong hệ thống bài Đọc- hiểu văn bản, việc bố trí sắp xếp bài học cũng theo hướng tích hợp: Các tác phẩm ở phần này đã được lựa chọn theo từng thể loại theo từng giai đoạn lịch sử văn học và tổ chức dạy học theo đặc trưng thể loại trên cơ sở kết hợp chặt chẽ với các bài học , bài luyện tập Tiếng Việt và Làm văn.
Ví dụ: 
Ở chương trình Ngữ văn lớp 10, từ tuần 12 đến tuần 15, các tác phẩm lựa chọn đưa vào phần đọc- hiểu văn bản đều là các tác phẩm thuộc các thể thơ Đường luật ( Thất ngôn bát cú Đường Luật, Thất ngôn tứ tuyệt) như :
+ Thuật hoài ( Phạm Ngũ Lão )
+ Cảnh ngày hè ( Nguyễn Trãi )
+ Cáo tật thị chúng (Mãn Giác thiền sư)
+ Quy hứng ( Nguyễn Trung Ngạn)
+ Nhàn ( Nguyễn Bỉnh Khiêm)
+ Độc Tiểu Thanh kí ( NGuyễn Du )
+ Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng ( Lí Bạch )
+ Thu hứng (Đỗ Phủ )...
Cách lựa chọn và sắp xếp bài học như vậy là hoàn toàn khác với chương trình SGK trước đây .( Sắp xếp theo từng tác giả , giai đoạn văn học và dạy theo hướng minh hoạ lịch sử văn học ít chú ý đến đặc trưng thể loại). Điều này đã khiến không ít giáo viên chúng ta cảm thấy lúng túng khi triển khai bài dạy nhất là ở các tác phẩm cùng một tác giả nhưng lại được bố trí dạy trong nhiều thời điểm khác nhau và những bài học về tác giả lại dạy sau tác phẩm. Lúng túng là điều không tránh khỏi nhưng nếu biết định hướng bài dạy theo cách tích hợp thì cũng không khó để tiếp cận và làm quen dần với phương pháp dạy học mới theo quan điểm tích hợp.
Giúp học sinh tiếp cận với hệ thống bài đọc- hiểu theo đặc trưng thể loại là cách tiếp cận với văn bản văn học một cách khoa học khách quan. Từ đó, giúp hình thành năng lực tự tìm tòi phát hiện trong quá trình tiếp cận với nhiều tác phẩm khác, tao cho các em hứng thú tự khám phá vẻ đẹp muôn màu muôn vẻ của tác phẩm văn học. Tin rằng nếu GV chú ý tổ chức dạy học những bài trên theo đặc trưng thể loại thì sẽ tích hợp được hệ thống kiến thức kĩ năng cơ bản về đặc điểm của các thể thơ Đường Luật và những điều này sẽ neo lại trong tâm trí các em để khi cần thiết các em sẽ huy động nó như là công cụ, chìa khoá để có thể đọc hiểu những tác phẩm cùng thể loại, cũng như vận dụng để tạo lập văn bản..
2.3. Các giải pháp, biện pháp để giải quyết vấn đề:
2.3.1. Yêu cầu chung :
Phương pháp dạy học theo quan ñiểm tích hợp yêu cầu Giáo viên chú ý hướng dẫn học sinh tìm hiểu, chiếm lĩnh những tri thức kĩ năng đặc thù của từng phân môn, từng bài học cụ thể. Đồng thời phải biết khai thác những yếu tố chung, những yếu tố có mối liên hệ giữa các phân môn, các bài học khác cùng loại. Từ đó giúp hình thành hệ thống tri thức , kĩ năng cơ bản cho học sinh.
Ví dụ: Khi dạy các bài Đọc - hiểu văn bản văn học ( Chương trình Ngữ văn nói chung ) cần chú ý :
- Khai thác khía cạnh ngữ âm, ngữ nghĩa, tính hình tượng của ngôn ngữ nghệ thuật, làm rõ hiệu quả biểu đạt của các yếu tố ngôn ngữ đó nhằm giúp học sinh cảm hiểu được cái hay cái đẹp của tác phẩm văn học.
- Khai thác cách kết cấu, lôgich văn bản...Từ đó hình thành kiến thức về đặc trưng thể loại và kĩ năng tạo lập văn bản.
Như vậy, muốn kết hợp có hiệu quả các phương pháp dạy học để đảm bảo tính tích hợp, thì ngay ở khâu chuẩn bị, GV cần nắm vững cách phân bố chương trình, bài dạy để có hướng tổ chức bài dạy theo từng cụm bài cùng đặc trưng thể loại, cụm bài có điểm giao về nội dung kiến thức kĩ năng, từ đó chú ý thiết kế bài dạy theo hường tích hợp.
2.3.2. Phương pháp dạy học ở từng phân môn cụ thể :
	* Dạy Đọc- hiểu văn bản văn học :
- Theo quan điểm tích hợp, dạy đọc- hiểu là quá trình giúp học sinh qua việc tiếp xúc với văn bản, thông hiểu cả nghĩa đen, nghĩa bóng, nghĩa hàm ẩn, thấy được vai trò, hiệu quả biểu đạt của các hình thức biện pháp ngôn từ, ý nghĩa của hình tượng nghệ thuật, những thông ñiệp tư tưởng tình cảm, thái độ của người viết gửi gắm trong tác phẩm cụ thể . Đồng thời, qua nhiều tác phẩm đọc- hiểu cùng thể loại cần giúp học sinh nắm vững đặc trưng thể loại : về kết cấu, ngôn ngữ ... mang tính đặc thù của thể loại đó nhằm trang bị cho học sinh kiến thức kĩ năng cơ bản về thể loại văn học. Do vậy cần:
- Xem dạy Đọc- hiểu là quá trình hướng dẫn học sinh tiếp nhận, hiểu kĩ và hiểu sâu văn bản. Đồng thời trang bị cho người học kiến thức đọc văn và phương pháp đọc văn thông qua việc tiếp cận với các tác phẩm tiêu biểu cùng thể loại trong từng giai đoạn lịch sử nhất định, hình thành kiến thức về thể loại văn học một cách hệ thống.
* Các bước hướng dẫn đọc- hiểu văn bản văn học:
- Tìm hiểu chung về tác phẩm gồm :
+ Tác giả.
+ Hoàn cảnh ra đời .
+ Xác định thể loại và tìm hiểu đặc trưng thể loại.
+ Tìm hiểu kết cấu của văn bản .
+ Định hướng chủ đề tác phẩm .
=>Hướng dẫn học sinh nắm vững phần kiến thức chung qua hệ thống câu hỏi:
+ Hỏi về hoàn cảnh ra đời ( giúp gì cho việc tìm hiểu tác phẩm? )
+Hỏi về những nét nổi bật trong tiểu sử, sự nghiệp tác giả. ( chi phối ñến sáng tác như thế nào?
+ Hỏi về đặc điểm thể loại và vai trò tác dụng của thể loại.
+ Câu hỏi xác định bố cục, kết cấu văn bản ( Căn cứ vào mạch truyện, mạch cảm xúc, theo đặc trưng thể loại ))
- Hướng dẫn đọc hiểu văn bản : Cần chú ý câu hỏi đọc- hiểu kĩ và Đọc - hiểu sâu văn bản
+ Câu hỏi phát hiện từ ngữ khó , điển tích điển cố...
+ Câu hỏi phát hiện các khía cạnh độc đáo của ngôn ngữ nghệ thuật : Từ ngữ, hình ảnh, chi tiết, các biện pháp tu từ...( Những chi tiết nghệ thuật nào đã được tác giả sử dụng một cách đặc sắc độc đáo? )
+ Câu hỏi về giá trị biểu đạt,hiệu quả nghệ thuật của các thủ pháp nghệ thuật nhằm gợi mở, kích thích trí tưởng tượng, khả năng liên tưởng, liên hệ, khả năng cảm thụ văn học của học sinh .( Ví dụ : Cảm nhận của em về cảnh vật ( con người, tình cảm, cảm xúc...) ñược gợi qua chi tiết, từ ngữ, hình ảnh...? )
+ Câu hỏi về thông điệp tư tưởng tình cảm, ý nghĩa triết lí... tác giả muốn gửi gắm qua tác phẩm .( Qua bức tranh cảnh vật ( con người, tâm trạng, cảm xúc...) tác giả muốn gửi gắm điều gì ? )
+ Câu hỏi về sự đóng góp về nghệ thuật và nội dung của tác phẩm...
* Dạy các bài Tiếng Việt - Làm văn :
Bài học Tiếng Việt và Làm văn trong chương trình SGK mới gồm hai loại :
+ Bài học hình thành lí thuyết .
+ Bài học thực hành củng cố lí thuyết : - Luyện tập Tiếng Việt.
- Viết, trả bài làm văn.
- Tổ chức bài dạy:
* Nguyên tắc chung: Cả bài học Làm văn và Tiếng Việt đều lấy kiểu văn bản để tổ chức nội dung dạy học nên việc dạy lí thuyết văn bản (Định nghĩa, phân loại, đặc điểm, cách làm bài ) chỉ do một phân môn đảm nhiệm . Phần luyện tập nhận biết và rèn kĩ năng tạo lập văn bản không chỉ lấy các văn bản văn học trong chương trình đọc- hiểu làm ngữ liệu mà còn phải dựa vào nhiều loại ngữ liệu khác để từ đó hình thành kiến thức kĩ năng tích hợp cho học sinh, giúp các em phân biệt các loại văn bản, đồng thời thấy được sự kết hợp các kĩ năng trong một văn bản:
+ Miêu tả trong bài văn tự sự.
+ Miêu tả trong các văn bản văn học khác...
Từ những đặc điểm trên, khi dạy Tiếng Việt- Làm văn, giáo viên cần xác định cụm tương đồng giữa : Kiểu văn bản và loại thể văn bản.
Ví dụ : + Tiếng Việt- Làm văn -Kiểu văn bản tự sự.
- Kiểu văn bản miêu tả.
+ Bài Đọc- hiểu :	
-Tác phẩm tự sự
*Tổ chức dạy học Tiếng Việt – Làm văn theo nguyên tắc tích hợp :
- Giờ Tiếng Việt :Mỗi bài học đều nhằm cung cấp cho học sinh một đơn vị ngôn ngữ cụ thể. Do vậy yêu cầu :
+ Hướng dẫn học sinh liên hệ với các tác phẩm đã và đang học trong chương trình Đọc- hiểu văn bản.
+ Đặt yếu tố ngôn ngữ đó trong văn cảnh cụ thể của tác phẩm, vận dung lí thuyêt một cách thành thạo để nghe, đọc, hiểu, nối đúng và viết đúng.( kiến thức , kĩ năng tích hợp).
+ Đặt các yểu tố ngôn ngữ này trong các tình huống đời sống để so sánh mở rộng giúp học sinh nắm vững khắc sâu kiến thức.
- Giờ Làm văn:
+ Căn cứ vào các văn bản văn học trong phần Đọc - hiểu văn bản, coi như đó là những văn bản mẫu cho kiểu văn bản và sử dung với vai trò ngữ liệu làm cơ sở cho việc hình thành lí thuyết ( phân tích cách diễn đạt, kết cấu, bố cục...)
+ Hướng dẫn học sinh vận dụng tổng hợp kiến thức kĩ năng từ phần Đọc-hiểu văn bản và Tiếng Việt để tạo lập văn bản.
+ Củng cố năng lực nghe, đọc, hiểu và tạo lập văn bản bằng việc làm văn ( tạo lập một văn bản cụ thể ).
2.4. Tích hợp tư tưởng và đạo đức Hồ Chí Minh trong dạy học Ngữ văn.
2.4.1. Vai trò của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một phần không thể thiếu trong đời sống tinh thần của Đảng và nhân dân ta vì đó là:
+ Trí tuệ của nhân loại, tính cách mạng triệt để của giai cấp công nhân, truyền thống văn hoá và sức mạnh đại đoàn kết dân tộc.
+ Tài sản vô giá: làm nên sức mạnh Việt Nam, chiến thắng mọi kẻ thù xây dựng và chấn hưng đất nước hôm nay.
- Một nội dung quan trọng được đặc biệt là tư tưởng về đạo đức “Tư tưởng của người đã và đang soi đường cho cuộc ñấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, trở thành những giá trị bền vững của dân tộc Việt Nam và lan toả ra thế giới”. Ngày 27-3-2003, BBT có Chỉ thị số 23 CT/TW về đẩy mạnh nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn mới. Ngày 7/11/2006, BCT có Chỉ thị 06-CT/BCT về tổ chức Cuộc vận động: “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”
2.4.2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh
	- Giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người;
	- Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại;
- Sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc;
- Quyền làm chủ của nhân dân; quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; 
- Phát triển kinh tế và văn hoá, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân;
- Đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau;
- Xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh, cán bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.
2.4.3. Nhận thức về tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.
	- Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh sớm tiếp thu được những truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc. yêu nước, tinh thần dân tộc, sự cố kết cộng đồng, lòng nhân ái, khoan dung, vị tha, tình đoàn kết. Trong quá trình ra đi tìm đường cứu nước những truyền thống này ngày càng phát triển và được củng cố vững chắc trong Hồ Chí Minh.
	- Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là sự kế thừa và phát triển những tư tưởng đạo đức tốt đẹp truyền thống của nhân loại, cả phương Đông và phương Tây.
	- Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là sự kết hợp giữa đạo đức truyền thống với tư tưởng đạo đức cộng sản.
2.4.4. Yêu cầu, nguyên tắc của việc tích hợp tư tưởng Hồ Chí Minh trong học tập bộ môn Ngữ văn
	- Cần xác định rõ ràng, đây là dạy học bộ môn Ngữ Văn chứ không phải giờ thuyết giảng về tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.
	- Dựa theo “chuẩn kiến thức, kĩ năng và hướng thái độ” của các môn học ở trường phổ thông mà Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành.
	- Giáo viên xác định những vấn đề cơ bản, chủ yếu nhất trong tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, phù hợp với những kiến thức cơ bản của bài học để giáo dục cho học sinh.
	- Không lấy việc kể chuyện về Bác Hồ thay cho dạy học lịch sử, 

Tài liệu đính kèm:

  • docxskkn_nang_cao_hieu_qua_day_hoc_mot_so_bai_trong_chuong_trinh.docx