SKKN Nâng cao hiệu quả dạy - Học môn hoá học ở trung tâm GDNN - GD thường xuyên bằng việc giải thích các hiện tượng thực tiễn có liên quan đến bài học

SKKN Nâng cao hiệu quả dạy - Học môn hoá học ở trung tâm GDNN - GD thường xuyên bằng việc giải thích các hiện tượng thực tiễn có liên quan đến bài học

Trong quá trình học tập, nghiên cứu và giảng dạy bộ môn hóa học tôi thấy: môn hóa học trong Trung Tâm GDNN-GDThường Xuyên là môn khó, nếu không có những bài giảng và phương pháp hợp lí, phù hợp với thế hệ học trò thì dễ làm cho HS thụ động trong việc tiếp thu, cảm nhận. Để môn học không còn mang tính đặc thù khó hiểu tôi chọn đề tài: “Nâng cao hiệu quả dạy - học môn hóa học ở Trung Tâm GDNN-GD Thường Xuyên bằng việc giải thích các hiện tượng thực tiễn có liên quan đến bài học” với mục đích làm cho môn hóa học ngày càng dễ hiểu, thiết thực, gần gũi với đời sống và lôi cuốn học sinh khi học.

doc 16 trang thuychi01 6160
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Nâng cao hiệu quả dạy - Học môn hoá học ở trung tâm GDNN - GD thường xuyên bằng việc giải thích các hiện tượng thực tiễn có liên quan đến bài học", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NÂNG CAO HIỆU QUẢ DẠY - HỌC MÔN HOÁ HỌC Ở TRUNG TÂM GDNN - GDTHƯỜNG XUYÊN BẰNG VIỆC GIẢI THÍCH CÁC HIỆN TƯỢNG THỰC TIỄN CÓ LIÊN QUAN ĐẾN BÀI HỌC
1. Mở đầu
	1.1. Lý do chọn đề tài. (1)
	Trong quá trình học tập, nghiên cứu và giảng dạy bộ môn hóa học tôi thấy: môn hóa học trong Trung Tâm GDNN-GDThường Xuyên là môn khó, nếu không có những bài giảng và phương pháp hợp lí, phù hợp với thế hệ học trò thì dễ làm cho HS thụ động trong việc tiếp thu, cảm nhận. Để môn học không còn mang tính đặc thù khó hiểu tôi chọn đề tài: “Nâng cao hiệu quả dạy - học môn hóa học ở Trung Tâm GDNN-GD Thường Xuyên bằng việc giải thích các hiện tượng thực tiễn có liên quan đến bài học” với mục đích làm cho môn hóa học ngày càng dễ hiểu, thiết thực, gần gũi với đời sống và lôi cuốn học sinh khi học.
	1.2. Mục đích nghiên cứu. (2)
	Hiện nay đã có hiện tượng một số bộ phận học sinh không muốn học hóa học, ngày càng lạnh nhạt với các giá trị thực tiễn của hóa học. Do đó tôi chọn đề tài trên là nhằm giúp học sinh của mình hiểu được các hiện tượng tự nhiên, tránh việc mê tín dị đoan, thậm chí hiểu được những dụng ý khoa học hóa học trong các câu ca dao-tục ngữ mà thế hệ trước để lại và có thể ứng dụng trong thực tiễn đời sống hàng ngày chỉ bằng những kiến thức rất phổ thông mà không gây nhàm chán , xa lạ lại có tác dụng kích thích tính chủ động, sáng tạo, hứng thú trong môn học.
Tìm tòi các câu hỏi thực tiễn, các câu chuyện ngắn có tính chất khôi hài, các câu ca dao mang hàm ý khoa học hóa học, các bài tập thực tiễnHệ thống lại và trình bày từng vấn đề cụ thể, cách áp dụng vào từng bài học cụ thể.
 Đó là mục đích thôi thúc tôi tìm tòi, nghiên cứu sáng kiến trên.
	1.3. Đối tượng nghiên cứu. (3)
	- Các phương pháp dạy học tích cực.
	- Các bài dạy trong chương trình lớp 10 – 11- 12.
	- Tình hình thực tiễn ở địa phương.
	- Học sinh hệ bổ túc, đặc biệt là học sinh Trung Tâm GDNN-GDTX Thiệu Hóa (nơi tôi trực tiếp giảng dạy).
	1.4. Phương pháp nghiên cứu. (4)
	Trong quá trình học tập, giảng dạy và nghiên cứu kiến thức này tôi tập trung giải quyết các vấn đề sau:
 - Một là nghiên cứu kĩ lý thuyết trong sách giáo khoa.
	Ghi chú: (1)(2)(3) Tác giả tự nghiên cứu SGK và Sách tham khảo lớp 10, 11, 12 tự viết
	- Hai là nghiên cứu tình hình thực tiễn ở địa phương để đưa ra những câu hỏi sát với thực tế giúp học sinh dễ nhận thấy và nắm được vấn đề.
- Ba là nghiên cứu khả năng tiếp thu của học sinh Trung Tâm GDNN-GDTX Thiệu Hóa để có những cách trình bày thật dễ hiểu, phù hợp với từng đối tượng học sinh.
- Bốn là vận dụng phương pháp giải bài tập vào thực tiễn giảng dạy của mình, học tập của học sinh, cũng như thu thập ý kiến phản hồi từ học sinh và đồng nghiệp, rút kinh nghiệm sữa chữa, bổ sung, hoàn thiện hơn.
	2. Nội dung
	2.1. Cơ sở lý luận.
	2.1.1. Cơ sở pháp lý. (5)
	- Dựa trên nội dung của bộ SGK 10, 11, 12 do bộ giáo dục phát hành.
	- Dựa trên bài tập của bộ sách bài tập hóa học đang dùng trong trường.
	- Dựa trên nội dung của các đề thi do bộ giáo dục ra.
	Ø Đó là 3 cơ sở pháp lí vững chắc để tôi chọn, nghiên cứu và viết sáng kiến kinh nghiệm này.
	2.1.2. Cơ sở lý luận . (6)
Hoá học là một môn học khó đối với học sinh vì nó là một môn khoa học tổng hợp kiến thức của các môn khoa học tự nhiên và xã hội khác. Cho nên sau khi học xong chương trình lớp 7 các em mới có đủ điều kiện để lĩnh hội kiến thức của môn học này. Bên cạnh đó một số em học sinh còn cho rằng đây là một môn học phụ nên các em chưa có ý thức để học tập tốt bộ môn. Do đặc trưng của môn học và những quan niệm sai lầm về bộ môn cùng với sự cố gắng chưa cao của giáo viên trực tiếp giảng dạy môn hoá học, dẫn đến kết quả học tập của học sinh về môn hoá học ở các trường còn thấp. Từ kết quả này lương tâm và trách nhiệm nghề nghiệp thôi thúc tôi phải làm thế nào để nâng cao chất lượng học tập, việc làm đầu tiên là nâng cao chất lượng một giờ dạy trên lớp vì đây là một môn học rất thiết thực với thực tế đời sống và lao động sản xuất. Nó chuyên nghiên cứu về các chất và sựchuyển hoá của các chất, giúp ta từ các chất ban đầu tạo ra nhiều chất mới. Nhiều sản phẩm mới và quý không thể thiếu được trong cuộc sống để từng bước nâng cao mức sống của con người và đáp ứng toàn bộ yêu cầu của xã hội. 
	2.1.3 Cơ sở thực tiễn. (7)
	Phân môn Hóa học trong trường giữ một vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển trí dục học sinh. Mục đích của môn học là giúp cho học sinh hiểu đúng đắn và hoàn chỉnh, nâng cao cho học sinh những trí thức, hiểu biết về thế giới,
	Ghi chú: (4)(5)(6)(7)Tác giả tự nghiên cứu SGK và Sách tham khảo lớp 10, 11, 12 để viết 
con người thông qua các bài học, giờ thực hành của hóa học. Học hóa để hiểu, giải thích được các vấn đề thực tiễn thông qua cơ sở cấu tạo nguyên tử, phân tử, sự chuyển hóa các chất bằng các phương trình phản ứng hóa họcĐồng thời khởi nguồn, là cơ sở phát huy tính sáng tạo đưa những ứng dụng phục vụ trong đời sống của con người. Hóa học góp phần giải tỏa, xóa bỏ hiểu biết sai lệch làm phương hại đến đời sống, tinh thần của con người Để đạt mục đích trong học hóa học trong Trung Tâm GDNN-GD Thường Xuyên thì giáo viên dạy hóa học là nhân tố tham gia quyết định chất lượng. Do vậy ngoài những hiểu biết về hóa học, người giáo viên dạy hóa học còn phải có phương pháp truyền đạt thu hút gây hứng thú khi lĩnh hội kiến thức hóa học của học sinh. Đó là vấn đề cần quan tâm và nghiên cứu nghiêm túc. Trong sáng kiến kinh nghiệm (SKKN) này tôi có đề cập một khía cạnh “ Nâng cao hiệu quả dạy - học môn hóa học ở Trung Tâm GDNN-GD Thường Xuyên bằng việc giải thích các hiện tượng thực tiễn có liên quan đến bài học” với mục đích góp phần sao cho học sinh học hóa học dễ hiểu, thiết thực, gần gũi với đời sống và lôi cuốn học sinh khi học Để hóa học không còn mang tính đặc thù khó hiểu như một “ thuật ngữ khoa học”.
	2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng.
	2.2.1. Địa bàn nghiên cứu.(8)
Việc nghiên cứu và viết sáng kiến kinh nghiệm này là dựa vào sách giáo khoa, một vài sách tham khảo và tình hình học tập và nghiên cứu của học sinh Trung Tâm GDNN-GD Thường Xuyên nơi tôi đang công tác. 
	2.2.2. Thực trạng của đề tài nghiên cứu. (9)
Mặc dù bộ môn hoá học ở Trung Tâm GDNN - GD Thường Xuyên đóng một vai trò rất quan trọng nhưng đã có rất nhiều em không thích học môn này . 
Phần đa học sinh không biết vận dụng vào thực tiễn. kiến thức của các em còn yếu và trung bình chỉ cần một số phương trình khó một chút, cân bằng phương trình sai hay khi áp dụng công thức sai sẽ dẫn tới làm bài tập tính toán sai kết quả........ Cứ như thế càng ngày các em càng chán học, bỏ bê học môn hóa học.
	Từ những thực trạng trên tôi thấy việc viết sáng kiến kinh nghiệm trên “ Nâng cao hiệu quả dạy - học môn hóa học ở Trung Tâm GDNN - GD Thường Xuyên bằng việc giải thích các hiện tượng thực tiễn có liên quan đến bài học” là rất cần thiết cho giáo viên hóa học. Lúc này các em sẽ thấy hứng thú, say mê khi áp dụng vào thực tiễn và học sinh sẽ ngày càng yêu thích học môn hóa học hơn.
	2.2.3. Nguyên nhân của thực trạng nghiên cứu. (10)
Ghi chú: (8)(9)(10)Tác giả tự nghiên cứu SGK và Sách tham khảo lớp 10, 11, 12 tự viết
Nguyên nhân dẫn đến thực tiễn đó có một số nguyên nhân cơ bản là:
- Các em chưa tìm thấy hứng thú trong quá trình học.
- Các em thấy khó, chán nản và có ý thức ỉ lại.
- Các em chưa thấy được tầm quan trọng của bộ môn.
Sở dĩ dẫn tới thực tế trên một phần chủ yếu là do giáo viên chưa tạo được những tiết học lôi cuốn học sinh. Nên dẫn đến chất lượng thấp.
	2.3. Biện pháp và phương pháp chủ yếu trong nghiên cứu đề tài.
	2.3.1. Các giải pháp thực hiện.(11)
	* “Nâng cao hiệu quả dạy- học môn hóa học ở Trung Tâm GDNN-GD Thường Xuyên bằng việc giải thích các hiện tượng thực tiễn có liên quan đến bài học” bằng cách nêu hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống ngày thường sau khi đã kết thúc bài học. Cách nêu vấn đề này có thể tạo cho học sinh căn cứ vào những kiến thức đã học, tìm cách giải quyết những hiện tượng ở nhà hay những lúc bắt gặp hiện tượng đó, học sinh sẽ suy nghĩ, ấp ủ câu hỏi vì sao lại có hiện tượng đó? Tạo tiền đề thuận lợi khi học bài học mới tiếp theo.
	* “Nâng cao hiệu quả dạy- học môn hóa học ở Trung Tâm GDNN-GD Thường Xuyên bằng việc giải thích các hiện tượng thực tiễn có liên quan đến bài học” bằng cách nêu hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống ngày thường qua các phản ứng hóa học cụ thể trong bài học. Cách nêu vấn đề này có thể sẽ mang tính cập nhật, làm cho học sinh hiểu và thấy được ý nghĩa thực tiễn của bài học. 
	Giáo viên có thể giải thích để giải tỏa tính tò mò của học sinh mặc dù vấn đề giải thích có tính chất rất phổ thông.
	* “Nâng cao hiệu quả dạy- học môn hóa học ở Trung Tâm GDNN-GD Thường Xuyên bằng việc giải thích các hiện tượng thực tiễn có liên quan đến bài học” bằng cách nêu hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống ngày thường thay cho lời giới thiệu bài giảng mới. Cách nêu vấn đề này có thể tạo cho học sinh bất ngờ, có thể là một câu hỏi rất khôi hài hay một vấn đề rất bình thường và hàng ngày học sinh vẫn gặp nhưng lại tạo sự chú ý quan tâm của học sinh trong quá trình học tập.
	* “Nâng cao hiệu quả dạy- học môn hóa học ở Trung Tâm GDNN-GD Thường Xuyên bằng việc giải thích các hiện tượng thực tiễn có liên quan đến bài học” bằng cách nêu hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống ngày thường thông qua các bài tập tính toán. Cách nêu vấn đề này có thể giúp cho học sinh trong khi làm bài tập lại lĩnh hội được vấn đề cần truyền đạt, giải thích. Vì muốn 
	Ghi chú: (11) Tác giả tự nghiên cứu SGK và Sách tham khảo lớp 10, 11, 12 tự viết
giải được toán hóa đó học sinh phải hiểu được nội dung kiến thức cần huy động, hiểu được bài toán yêu cầu gì? Và giải quyết như thế nào?
	* “Nâng cao hiệu quả dạy- học môn hóa học ở Trung Tâm GDNN-GD Thường Xuyên bằng việc giải thích các hiện tượng thực tiễn có liên quan đến bài học” bằng cách nêu hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống ngày thường thông qua những câu chuyện ngắn có tính chất khôi hài, gây cười. Có thể xen vào bất cứ thời gian nào trong suốt tiết học. Hướng này có thể góp phần tạo không khí học tập thoải mái. Đó cũng là cách kích thích niềm đam mê học hóa.
	* “Nâng cao hiệu quả dạy- học môn hóa học ở Trung Tâm GDNN-GD Thường Xuyên bằng việc giải thích các hiện tượng thực tiễn có liên quan đến bài học” bằng cách tiến hành tự làm thí nghiệm qua các hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống ngày thường ở địa phương, gia đìnhsau khi đã học bài giảng. Cách nêu vấn đề này có thể làm cho học sinh căn cứ vào những kiến thức đã học tìm cách giải thích hay tự tái tạo lại kiến thức qua các thí nghiệm ở nhà hay những lúc gặp hiện tượng hay tình huống đó. Giúp học sinh phát huy khả năng ứng dụng hóa học vào đời sống thực tiễn.
	* “Nâng cao hiệu quả dạy- học môn hóa học ở Trung Tâm GDNN-GD Thường Xuyên bằng việc giải thích các hiện tượng thực tiễn có liên quan đến bài học” bằng cách nêu hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống ngày thường từ đó liên hệ với nội dung bài giảng để rút ra những kết luận mang tính quy luật, làm cho học sinh không có cảm giác khó hiểu vì có nhiều vấn đề lí thuyết nếu đề cập theo tính đặc thù của bộ môn thì khó tiếp thu được nhanh so với gắn nó với thực tiễn hàng ngày.
	2.3.2. Các biện pháp để tổ chức thực hiện. (12)
	* Để tổ chức thực hiện được giáo viên có thể dùng nhiều phương tiện, nhiều cách như: bằng lời giải thích, bằng hình ảnh, đoạn phim, bài hát Có thể tiến hành dạy trong hoàn cảnh dùng máy chiếu hay không dùng máy chiếu Điều này còn phụ thuộc vào giáo viên ở , căn cứ vào hoàn cảnh dạy cụ thể và phong cách dạy khác nhau để huy động tối đa vì hiệu quả giáo dục với nội dung đề tài này, có những kinh nghiệm có thể áp dụng cho nhiều người, nhưng có những phong cách dạy không thể áp dụng cho giáo viên khác vì phong cách dạy “nó như tính cách mỗi con người không thể ai cũng giống ai”nhưng đảm bảo được nội dung dạy học theo yêu cầu của chương trình. Tôi nói vậy không có nghĩa người giáo viên không đổi mới phương pháp giảng dạy mà mỗi giáo viên luôn phải tìm cách đổi mới trong phong cách dạy của mình theo yêu cầu của thực tiễn hiện hành. Có thể nói “người giáo viên như một đạo diễn cho tiết dạy của mình”.
	Ghi chú: (12) Tác giả tự nghiên cứu sách giáo khoa và sách tham khảo để viết
	* Phần ví dụ minh họa thông qua một số hiện tượng thực tiễn.
	Vấn đề 1: Vai trò của ozon trong đời sống và công nghiệp như thế nào?(13)
Ozon có khả năng cải tạo nước thải, có thể khử được các chất độc như phenol, hợp chất xianua, nông dược, chất trừ cỏ, các hợp chất hữu cơ gây bệnh có trong nước thải. Ozon có thể tác dụng với các ion kim loại như: sắt, thiếc, chì, mangan biến nước thải thành nước sạch vô hại. Trên tầng cao khí quyển 10-30 km quanh trái đất, ozon tồn tại thành một tầng khí quyển riêng có khả năng hấp thụ tia tử ngoại phát ra từ mặt trời. Vì các tia tử ngoại làm cho người và động vật bị đột biến gen, gây bệnh nang y Gần đây, do công nghiệp phát triển, các nhà máy xuất hiện khí thải, động cơ phản lực thải vào khí quyển một lượng bụi và khí ô nhiễm, thì ozon lại góp phần oxi hóa chất gây ô nhiễm, cũng chính vì vậy tầng ozon bị mỏng dần. Trong vòng 50 năm gần đây, lượng ozon bị mỏng đi 1%, có một số nơi tầng ozon bị thủng và gây ra không ít hiện tượng như bão, lũ lụt, cháy rừng, bệnh nan y
	Áp dụng: (14)
Đây là vấn đề có liên quan đến giáo dục môi trường. Qua bài học học sinh 
tự viết
hiểu được tầm quan trọng của ozon, vừa có ý thức bảo vệ môi trường và kích thích sự tìm hiểu vấn đề này Giáo viên có thể đưa vào bài giảng phần ozon.
	Vấn đề 2: Vì sao khi luộc rau muống nên cho vào trước một ít muối ăn NaCl? (15)
NhiÖt ®é s«i dung dÞch lu«n lín h¬n nhiÖt ®é s«i dung m«i.
Do nhiệt độ sôi của nước ở áp suất 1 atm là 1000C, nếu cho thêm NaCl thì lúc đó làm cho nhiệt độ của dung dịch NaCl loãng khi sôi > 1000C. Vì vậy rau mống sẽ mềm hơn và xanh hơn, thời gian luộc rau không lâu làm rau ít mất vitamin và giữ được nhiều chất dinh dưỡng.
	Áp dụng: (16)
Vấn đề này có thể có học sinh biết nhưng có học sinh không để ý, nhưng nếu được biết đến thì các em có thể tiến hành thí nghiệm ngay trong một buổi nấu ăn, góp phần tạo nên kinh nghiệm cho học sinh, rất thiết thực. Có thể chèn vào trong bài giảng của 3 lớp 11 và 2 lớp 10.
	Vấn đề 3: Tạo sao không đựng dung dịch HF trong bình đựng bằng thủy tinh? (17)
Dung dịch HF tuy là axit yếu nhưng có tính chất đặc biệt là ăn mòn được thủy tinh. Do thành phần của thủy tinh có SiO2, cho dung dịch HF vào thì có phản ứng:
	Ghi chú: (13) (15)(17) Được tác giả trích từ nguồn tài liệu tham kháo mục 1,2,3,4,5,6,7 
	 (14)(16) Tác giả tự nghiên cứu SGK và Sách tham khảo lớp 10, 11, 12 để viết
SiO2 + 4HF SiF4 + 2H2O
 (dễ bay hơi)
	Áp dụng: (18)
Đây là vấn đề bắt buộc trong quá trình dạy về flo và tính chất của HF của lớp 10, lớp 11 giúp học sinh giải đáp được bài tập mà trong thực tiễn tránh đựng dung dịch HF trong bình thủy tinh.
Vấn đề 4: Làm thế nào khắc được thủy tinh? (19)
- Muốn khắc được thủy tinh người ta nhúng thủy tinh vào lớp sáp nóng chảy, nhấc ra cho nguội, dùng vật nhọn tạo hình, chữ, vạch vật cần khắc nhờ lớp sáp (nến) mất đi, rồi nhỏ dung dịch HF vào, thủy tinh sẽ bị ăn mòn ở những nơi đã bị cạo đi lớp sáp.
 SiO2 + 4HF SiF4 + 2H2O
 (dễ bay hơi)
	- Nếu không có dung dịch HF thì có thể thay bằng dung dịch H2SO4 đặc và bột CaF2 (màu trắng). Nhúng thủy tinh vào lớp sáp nóng chảy, nhấc ra cho nguội, dùng vật nhọn tạo hình, chữ, vạch vật cần khắc nhờ lớp sáp (nến) mất đi, rồi rắc bột CaF2 vào chỗ cần khắc, cho thêm H2SO4 đặc vào và lấy tấm kính khác hoặc bìa cứng đặc lên trên khu vực khắc, sau một thời gian thủy tinh sẽ bị ăn mòn ở những nơi cạo lớp sáp. Do:
 	CaF2 + 2H2SO4 Ca(HSO4)2 + 2HF
	 SiO2 + 4HF SiF4 + 2H2O
	Áp dụng: (20)
	Đây là vấn đề thực tế, không những cung cấp cho học sinh phương pháp khắc thủy tinh và còn giải thích hiện tượng đó. Giúp học sinh sẽ nhớ đến bài học khi gặp vấn đề này. Thậm chí là cơ sở cho việc học nghề, khơi dậy niềm đam mê học tập và khám phá, càng tốt hơn nếu học sinh được tiến hành thí nghiệm. Giáo viên có thể đề cập đến trong bài Flo của lớp 10.
	Vấn đề 5: Tục ngữ Việt Nam có câu: “Nước chảy đá mòn” mang hàm ý khoa học Hóa học như thế nào? (21)
Trong đá thông thường có CaCO3. Trong nước tồn tại phương trình điện li sau:
CaCO3 Ca2++ CO
Khi nước chảy cuốn theo các ion Ca2+ và CO. Theo nguyên lí chuyển dịch cân bằng thì cân bằng trên chuyển dịch theo hướng chống lại sự giảm nồng độ Ca2+ và COnên theo thời gian nước chảy đá sẽ mòn dần.
 Áp dụng: (22)
Hiện tượng này hay thấy những phiến đá ở những dòng sông chảy qua nếu
	Ghi chú: (19) (21) Được tác giả trích từ nguồn tài liệu tham kháo mục 1 và mục 3,4,5,6,7
 (18)(20)(22) Tác giả tự nghiên cứu SGK và Sách tham khảo lớp 10, 11, 12 để viết
không để ý trong xây dựng sẽ có ảnh hưởng không ít, góp phần hiểu được dụng ý khoa học hóa học qua câu tục ngữ làm cho hóa học trở nên gần gũi hơn. 
	Vấn đề 6: Ca dao Việt Nam có câu: “Lúa chiêm lấp ló đầu bờ. Hễ nghe tiếng sấm phất cờ mà lên” mang hàm ý của khoa học hóa học như thế nào? (23)
Câu ca dao nhắc nhở người làm lúa: vụ chiêm khi lúa đang trổ đòng mà có trận mưa kèm theo sấm chớp thì sẽ rất tốt và cho năng suất cao sau này. 
Vì sao lại như vậy?
Trong ®iÒu kiÖn thêng Ni t¬ tù do vµ « xi kh«ng t¸c dông víi nhau
Do trong không khí có : 80% khí N2 và : 20% khí O2, khi có chớp (có tia lửa điện) tạo điều kiện cho N2 hoạt động:
 TL§
	N2 + O2 2NO
	 	2NO +O2 2NO2
Khí NO2 tan vào nước mưa: 4NO2 + O2 +2H2O4HNO3
	HNO3H+ + NO
	(đạm)
Nhờ hiện tượng này hàng năm làm tăng 6-7 kg nitơ cho mỗi mẫu đất. Ngày nay người ta đã chế ure (NH2)2CO từ không khí để chủ động bón cho cây trồng và trong nền nông nghiệp hiện đại cần phải dùng nhiều phân bón và nhiệm vụ của ngành công nghiệp hóa chất là “hướng về không khí đòi lương thực”
	Áp dụng: (24)
Đây là câu ca dao mang ý nghĩa thực tiễn, thấy rõ trong đời sống. Vấn đề này có thể xen vào trong tiết dạy phân đạm của lớp 11 tạo cho học sinh ở nông thôn có thể tự kiểm nghiệm trong đời sống, tự quan sát.
	Vấn đề 7: Tại sao nước máy lại có mùi clo? (25)
Khi sục vào nước một lượng nhỏ clo thì sẽ có tác dụng sát khuẩn do clo tan một phần (gây mùi) và phản ứng một phần với nước:
	H2O + Cl2 HCl +HClO
Hợp chất HClO không bền: HClO HCl + O. Oxi nguyên tử có khả năng diệt khuẩn.
 Áp dụng: (26)
Hiện nay clo đang được sử dụng để làm sạch nước trong các nhà máy nước để cung cấp nước trong các thành phố, thị xã, thị trấnGiúp học sinh hiểu và giải tỏa thắc mắc, hiểu được vai trò của hóa học và học sinh có thể kiểm nghiệm
	Ghi chú: (23)(25) Được tác giả trích từ nguồn tài liệu tham kháo mục 1,2,3,4,5,6
 	 (24)(26) Tác giả tự nghiên cứu SGK và Sách tham khảo lớp 10, 11, 12 để viết
 qua thực tế. Giáo viên có thể xem vấn đề này vào phần ứng dụng của clo trong chương trình hóa học lớp 10.
	Vấn đề 8 : Tại sao sau những cơn mưa có sấm chớp thì đường xá, khu phố trở nên sạch quang, mát mẻ, trong lành. (27)
Do không khí có : 20% oxi nên khi có sấm chớp thì:
3O22O3
O3 O2 + O
Oxi nguyên tử có khả năng sát khuẩn. Nên ngoài những hạt mưa cuốn bụi thì O3 là tác nhân làm môi trường sạch sẽ và cảm giác tươi mát.
	Áp dụng: (28) 
Vấn đề này nên đề cập trong bài giảng về ozon, giúp học sinh kiểm nghiệm trong đời sống mà đôi khi có nhiều học sinh không để ý đến. Đây là hiện tượng tự nhiên không xa lạ với học sinh.
	Vấn đề 9: Ma trơi là gì? Ma trơi thường gặp ở đâu? (29)
Ma trơi chỉ là cái tên gọi mê tín mà thực chất là như thế này:
Trong xương động vật có chứa một hàm lượng photpho, khi chết phân hủy một phần thành khí PH3 (photphin). Khi có lẫn một ít điphotphin, khí PH3 tự bốc cháy ngay trong điều kiện thường tạo thành khối cầu lửa bay trong không khí.
PH3+4O2 P2O5 + 3H2O (cháy sáng)
Điều trùng lặp ngẫu nhiên là người ta gặp “ma trơi” tại các nghĩa địa càng làm tăng thêm tính chất kịch tính.
	Áp dụng: (30) 
Vấn đề này phải được đề cập trong bài giảng về photpho để giải thích hiện tượng “ma trơi” trong đời sống tránh tình trạng mê tín dị đoan, làm cho cuộc sống lành mạnh.
	Vấn đề 10: Tại sao phải ăn muối có Iot? (31)
Ăn muối để bổ sung hàm 

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_nang_cao_hieu_qua_day_hoc_mon_hoa_hoc_o_trung_tam_gdnn.doc