SKKN Một vài kinh nghiệm về phương pháp bồi dưỡng học sinh giỏi môn ngữ văn THCS đối với kiểu bài biện pháp tu từ

SKKN Một vài kinh nghiệm về phương pháp bồi dưỡng học sinh giỏi môn ngữ văn THCS đối với kiểu bài biện pháp tu từ

Ở nhà trường THCS, môn Ngữ văn vai trò rất quan trọng trong việc hình thành nhân cách và những phẩm chất, tư duy cho học sinh, góp phần đáp ứng những yêu cầu của thời đại trong mục tiêu đào tạo con người. Là một môn học thuộc nhóm khoa học xã hội, môn Ngữ văn có tầm quan trọng trong việc giáo dục quan điểm, tư tưởng, tình cảm cho học sinh. Đồng thời cũng là môn học thuộc nhóm công cụ, môn Ngữ văn còn thể hiện rõ vị trí, đặc trưng của bộ môn trong mối quan hệ với các môn học khác. Học tốt môn văn sẽ tác động tích cực tới các môn học khác và ngược lại. Để có được một học sinh yêu thích, đam mê và thực sự giỏi văn chương là một việc không dễ. Bồi dưỡng nhân tài nói chung, đào tạo học sinh giỏi văn nói riêng là công việc vô cùng quan trọng và thiêng liêng của người giáo viên dạy văn trong nhà trường hiện nay. Công việc ấy, đòi hỏi ở tài năng tâm huyết, trách nhiệm và phụ thuộc ở kinh nghiệm phát hiện, lựa chọn và năng lực giảng dạy của người giáo viên dạy văn. Học sinh giỏi văn chính là nguồn nhân lực tương lai của các ngành khoa học xã hội và nhân văn. Đào tạo học sinh giỏi văn đúng nghĩa là công việc vô cùng khó, việc phát hiện học sinh giỏi có tố chất văn càng không phải chuyện dễ trong ngày một ngày hai. Có người ví rằng: “ chuyện người thầy phát hiện học sinh giỏi văn chẳng khác công việc của người trồng hoa, chơi cây cảnh”. Bông hoa đẹp bởi bàn tay chăm sóc, tỉa tót, uốn nắn của người trồng. Quan trọng hơn, đôi mắt của người trồng phải thấy được thế cây, kiểu dáng, biết chọn dáng đẹp, biết làm cho hoa khoe sắc rực rỡ đúng kì. Nói như thế cho thấy công việc phát hiện, bồi dưỡng học sinh giỏi văn là một kì công của người dạy văn

doc 22 trang thuychi01 6150
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một vài kinh nghiệm về phương pháp bồi dưỡng học sinh giỏi môn ngữ văn THCS đối với kiểu bài biện pháp tu từ", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ
PHÒNG GD&ĐT THÀNH PHỐ THANH HÓA
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
MỘT VÀI KINH NGHIỆM VỀ PHƯƠNG PHÁP BỒI DƯỠNG 
HỌC SINH GIỎI MÔN NGỮ VĂN THCS
ĐỐI VỚI KIỂU BÀI BIỆN PHÁP TU TỪ
Người thực hiện: Lê Thị Nga
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường THCS Trần Mai Ninh
SKKN thuộc môn: Ngữ văn
THANH HOÁ NĂM 2017
MỤC LỤC
Nội dung
Trang
MỤC LỤC
1
PHẦN 1. MỞ ĐẦU
2
1. Lý do chọn đề tài
2
2. Mục đích nghiên cứu
3
3. Đối tượng nghiên cứu
4
4. Phương pháp nghiên cứu
4
PHẦN 2. NỘI DUNG 
5
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN 
5
II. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ TRƯỚC KHI ÁP DỤNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
8
III. CÁC GIẢI PHÁP ĐÃ SỬ DỤNG
9
IV. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
18
PHẦN 3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
19
 1. Kết luận
19
 2. Kiến nghị
19
Tài liệu tham khảo
20
Danh mục các đề tài SKKN đã được đánh giá
21
PHẦN 1. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Ở nhà trường THCS, môn Ngữ văn vai trò rất quan trọng trong việc hình thành nhân cách và những phẩm chất, tư duy cho học sinh, góp phần đáp ứng những yêu cầu của thời đại trong mục tiêu đào tạo con người. Là một môn học thuộc nhóm khoa học xã hội, môn Ngữ văn có tầm quan trọng trong việc giáo dục quan điểm, tư tưởng, tình cảm cho học sinh. Đồng thời cũng là môn học thuộc nhóm công cụ, môn Ngữ văn còn thể hiện rõ vị trí, đặc trưng của bộ môn trong mối quan hệ với các môn học khác. Học tốt môn văn sẽ tác động tích cực tới các môn học khác và ngược lại. Để có được một học sinh yêu thích, đam mê và thực sự giỏi văn chương là một việc không dễ. Bồi dưỡng nhân tài nói chung, đào tạo học sinh giỏi văn nói riêng là công việc vô cùng quan trọng và thiêng liêng của người giáo viên dạy văn trong nhà trường hiện nay. Công việc ấy, đòi hỏi ở tài năng tâm huyết, trách nhiệm và phụ thuộc ở kinh nghiệm phát hiện, lựa chọn và năng lực giảng dạy của người giáo viên dạy văn. Học sinh giỏi văn chính là nguồn nhân lực tương lai của các ngành khoa học xã hội và nhân văn. Đào tạo học sinh giỏi văn đúng nghĩa là công việc vô cùng khó, việc phát hiện học sinh giỏi có tố chất văn càng không phải chuyện dễ trong ngày một ngày hai. Có người ví rằng: “ chuyện người thầy phát hiện học sinh giỏi văn chẳng khác công việc của người trồng hoa, chơi cây cảnh”. Bông hoa đẹp bởi bàn tay chăm sóc, tỉa tót, uốn nắn của người trồng. Quan trọng hơn, đôi mắt của người trồng phải thấy được thế cây, kiểu dáng, biết chọn dáng đẹp, biết làm cho hoa khoe sắc rực rỡ đúng kì. Nói như thế cho thấy công việc phát hiện, bồi dưỡng học sinh giỏi văn là một kì công của người dạy văn. 
Hàng năm, qua các kì thi học sinh giỏi thành phố, tổ văn nói chung và bản thân tôi nói riêng ngày càng gặt hái được những thành công đáng kể. Song đáng tiếc là số học sinh tham gia thi và đạt giải môn văn có năm còn khiêm tốn. Điều này có nguyên nhân từ cả hai phía. Trước hết là từ phía người thầy. Do phải bám sát thực hiện theo phân phối chương trình, người thầy không có điều kiện đầu tư về chiều sâu trong việc cung cấp kiến thức và rèn luyện kĩ năng làm học sinh giỏi. Thời gian dành cho việc tập trung bồi dưỡng cũng không nhiều (thường những em được chọn đi thi học sinh giỏi chỉ được tập trung bồi dưỡng trong một thời gian rất ngắn). Về phía học sinh, “nhân tài” về văn vốn đã hiếm, các em lại phải học nhiều môn nên việc đầu tư tự bồi dưỡng môn văn không được nhiều, quyết tâm đạt giải của các em lại chưa cao, môi trường học tập thực sự chưa tốt...
Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII : “Cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục - đào tạo là quyết sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”. Để bồi dưỡng được nhân tài đặc biệt là môn văn thì cả người “dạy” và người “học” đều phải tăng cường phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo, tự học trong hoạt động học tập của học sinh. Với ý nghĩa ấy, việc phát hiện, lựa chọn, đào tạo, bồi dưỡng học sinh giỏi bộ môn ngữ văn trở thành nhu cầu cần thiết không thể thiếu trong quá trình dạy học của giáo viên và chiến lược phát triển của nhà trường.
Để có được một học sinh giỏi văn, ngoài năng lực, tố chất của học sinh còn cần có vai trò, trách nhiệm, niềm đam mê, nhiệt huyết của người thầy là điều kiện không thể phủ nhận được. Trải qua quá trình dạy học, tham gia bồi dưỡng học sinh giỏi ở trường THCS, nhận thấy khả năng, năng lực tiếp nhận kiến thức và tạo lập văn bản ở học sinh vẫn còn nhiều hạn chế... Đặc biệt, kiểu bài biện pháp tu từ nằm trong cấu trúc đề thi học sinh giỏi.  Là một giáo viên đã nhiều năm tham gia công tác bồi dưỡng học sinh giỏi tôi đã nắm bắt được tình hình này, tôi nhận thấy cần quan tâm tới công tác bồi dưỡng học sinh giỏi ngữ văn trong đó có kiểu bài biện pháp tu từ. 
Từ những vấn đề trên, trong phạm vi giới hạn bài viết mang tính chất “trao đổi kinh nghiệm cá nhân” tôi chỉ đề cập đến vấn đề “Một vài kinh nghiệm về phương pháp bồi dưỡng học sinh giỏi môn ngữ văn THCS đối với kiểu bài biện pháp tu từ”.
2. Mục đích nghiên cứu:
Đề tài nhằm nghiên cứu phương pháp dạy học tốt phương pháp bồi dưỡng giỏi môn ngữ văn THCS đối với kiểu bài biện pháp tu từ. Bản thân tôi mong muốn đóng góp một số kinh nghiệm để tìm ra biện pháp thiết thực, khả thi nhất, mục đích của đề tài giúp học sinh không những hiểu đúng các biện pháp tu từ mà còn giúp các em yêu thích môn Ngữ văn hơn.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Đội tuyển học sinh giỏi của thành phố Thanh Hóa.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp chủ yếu khảo sát, nắm bắt tình hình thực tiễn và đúc rút kinh nghiệm thực tiễn giảng dạy hàng năm để tìm ra giải pháp chung. 
PHẦN 2. NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN 
Trong tác phẩm văn học, các hình thức tu từ nằm trong lớp ngôn từ nghệ thuật có chức năng biểu đạt nội dung của tác phẩm văn học.
1. Các hình thức tu từ ngữ âm:
Là những cách phối hợp sử dụng khéo léo các âm thanh đem đến cho phát ngôn ( thường là văn bản thơ) một cấu thanh nhất định, nhằm tạo ra những giá trị tượng thanh, tượng hình, biểu cảm.
Các hình thức tu từ ngữ âm xuất hiện chủ yếu trong văn bản thơ thể hiện qua điệp phụ âm đầu, điệp vần, điệp thanh, nhịp điệu, âm hưởng, hài âm...tạo nên đặc trưng rất riêng ở thơ: tính nhạc tràn đầy.
2. Các hình thức tu từ từ vựng:
Là tên gọi thứ hai mang màu sắc tu từ của sự vật, hiện tượng.Các hình thức tu từ từ vựng chủ yếu: ẩn dụ, nhân hoá, hoán dụ, so sánh tu từ, nói quá, nói giảm nói tránh.
3. Các hình thức tu từ cú pháp:
Là cách nói phối hợp sử dụng các kiểu âm, kiểu câu nhằm đem lại ý nghĩa biểu cảm, cảm xúc cho những mảnh đoạn của lời nói do chúng cấu tạo nên.
Các hình thức tu từ cú pháp: Điệp ngữ; đổi trật tự cú pháp;Liệt kê; câu hỏi tu từ.
4. Vị trí các hình thức tu từ trong tác phẩm văn học:
Các hình thức tu từ tiếng Việt rất phong phú và việc vận dụng sáng tạo ở từng bài văn, bài thơ của từng tác giả rất đa dạng linh hoạt nhưng có thể hiểu nó ở hai vị trí sau:
a. Các hình thức tu từ xuất hiện với tư cách là những biện pháp nghệ thuật:
Tác phẩm văn chương là hành vi sáng tạo là kết quả của ý đồ sáng tác của việc vận dụng những thủ pháp tu từ. Với tư cách là những biện pháp nghệ thuật, các hình thức tu từ thể hiện sự sử dụng từ, phối hợp từ, câu một cách chọn lọc- sáng tạo, theo ý đồ sáng tác của nhà văn nhằm đem lại cho tác phẩm những giá trị có tính biểu trưng lớn về nội dung và tính thẩm mĩ về mặt nghệ thuật.
Các hình thức tu từ xuất hiện trong tác phẩm văn học với tư cách là những biện pháp nghệ thuật bởi nó không có mục đích tự thân mà chỉ phân tích nội dung và hình thức trong tác phẩm thì giá trị của chúng mới thể hiện rõ.
b. Các hình thức tu từ xuất hiện trong tác phẩm văn học với tư cách là những mã ngôn ngữ nghệ thuật.
Trong tác phẩm văn học, các hình thức tu từ chính là sự vận dụng ngôn ngữ một cách có nghệ thuật nhằm đạt hiệu quả cao về mặt thẩm mĩ.
Các hình thức tu từ với tư cách là những mã ngôn ngữ nghệ thuật thể hiện ở phương tiện biểu hiện nhằm khiêu gợi liên tưởng, tưởng tượng qua sáng tác nghệ thuật mà chỉ khi khám phá, phân tích tác phẩm nó mới được giải mã. Do đó “ để hiểu lời văn nghệ thuật như là hình thức của tác phẩm, chẳng những phải hiểu các phương tiện ngôn từ được tác giả sử dụng, nhận ra chính xác nội dung và hình thức của chúng mà còn phải lí giải sự tổ chức của chúng phù hợp với các nguyên tắc tư tưởng- thẩm mĩ của tác giả. Chỉ như vậy mới thâm nhập được vào cái hồn thâm thuý của văn chương, thưởng thức cái hay cái đẹp của nó”.
Khả năng mã ngôn ngữ nghệ thuật thể hiện ở tính hình tượng. Bởi “ đặc điểm diễn đạt của ngôn ngữ văn chương tận dụng tất cả các biện pháp tu từ của ngôn ngữ dân tộc để sáng tạo hình tượng”.
5. Các hình thức tu từ là cách thức sử dụng ngôn ngữ biểu đạt nội dung một cách hiệu quả:
Các hình thức tu từ là cách dùng từ, câu bóng bẩy, giàu hình ảnh, gợi cảm thể hiện rõ giá trị to lớn của chúng đối với nội dung. Đó là tính chính xác, giá trị hình tượng, giá trị thẩm mĩ và mang phong cách nhà văn.
a. Mang tính chính xác:
Ngôn ngữ trong tác phẩm văn học là ngôn ngữ gợi ra những tập hợp không sao kể xiết, là ngôn ngữ “ Làm sống dậy các động tác sự vận động đầy ý nghĩa của sự vật trong những thời khắc nhất định ”chính là nhờ các hình thức tu từ, nó đã vẽ đúng được một nét sinh động của đối tượng theo như quan niệm của tác giả.
Tính chính xác của hình thức tu từ biểu hiện một cách đúng đắn nhất cái hiện thực mà nhà văn muốn diễn tả, cái tư tưởng tình cảm mà nhà văn muốn gửi gắm.
b. Mang giá trị hình tượng:
- Tác phẩm nghệ thuật dù thuộc loại hình nào đi nữa cũng đều tác động bằng hình tượng và hình tượng bao giờ cũng đến với người tiếp nhận bằng con đường cảm quan nội tại, thông qua một cái nhìn thấy bên trong tạo nên những rung động, những tác dụng thẩm mĩ nhất định.
- Các hình thức tu từ bằng nội dung ngữ nghĩa của từ, của câu trong việc kết hợp sử dụng ngôn từ trong tác phẩm có thể biểu hiện thực tại tới tận những chi tiết, những sắc thái tinh vi, tế nhị nhất, do đó lại tạo cho hình tượng văn học nhiều khả năng to lớn, có thể dựng lại cuộc sống trong cả chiều rộng lẫn chiều sâu.
- Giá trị của các hình thức tu từ khi xây dựng hình tượng nghệ thuật thể hiện ở tính tạo hình, biểu cảm.
+Tính tạo hình có sức gợi trong trí tưởng tượng, hình ảnh cái hiện thực nhà văn muốn gửi gắm.
+ Tính biểu cảm làm rung động trong đời sống tâm hồn tình cảm của ngời đọc những cảm xúc, tình cảm mà nhà văn muốn biểu hiện.
c. Mang giá trị thẩm mĩ:
- Các hình thức tu từ là cách dùng từ bóng bẩy, trau chuốt, là cách dùng từ hay, câu hay vào trong tác phẩm nghệ thuật. Mà nói đến nghệ thuật là nói đến cái đẹp. “ Cái đẹp là điều kiện không thể thiếu được của nghệ thuật, nếu thiếu cái đẹp thì không có và không thể có nghệ thuật”.
- Giá trị thẩm mĩ của các hình thức tu từ không chỉ thể hiện ở ý nghĩa tinh tế, mới mẻ có sức khơi dậy và tiếp sức cho những rung động từ cái đẹp.
d. Mang phong cách tác giả:
Cái riêng của tất cả các yếu tố trong sáng tác: lối nghĩ, lối cảm, lối thể hiện những đặc điểm riêng trong cách sử dụng từ ngữ, ngữ pháp, thủ pháp nghệ thuật đều mang đậm dấu ấn phong cách tác giả. Tìm ra được cái riêng của tác giả tức là đã nhận ra giá trị nghệ thuật độc đáo theo quan điểm của nhà văn.
Vận dụng các hình thức tu từ vào sáng tác thể hiện cá tính sáng tạo của nhà văn qua cách sử dụng từ ngữ một cách chọn lọc, khả năng kết hợp từ, câu theo một cách nào đó. Vì vậy, ở một bình diện rộng các hình thức tu từ chính là phong cách.
II. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ TRƯỚC KHI ÁP DỤNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 
1. Thuận lợi:
- Công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn Ngữ văn đã được các tổ chuyên môn, BGH nhà trường, phòng giáo dục quan tâm. Đặc biệt là sự lo lắng trăn trở của các thầy cô giáo dạy môn Ngữ văn. Vì thế họ đã xác định được vai trò, trách nhiệm trong công việc giảng dạy của mình.
- Đã có những học sinh, phụ huynh nhận thức được tầm quan trọng của việc học văn có ý nghĩa rất thiết thực trong cuộc sống giao tiếp thời hiện đại và đã có những học sinh đi thi HSG môn Ngữ văn đạt giải cao.
- Đặc biệt là năm học 2014-2015 Bộ GD-ĐT quyết định đưa môn ngữ văn là một môn thi bắt buộc vào đại học thì phụ huynh, học sinh đã có xu hướng cho con em học văn nhiều hơn.
- Tuy nhiên bên cạnh đó, công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn Ngữ văn còn gặp khá nhiều những khó khăn.
2. Khó khăn:
- Do xu thế thời hiện đại là phát triển về kinh tế mà cơ cấu cho ngành nghề môn Ngữ văn còn rất ít. Thậm chí khi các em đã tốt nghiệp môn Ngữ văn ra trường thì không được tuyển dụng nên nhiều phụ huynh học sinh không muốn cho con em mình và bản thân học sinh không muốn học văn. ( Ví dụ có nhiều em dự thi đội tuyển hai môn và đã đỗ rất cao trong đội tuyển nhưng gia đình và bản thân em lại không theo môn Ngữ văn trong khi có khả năng đi thi sẽ đạt giải cao).
- Đại đa số học sinh ngại học văn vì luôn quan niệm học văn khổ và khi đi thi ít đạt giải. Vì thực tế do đặc trưng bộ môn muốn học giỏi văn thì học sinh không chỉ chăm chỉ chịu khó mà còn đòi hỏi phải có năng khiếu, tâm hồn, say mê, ham thích học văn. 
- Trong các nhà trường hiện nay công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn Ngữ văn chưa được thực hiện đồng đều và triệt để trong khi đó công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn Ngữ văn phải là một quá trình lâu dài nhưng lại chưa được đào tạo có hệ thống mà chỉ gần khi đi thi mới thành lập đội tuyển để dạy nên thời gian quát ít không đủ để bồi dưỡng học sinh.
- Bản thân giáo viên được giao nhiệm vụ bồi dưỡng học sinh giỏi môn Ngữ văn cũng chưa thật cố gắng nhiệt tình trong công việc, chưa thật sự có tâm huyết và độ say trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn Ngữ văn.
Xuất phát từ thực tiễn giảng dạy và học tập môn văn ở trường THCS. Lâu nay, giờ học văn trở thành nổi lo sợ, nặng nề về mặt tâm lí ở một số HS. Do các em không thích học môn văn, lượng kiến thức của giờ văn nhiều, lại quá trừu tượng so với tầm đón nhận và một số giờ dạy văn chưa thực sự lôi cuốn các em.
Bản thân là một giáo viên nhận thấy khi phân tích tác phẩm văn học chỉ tập trung phân tích phần nội dung, không chú trọng đến mặt hình thức nghệ thuật nhất là các hình thức tu từ ít được phân tích nên học sinh hiểu theo kiểu diễn nôm, máy móc.Tôi thiết nghĩ, không chỉ riêng bản thân mà một số các đồng nghiệp khác cũng mắc phải điều này, nhất là những đồng nghiệp non trẻ.
Chính vì những lí do trên mà trong những năm qua, kết quả thi học sinh giỏi môn Ngữ văn còn rất nhiều hạn chế.
III. GIẢI PHÁP VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN:
1. GIẢI PHÁP CHUNG ĐỐI VỚI TỪNG HÌNH THỨC TU TỪ CỤ THỂ :
1.1. Hình thức tu từ về từ : Hướng vào sự tạo hình, gợi cảm.
* So sánh, ẩn dụ, hoán dụ, nhân hoá: GV dùng phương pháp tái hiện để khai thác chúng. Dùng phương pháp này vào phân tích, GV nên có hướng gợi ý cho HS liên tưởng, tưởng tượng. Nghĩa của ẩn dụ, hoán dụ, nhân hoá bao giờ cũng mang nghĩa hình tượng, nghĩa bóng nên dùng phương pháp tái hiện nhằm giúp HS ngoài cách biểu hiện nghĩa gốc, nghĩa cơ bản còn hiểu được ý nghĩa bổ sung, ý nghĩa hình tượng của biện pháp ấy. Dùng phương pháp tái hiện, GV phân tích cơ chế cơ bản trong việc sản sinh ra sức gợi tả là thông qua sức liên tưởng mà tạo nên sự chuyển đổi nghĩa, dẫn dắt người đọc từ một nghĩa đầu tiên bề ngoài đi đến những nghĩa khác bên trong.
Ví dụ 1 : Dùng phương pháp tái hiện vào phân tích hình ảnh ẩn dụ sau :
	-“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
	 Mặt trời chân lí chói qua tim”
	(Từ ấy- Tố Hữu, Văn 8)
Hình ảnh ẩn dụ là : Bừng nắng hạ - mặt trời chân lí.
Dùng phương pháp tái hiện bằng cách : gợi hình ảnh cho học sinh hiểu nghĩa gốc.
Bừng nắng hạ được hiểu như thế nào ?
Mặt trời chân lí hiểu ra sao ?
Gợi liên tưởng cho học sinh hiểu theo nghĩa hình tượng: Tác giả nói trong thời điểm nào, lúc ấy xã hội ra sao? Mặt tời chân lí tượng trưng cho đường lối lãnh đạo nào lúc bây giờ ?
Sau đó GV khái quát thành nghĩa của hai hình ảnh ẩn dụ như trên : Tôi sáng suốt, minh mẫn khi bắt gặp ánh sáng soi đường dẫn lối của Đảng.
Ví dụ 2: “ Măng non là búp măng non
 Đã mang dáng thẳng thân tròn của tre
 Năm qua đi, tháng qua đi
 Tre già măng mọc có gì lạ đâu” 
 ( Tre Việt Nam- Nguyễn Duy Ngữ Văn 7).
Ẩn dụ: Măng non được so sánh ngầm với thế hệ trẻ nhằm diễn tả măng non là lớp kế tiếp cha ông, là mầm non của đất nước. 
* Nói quá : Dùng phương pháp giảng nghĩa từ đối với biện pháp tu từ mày GV hướng HS vào hiểu nghĩa của những sự vật hiện tượng và đem đối chiếu với thực tế để rút ra ý nghĩa của cách dùng biện pháp này.
VD1 : Trong câu ca dao có sử dụng biện pháp nói quá.
-“Cày đồng đang buổi ban trưa”
GV cần giảng nghĩa mưa ruộng cày là như thế nào ? Trên cơ sở giảng nghĩa “Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày” GV cho HS liên hệ với thực tế ở ngoài đời sống để rút ra kết luận : ý nghĩa tác dụng của biện pháp này nhằm diễn tả công việc cày đồng rất cực nhọc, người nông dân phải vất vả mới làm ra hạt lúa, hạt gạo trắng thơm.
VD2: “Dân phu kể hàng trăm nghìn con người, từ chiều đến giờ hết sức, kẻ thì thuổng, người thì cuốc,...tình cảnh trông thật là thảm”.
 ( Tức nước vỡ bờ-phạm Duy Tốn, Ngữ Văn 8).
Cách nói quá này nhằm mô tả cảnh hộ đê đông đúc, hỗn loạn.
* Nói giảm - nói tránh : Dùng phương pháp xác định sắc thái tu từ để phân tích ý nghĩa trong từ có quan hệ với phạm vi tình cảm - cảm xúc. Xác định sắc thái tu từ, GV dựa trên cơ sở đối lập sắc thái trung hoà và sắc tu từ (ở sắc thái tu từ bào giờ cũng chia thành hai thái cực dương tính và âm tính ) nhằm rút ra hiệu quả của cách dùng từ.
Sắc thái biểu cảm dương tính
Trung hoà sắc thái biểu cảm
Sắc thái biểu cảm âm tính
Thái độ trang trọng, kính yêu, quý trọng
Thái độ miệt thị, coi thường.
VD1: Nguyễn Khuyến tránh dùng cái chết để nói đến nỗi đau buồn : 
“Bác Dương, thôi đã thôi rồi”.
Nước mây man mác biết là về đâu ?
(Khóc Dương Khuê - Nguyễn Khuyến)
GV xác lập từ “chết” là trung thành về sắc thái biểu cảm, nó chỉ mang ý nghĩa thông báo về một con người không còn tồn tại trong cuộc sống.
Cho HS xác định từ “thôi đã thôi rồi” được hiểu ở mức độ tình cảm nào ? tiếc nuối, coi thường.
GV rút ra nhận xét chung: Đây là lời tiếc nuối buồn đau , tránh nói đến cái chết bằng tình cảm kính yêu, trang trọng.
VD2: “ Thân lươn bao quản lấm đầu,
 Chút lòng trinh bạch từ sau xin chừa”
 ( Truyện Kiều- Nguyễn Du). 
Sau khi bị tú bà và sở khanh đánh lừa, Thuý Kiều buộc phải ra tiếp khách, nàng không thể nói thẳng phải làm “ Gái lầu xanh” vì thấy bị xúc phạm, đau đớn quá nên thốt ra lời trên.
1.2. Hình thức tu từ về câu :
Hướng vào sự gây chú ý, sự nhấn mạnh sáng rõ đặc điểm đối tượng, thái độ bình giá.
* Điệp ngữ ; Dùng phương pháp hệ thống GV hướng HS vào sự xuất hiện của hình thức này ở mỗi khổ thơ, câu văn có tác dụng như thế nào đối với toàn bộ tác phẩm. Nghĩa là xem điệp ngữ như là một yếu tố, nó góp phần như thế nào vào một hệ thống lớn là tác phẩm văn học.
VD1 : + Trong bài “ Tiếng chổi tre’ của Tố Hứu )Văn 7)
 Điệp ngữ “Tiếng chổi tre” xuất hiện bốn lần. đặt trong hệ thống bài thơ, GV hướng HS xác định vào tổng thể lặp lại của “tiếng chổi tre” ở những thời điểm nào? và nhìn vào tổng thể bài thơ điệp ngữ nhằm thể hiện điều gì? Nhưng điều quan trọng GV phải nói được sự lặp lại diễn tả mặt thời gian gợi cho người đọc một liên tưởng chị lao công làm việc một cách âm thầm, bền bỉ.
VD2: Mai sau
 Mai sau
 Mai sau...
 Đất xanh tre mãi xanh màu tre xanh
 ( Tre Việt Nam- Nguyễn Duy, Ngữ Văn 7).
Sử dụng điệp ngữ “ Mai sau” nhấn mạnh sự trường tồn của tre, của người Việt Nam. Tre là biểu tượng cho con người Việt Nam, cho dân tộc Việt Nam.
VD3 “Ba nó bế nó lên. Nó hôn ba nó khắp mọi nơi. Nó hôn tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn cả vết thẹo dài bên má của ba nó nữa”.
 ( Chiếc lược ngà- Nguyễn Quang Sáng).
Điệp từ “hôn” xuất hiện liên tiếp, dồn dập diễn tả tình cảm thắm thiết, sâu sắc của bé Thu đối với ba nó.
* Đổi trật tự cú pháp : Dùng phương pháp so sánh, GV đối chiếu hình thức câu có trật tự bình thường với hình thức câu đảo thành phần để rút ra hiệu quả của cách dùng này về mặt hình thức diễn đạt, nội dung ngữ nghĩa.
VD : 	 “Nó chết rồi, com chim của tôi.
	 Con chim se sẻ mới ra đời
	 Hôm qua nó hãy còn bay nhảy
	 Chỉ một ngày gia, đã chết rồi”.
(Con chim của tôi - Tố Hữu, Văn 8)
GV cho so sánh 2 trật tự.
“Nó chết rồi, con chim

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_vai_kinh_nghiem_ve_phuong_phap_boi_duong_hoc_sinh_g.doc