SKKN Một vài kinh nghiệm khai thác, sử dụng kiến thức lịch sử thế giới để dạy và học tốt lịch sử Việt Nam lớp 9 (giai đoạn từ năm 1919 đến năm 1945)
“Trong lịch sử đất nước, ông cha ta đã rất coi trọng giáo dục môn Lịch Sử. Từ thời phong kiến, các nho sinh từ sáu tuổi trở lên đã phải ngày đêm đèn sách, gắng sức học cho thông kinh sử, bởi không thông sử thì khó đỗ đạt làm quan để phụng sự dân tộc, quản lý đất nước. Sinh thời Cụ Nguyễn Sinh Sắc đã dạy Nguyễn Tất Thành thời còn niên thiếu nhiều kiến thức, nhưng nhiều nhất vẫn là những bài học về lịch sử. Những bài học, câu chuyện, áng thơ văn. về lịch sử nước nhà đã giúp người thanh niên Nguyễn Tất Thành sớm hun đúc lòng yêu nước và ý chí quyết tâm giải phóng dân tộc ra khỏi ách áp bức, cường quyền của đế quốc, phong kiến”. [1]
Ngày nay, môn Lịch sử trong trường THCS là môn học có ý nghĩa và vị trí quan trọng đối với việc đào tạo thế hệ trẻ theo mục tiêu giáo dục đã được Nhà nước xác định, giúp học sinh nắm được những kiến thức cơ bản cần thiết về lịch sử thế giới, lịch sử dân tộc làm cơ sở bước đầu cho sự hình thành thế giới quan khoa học, giáo dục lòng yêu quê hương, đất nước. Hơn nữa, học sinh biết tự hào về truyền thống dựng nước, giữ nước và nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, biết quan tâm tới những vấn đề có ảnh hưởng tới quốc gia, khu vực và toàn cầu. Trên nền tảng kiến thức đã học môn Lịch sử còn giúp học sinh phát triển năng lực tư duy, hành động, có thái độ ứng xử đúng đắn trong đời sống xã hội, hình thành thế giới quan, tình cảm đạo đức. cho học sinh.
Tuy nhiên, do tâm lý chung của đa số học sinh, phụ huynh và thậm chí cả giáo viên thì môn Lịch sử vẫn là môn học phụ nên hầu như không có sự đầu tư cho môn học, tiết học còn diễn ra một cách đơn điệu, khô khan, đồ dùng dạy học ít được sử dụng hoặc sử dụng nhưng chưa thực sự hiệu quả, học trò học đối phó, chiếu lệ, không tập trung, giờ học chưa gây được hứng thú nên hiệu quả giáo dục của bộ môn chưa thực sự đạt được theo yêu cầu.
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRIỆU SƠN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT VÀI KINH NGHIỆM KHAI THÁC, SỬ DỤNG KIẾN THỨC LỊCH SỬ THẾ GIỚI ĐỂ DẠY VÀ HỌC TỐT LỊCH SỬ VIỆT NAM LỚP 9 (GIAI ĐOẠN TỪ NĂM 1919 ĐẾN NĂM 1945) Người thực hiện: Quản Thị Hảo Chức vụ: Giáo viên Đơn vị công tác: Trường THCS Thị trấn Triệu Sơn SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Lịch sử THANH HOÁ NĂM 2017 MỤC LỤC STT Tên đề mục Trang 1 1. MỞ ĐẦU 1 1.1. Lý do chọn đề tài 1 1.2. Mục đích nghiên cứu 2 1.3. Đối tượng nghiên cứu 2 1.4. Phương pháp nghiên cứu 2 2 2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 3 2.1.Cơ sở lý luận 3 2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm 4 2.3. Các sáng kiến kinh nghiệm và giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề 6 2.3.1. Những lưu ý chung khi khai thác, sử dụng kiến thức lịch sử thế giới để dạy và học tốt lịch sử Việt Nam lớp 9 ( từ năm 1919 đến năm 1945) 6 2.3.2. Một số biện pháp khai thác và sử dụng kiến thức lịch sử thế giới để dạy và học tốt lịch sử Việt Nam lớp 9( từ năm 1919 đến năm 1945). 7 2.3.3. Một số ví dụ cụ thể sử dụng kiến thức lịch sử thế giới để dạy và học tốt lịch sử Việt Nam lớp 9 ( từ năm 1919 đến năm 1945) 11 2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường. 14 2.4.1. Đối với học sinh 14 2.4.2. Đối với giáo viên 15 3 3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ 15 3.1. Kết luận 15 3.2. Kiến nghị 16 4 TÀI LIỆU THAM KHẢO 17 1. MỞ ĐẦU 1.1. Lý do chọn đề tài. “Trong lịch sử đất nước, ông cha ta đã rất coi trọng giáo dục môn Lịch Sử. Từ thời phong kiến, các nho sinh từ sáu tuổi trở lên đã phải ngày đêm đèn sách, gắng sức học cho thông kinh sử, bởi không thông sử thì khó đỗ đạt làm quan để phụng sự dân tộc, quản lý đất nước. Sinh thời Cụ Nguyễn Sinh Sắc đã dạy Nguyễn Tất Thành thời còn niên thiếu nhiều kiến thức, nhưng nhiều nhất vẫn là những bài học về lịch sử. Những bài học, câu chuyện, áng thơ văn... về lịch sử nước nhà đã giúp người thanh niên Nguyễn Tất Thành sớm hun đúc lòng yêu nước và ý chí quyết tâm giải phóng dân tộc ra khỏi ách áp bức, cường quyền của đế quốc, phong kiến”. [1] Ngày nay, môn Lịch sử trong trường THCS là môn học có ý nghĩa và vị trí quan trọng đối với việc đào tạo thế hệ trẻ theo mục tiêu giáo dục đã được Nhà nước xác định, giúp học sinh nắm được những kiến thức cơ bản cần thiết về lịch sử thế giới, lịch sử dân tộc làm cơ sở bước đầu cho sự hình thành thế giới quan khoa học, giáo dục lòng yêu quê hương, đất nước. Hơn nữa, học sinh biết tự hào về truyền thống dựng nước, giữ nước và nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, biết quan tâm tới những vấn đề có ảnh hưởng tới quốc gia, khu vực và toàn cầu. Trên nền tảng kiến thức đã học môn Lịch sử còn giúp học sinh phát triển năng lực tư duy, hành động, có thái độ ứng xử đúng đắn trong đời sống xã hội, hình thành thế giới quan, tình cảm đạo đức... cho học sinh. Tuy nhiên, do tâm lý chung của đa số học sinh, phụ huynh và thậm chí cả giáo viên thì môn Lịch sử vẫn là môn học phụ nên hầu như không có sự đầu tư cho môn học, tiết học còn diễn ra một cách đơn điệu, khô khan, đồ dùng dạy học ít được sử dụng hoặc sử dụng nhưng chưa thực sự hiệu quả, học trò học đối phó, chiếu lệ, không tập trung, giờ học chưa gây được hứng thú nên hiệu quả giáo dục của bộ môn chưa thực sự đạt được theo yêu cầu. Đất nước ta đang bước vào thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hoá, với mục tiêu đến năm 2020 cơ bản trở thành nước công nghiệp, hội nhập với cộng đồng quốc tế. Trong bối cảnh đó, đặt ra những yêu cầu mới đối với nền giáo dục của nước ta là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, trí tuệ, sức khỏe, thẩm mĩ về nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã hội, hình thành và bồi dưỡng nhân cách phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng nhu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhằm tiếp tục nâng cao chất lượng và hiệu quả giờ dạy theo yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học với định hướng “lấy học sinh làm trung tâm”, trong những năm gần đây công tác bồi dưỡng chỉ đạo chuyên môn của lãnh đạo các cấp của ngành giáo dục ngày càng được tăng cường. Đặc biệt là tại đơn vị trường THCS Thị trấn Triệu Sơn, công tác chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học được thống nhất từ Ban Giám hiệu đến các tổ, nhóm và từng cá nhân, quán triệt sâu sắc việc tăng cường sử dụng đồ dùng dạy học có kết hợp các phương tiện, kỹ thuật dạy học hiện đại một cách phù hợp đối với từng bộ môn nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy và học tại đơn vị. Liên tục trong nhiều năm được nhà trường giao nhiệm vụ dạy môn Lịch sử 9 đồng thời phụ trách đội tuyển học sinh giỏi của trường, của PGD và tham dự nhiều tiết hội giảng của các đồng nghiệp. Tôi luôn xác định rằng muốn cho giờ dạy không bị khô cứng, tẻ nhạt, cần phải đổi mới phương pháp dạy học bằng cách tăng cường sử dụng đồ dùng, phương tiện dạy học, khai thác kênh hình, kênh chữ có sẵn trong sách giáo khoa giúp học sinh nắm vững kiến thức theo nguyên lí:“Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn” đem lại hiệu quả cao trong việc dạy và học bộ môn. Đặc biệt, làm cho học sinh thấy rõ Lịch sử thế giới và lịch sử dân tộc vốn là hai bộ phận riêng biệt, mỗi phần có những đặc điểm riêng. Tuy nhiên đây lại là hai bộ phận không tách rời nhau, luôn bổ trợ cho nhau. Bởi trong thực tế, những sự kiện lịch sử xảy ra ở mỗi quốc gia ít nhiều cũng ảnh hưởng tới sự phát triển của lịch sử thế giới và những chuyển biến của lịch sử thế giới sẽ tạo nên xu hướng phát triển chung cho các quốc gia. Chính vì vậy, tôi đã lựa chọn nội dung: “Một vài kinh nghiệm khai thác, sử dụng kiến thức lịch sử thế giới để dạy và học tốt lịch sử Việt Nam lớp 9 ( giai đoạn từ năm 1919 đến năm 1945)” làm đề tài sáng kiến kinh nghiệm của mình trong năm học 2016-2017. 1.2. Mục đích nghiên cứu. - Khảo sát, đánh giá được thực trạng việc học tập của học sinh ở trường THCS Thị Trấn Triệu Sơn khi học phần lịch sử thế giới. Thông qua đó để tìm ra được các giải pháp nhằm nâng cao ý thức và hứng thú học phần Lịch sử thế giới làm tiền đề cho phần lịch sử Việt Nam các khối nói chung và lớp 9 nói riêng. - Nâng cao được hiệu quả sử dụng phương tiện dạy học Lịch sử lớp 9. - Nâng cao được kết quả học tập môn Lịch sử lớp 9. - Rèn luyện, nâng cao được kĩ năng sống, đạo đức, tác phong, lối sống thông qua các biểu tượng nhân vật lịch sử. 1.3. Đối tượng nghiên cứu. Để có cơ sở đánh giá về hiệu quả của việc áp dụng đề tài vào thực tế dạy học, tôi chọn 2 lớp nguyên vẹn của Trường THCS Thị Trấn Triệu Sơn, cụ thể: - Lớp đối chứng: 9B - Lớp thực nghiệm: 9C Các lớp được chọn tham gia nghiên cứu cho đề tài có nhiều điểm tương đồng nhau về tỉ lệ giới tính, ý thức học tập của học sinh, đặc biệt là năng lực học tập, thái độ học tập với bộ môn Lịch sử trước khi tác động. 1.4. Phương pháp nghiên cứu. Trong quá trình nghiên cứu, tôi đã sử dụng các phương pháp sau: - Phương pháp thông tin, tái hiện lịch sử - Phương pháp thống kê, phân tích, xử lý số liệu. - Phương pháp tham khảo tài liệu. - Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế, thu thập thông tin.[1] 2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm. Luật Giáo dục ban hành ngày 02/12/1998, điều 2412 đã chỉ rõ: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc điểm từng lớp học, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, tự bồi dưỡng, rèn kỹ năng vận dụng vào thực tiễn, đem lại hứng thú học tập cho học sinh” Môn lịch sử ở trường phổ thông nhằm giúp học sinh có được những kiến thức cơ bản, cần thiết về lịch sử dân tộc và lịch sử thế giới, góp phần hình thành ở học sinh thế giới quan khoa học, giáo dục lòng yêu quê hương, đất nước, truyền thống dân tộc, cách mạng, bồi dưỡng các năng lực tư duy, hành động và thái độ ứng xử đúng đắn trong cuộc sống xã hội. Vì vậy phương pháp dạy học môn Lịch sử rất phong phú, đa dạng, bao gồm các phương pháp hiện đại (thảo luận nhóm, đóng vai...) và các phương pháp truyền thống (trực quan, kể chuyện...). Một trong những nội dung hết sức quan trọng trong đổi mới phương pháp dạy- học lịch sử hiện nay là giáo viên hướng dẫn học sinh khai thác SGK một cách có hiệu quả nhằm tái tạo, bổ sung, khắc sâu nội dung bài học, giúp học sinh tiếp thu kiến thức một cách trọn vẹn. Trong chương trình lớp 4 và lớp 5, Lịch sử và địa lí được học trong cuốn Tự nhiên và xã hội. Tuy nhiên, bắt đầu từ năm lớp 6 Lịch sử đã tách ra thành môn học độc lập. Mỗi cuốn SGK Lịch sử từ chương trình lớp 6 đến lớp 9 đều có cấu trúc gồm hai phần rõ rệt: lịch sử thế giới và lịch sử Việt Nam được thể hiện cụ thể trong bảng sau: Phần Lớp Lịch sử thế giới Lịch sử Việt Nam Lớp 6 Khái quát lịch sử thế giới Cổ đại (4 bài: từ bài 3 đến bài 6) - Thời lượng: 1 tiết/tuần Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến thế kỉ X (20 bài: từ bài 8 đến bài 27) - Thời lượng: 1 tiết/tuần Lớp 7 Khái quát lịch sử thế giới trung đại (7 bài) - Thời lượng: 2 tiết/tuần Lịch sử Việt Nam từ thế kỉ X đến giữa thế kỷ XIX - Thời lượng: 2 tiết/tuần Lớp 8 - Lịch sử thế giới cận đại (từ giữa thế kỉ XVI đến nửa sau thế kỉ XIX) gồm có 14 bài. - Lịch sử thế giới hiện đại (từ 1917 đến 1945) gồm có 9 bài. - Thời lượng: 2 tiết/tuần Lịch sử Việt Nam từ năm 1858 đến năm 1918 (8 bài). Thời lượng: 1 tiết/tuần Lớp 9 - Lịch sử thế giới hiện đại từ 1945 đến nay (có 13 bài). - Thời lượng: 1 tiết/tuần Lịch sử Việt Nam từ năm 1919 đến nay (có 34 bài) - Thời lượng: 2 tiết/tuần Nhìn vào bảng thống kê trên, chúng ta dễ dàng nhận thấy hai điểm: + Niên đại của các sự kiện thế giới thường gần với thời gian diễn ra các sự kiện trong lịch sử dân tộc. + Phần lịch sử thế giới được bố trí học trước phần lịch sử Việt Nam. Trong quá trình giảng dạy, đã nhiều lần học sinh thắc mắc: “Tại sao không học lịch sử Việt Nam trước lịch sử thế giới?” hoặc “ Nếu bỏ qua phần lịch sử thế giới mà chỉ học mình phần lịch sử Việt Nam thì có được không?”. Có thể nói rằng, đây không phải là một sự sắp xếp ngẫu nhiên, tùy hứng của các nhà biên soạn sách giáo khoa, mà là một nghiên cứu khoa học và lôgic theo sự phát triển của tư duy con người nói chung và của khoa học lịch sử nói riêng. Trong các bài giảng của Chủ tịch Hồ Chí Minh ở lớp học chính trị (nhằm mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cách mạng cho nước ta) tại Quảng Châu, Trung Quốc (1925 – 1927) có nhấn mạnh: “...Đem lịch sử cách mệnh các nước làm gương cho chúng ta soi...Đem phong trào thế giới nói cho đồng bào ta rõ”[2]. Qua lời của cụ Hồ, chúng ta thấy rõ việc học tập Lịch sử nhân loại giúp cho người dân Việt Nam hiểu rõ và đúng hơn về lịch sử chính dân tộc mình, hiểu hơn về những cống hiến của dân tộc mình đối với sự phát triển của nhân loại, những sự kiện, những nhân vật, những quốc gia tác động, ảnh hưởng đến thắng lợi của cách mạng Việt Nam, đến tiến trình phát triển của lịch sử Việt Nam. Từ đó, tiếp thu một cách “chọn lọc” những giá trị tinh hoa nhân loại, những bài học kinh nghiệm trong các cuộc đấu tranh cách mạng, công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước của các quốc gia trên thế giới. Mặt khác, học tập, nghiên cứu Lịch sử nhân loại giúp chúng ta “biết” và “tường” quá trình phát triển xã hội loài người, một qúa trình đa dạng phức tạp, đầy mâu thuẫn và hợp quy luật. Như vậy, trong việc dạy và học lịch sử Việt Nam thì phần lịch sử thế giới là rất quan trọng. Việc vận dụng linh hoạt các kiến thức cơ bản của phần lịch sử thế giới vào dạy học lịch sử Việt Nam sẽ giúp các em có được cách lý giải khoa học nhất các sự kiện đang diễn ra của dân tộc mình tại thời điểm đó và đương nhiên mỗi quốc gia là một phần của thế giới vì thế các sự kiện xảy ra ở các quốc gia tạo ra xu thế phát triển của thế giới. 2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm. Đối với học sinh THCS, nhất là học sinh lớp 9, môn Lịch sử không còn mới mẻ. Các em đã được học từ cấp I có hệ thống theo tiến trình lịch sử nên ít nhiều đã có tư duy lịch sử nhất định. Do đó, các em dễ dàng nắm bắt được những sự kiện lịch sử và bài học được rút ra. Qua thực tế giảng dạy tôi nhận thấy rất nhiều học sinh quan tâm và hứng thú đối với môn học. Các em chăm chú lắng nghe cô giảng bài, hồi hộp theo dõi các sự kiện và thích thú khi cô cung cấp, mở rộng kiến thức bằng những câu chuyện lịch sử, những con số “biết nói”...Nhưng các em cũng gặp một số trở ngại khiến cho việc học tập môn lịch sử chưa đạt kết quả như mong muốn. Đó là: + Từ trước tới nay các em quen với phương pháp học cũ: thầy giảng- trò nghe nên các em chưa thực sự tích cực, chủ động, linh hoạt trong giờ học làm cho giờ học trầm và nhàm chán. + Dù bộ môn Lịch sử đóng một vai trò rất quan trọng ở cấp THCS nhưng trong thực tế vẫn có những em chưa ham học, chưa thực sự yêu thích bộ môn Lịch sử, xem đó là môn phụ nên thời gian dành cho môn học này còn ít, học đối phó, học vẹt. + Thực tế, hầu hết các em học sinh đều chưa hiểu hết mối quan hệ qua lại giữa phần lịch sử thế giới với phần lịch sử Việt Nam. Do đó, trong tư duy của các em đây là hai phần độc lập, học hết phần lịch sử thế giới thì có thể bỏ qua theo kiểu (song thì cất đi), các em chưa có một sự vận dụng nhất định trong quá trình tư duy và học phần lịch sử Việt Nam. Thậm chí, có em còn nghĩ chỉ cần học lịch sử dân tộc mình là đủ, tại sao lại phải học cả lịch sử của các dân tộc khác. + Chương trình Lịch sử lớp 9 gồm phần Lịch sử thế giới từ sau chiến tranh thế giới thứ hai (năm 1945) đến nay (năm 2000) và phần Lịch sử Việt Nam từ sau chiến tranh thế giới thứ nhất (năm 1919) đến nay (năm 2000). Phần Lịch sử thế giới được dạy ở học kỳ 1 với thời lượng 1tiết/tuần. Phần Lịch sử Việt Nam chủ yếu được dạy ở học kỳ II và tăng lên 2 tiết/tuần. Tuy nhiên, khó khăn của giáo viên và học sinh khi học lịch sử Việt Nam giai đoạn 1919-1945 là phần lịch sử thế giới có liên quan, tác động mạnh mẽ chủ yếu nằm trong ở lịch sử thế giới hiện đại từ 1917-1945 mà các em đã học ở học kỳ I lớp 8. Qua khảo sát chất lượng đầu năm tại lớp 9B, 9C ở trường THCS Thị Trấn Triệu Sơn khi chưa áp dụng kinh nghiệm này vào giảng dạy, tôi thu được kết quả như sau: Lớp Số HS Giỏi Khá TB Yếu Ghi chú SL TL(%) SL TL(%) SL TL(%) SL TL(%) 9B 37 9 24.3 10 27 16 43.3 2 5.4 Lớp đối chứng 9C 34 4 11.8 8 23.5 17 50 5 14.7 Lớp thực nghiệm Vậy làm thế nào để các em có thể lĩnh hội, vận dụng được những kiến thức lịch sử một cách có hệ thống, bài bản mà không bị đơn điệu, khô khan, nhàm chán trong từng nội dung của bài học. Điều đó đòi hỏi những giáo viên dạy môn Lịch sử phải biết lựa chọn kiến thức, phương pháp, hình thức tổ chức phù hợp với từng bài, từng chủ đề, từng đối tượng học sinh, đặc biệt phải chú ý đến nhu cầu tư duy, tâm lý muốn khám phá cái mới, cái độc đáo ở học sinh THCS. Trước những đòi hỏi của môn học và thực tế của việc học lịch sử ở trường THCS, tôi luôn trăn trở làm thế nào để việc dạy học môn Lịch sử (nhất là môn Lịch sử 9) có hiệu quả hơn, học sinh say mê, hứng thú với môn học hơn nữa. Vì vậy, tôi đã tiến hành thí điểm hai phương pháp dạy học cũ và mới ở hai lớp 9B và 9C ở trường THCS Thị Trấn Triệu Sơn với nội dung khai thác, sử dụng kiến thức lịch sử thế giới để dạy và học tốt lịch sử Việt Nam lớp 9 (từ năm 1919 đến năm 1945). Ở lớp 9B (lớp đối chứng): Tôi dùng phương pháp truyền thống, trình bày kết hợp với vấn đáp, chỉ hỏi mà không chỉ ra mối liên hệ giữa lịch sử thế giới với lịch sử Việt Nam. Tôi cũng không đưa ra bảng hệ thống kiến thức thể hiện mối quan hệ giữa lịch sử Việt Nam và lịch sử thế giới. Kết quả có nhiều em thuộc bài song đó chỉ là sâu chuỗi các sự kiện lịch sử mà không hiểu bản chất lịch sử và không rút ra được bài học. Ở lớp 9C (lớp thực nghiệm): Ngay từ đầu năm học tôi đã đưa ra bảng hệ thống kiến thức thể hiện mối quan hệ giữa lịch sử thế giới với lịch sử Việt Nam. Đến khi các em học bài 13: “Tổng kết lịch sử thế giới từ sau năm 1945 đến nay”, tôi lại đưa ra bảng hệ thống một lần nữa bởi sau bài học này các em sẽ học sang phần lịch sử Việt Nam. Tôi cũng giao nhiệm vụ cho các em về tìm hiểu và ôn lại các kiến thức lịch sử thế giới có liên quan đến bài học mới. Trong quá trình dạy học, tôi hướng dẫn học sinh khai thác kiến thức trong sách giáo khoa (giai đoạn từ 1919 đến 1945) và chỉ cho học sinh thấy rõ mối quan hệ, tác động của lịch sử thế giới đến lịch sử Việt Nam. Đồng thời, kết hợp với tranh ảnh, lược đồ...trên máy chiếu làm cho các em nắm bài rất nhanh và có hệ thống, giờ học trở nên sôi nổi hơn. 2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề. 2.3.1. Những lưu ý chung khi khai thác, sử dụng kiến thức lịch sử thế giới để dạy và học tốt lịch sử Việt Nam lớp 9 ( giai đoạn từ năm 1919 đến năm 1945). Để phát huy hết hiệu quả khi sử dụng kiến thức lịch sử thế giới để dạy phần lịch sử Việt Nam, điều quan trọng là giáo viên phải xác định cho mình nên sử dụng, khai thác kiến thức thế nào. Theo tôi, giáo viên cần chú ý những điểm sau: - Cần phải căn cứ vào nội dung, yêu cầu giáo dưỡng, giáo dục của bài học để lựa chọn phương pháp sử dụng thích hợp, đảm bảo phát huy được sự chú ý và tính tích cực của học sinh . - Những kiến thức lịch sử thế giới được trình bày ở phần bối cảnh tình hình trước một giai đoạn, hay một sự kiện nào đó trong bài học lịch sư Việt Nam. Những kiến thức lịch sử thế giới này có thuận lợi là được phân bố thời gian để giáo viên trình bày cho học sinh, nhưng là phần kiến thức hỗ trợ, giúp học sinh hiểu rõ hơn một sự kiện nào đó của lịch sử dân tộc, nên thường chỉ được trình bày rất sơ lược, nhiều khi chỉ nhắc đến cho có. Bởi thế, khi soạn giáo án, giáo viên phải xác định được thời điểm, thời gian hợp lí để sử dụng kiến thức lịch sử thế giới vào bài dạy, phải xây dựng được hệ thống câu hỏi khai thác một cách hợp lí và hệ thống câu hỏi này phải có tác dụng phát huy tính tích cực của học sinh trong học tập. - Kiến thức lịch sử thế giới thường rất rộng lớn và phức tạp, bao quát nhiều thời kì, nhiều khu vực với nhiều sự kiện, khái niệm, cho nên muốn vận dụng được đòi hỏi người giáo viên phải nắm rất vững kiến thức lịch sử thế giới. Nhiều khi, vì những lí do khác nhau mà giáo viên có thể bỏ qua những liên hệ cần thiết giúp học sinh hiểu sâu sắc hơn lịch sử dân tộc. - Vạch ra bản chất, quy luật và những mối quan hệ tác động lẫn nhau giữa sự kiện lịch sử trong nhiều trường hợp thực chất là sự tác động lẫn nhau giữa các sự kiện lịch sử thế giới và lịch sử dân tộc, các sự kiện dân tộc với nhau. Giáo viên phải vận dụng nhuần nhuyễn các phương pháp dạy học bộ môn, như phương pháp thông tin tái hiện lịch sử, phương pháp nhận thức lịch sử, phương pháp tìm tòi nghiên cứu... để hình thành tri thức cho học sinh từ tạo biểu tượng, hình thành khái niệm, rút ra quy luật và bài học lịch sử. - Phần lịch sử thế giới tác động đến lịch sử Việt Nam giai đoạn từ năm 1919 đến năm 1945 lại chủ yếu nằm trong chương trình lịch sử lớp 8. Vì vậy, học sinh cần lưu ý lịch sử hiện đại của lớp 8 từ giai đoạn từ năm 1917 đến 1945 nhiều hơn. Sau mỗi tiết học, giáo viên phải giao nhiệm vụ và hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài mới trước khi đến lớp. 2.3.2. Một số biện pháp khai thác, sử dụng kiến thức lịch sử thế giới để dạy và học tốt lịch sử Việt Nam lớp 9 ( giai đoạn từ năm 1919 đến năm 1945)”. Mục đích của việc sử dụng kiến thức lịch sử thế giới trong dạy học lịch sử dân tộc là làm cho học sinh thấy được mối quan hệ biện chứng của lịch sử thế giới và lịch sử dân tộc, giúp học sinh hiểu được vị trí của lịch sử dân tộc trong lịch sử nhân loại. Từ đó, hiểu sâu sắc hơn những tác động của lịch sử thế giới đến Việt Nam. Để khai thác triệt để nội dung tri thức lịch sử thế giới phục vụ cho việc dạy tốt nội dung lịch sử Việt Nam, tôi đã thiết kế lập bảng về mối quan hệ giữa lịch sử thế giới hiện đại và lịch sử dân tộc. Ngay từ đầu năm học được giao dạy lịch sử lớp 9, giáo viên lập kế hoạch cho cả năm, hoặc học kì. Nắm bắt được chương trình ở phần nào, lịch sử thế giới có ảnh hưởng đến cách mạng Việt Nam, từ đó có kế hoạch hướng dẫn học sinh lập bảng và giáo viên thiết kế
Tài liệu đính kèm:
- skkn_mot_vai_kinh_nghiem_khai_thac_su_dung_kien_thuc_lich_su.doc