SKKN Một số kinh nghiệm về rèn kỹ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3

SKKN Một số kinh nghiệm về rèn kỹ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3

Môn Toán đóng vai trò quan trọng, không chỉ cung cấp kiến thức toán học mà nó còn giúp học sinh phát triển trí thông minh, tư duy sáng tạo, kích thích óc tò mò, tự khám phá và rèn luyện một phong cách làm việc khoa học. Yêu cầu đó rất cần thiết cho mọi người, góp phần giáo dục ý chí, đức tính chịu khó, nhẫn nại, cần cù trong học tập để trẻ tiếp tục học ở bậc Trung học hay cho công việc lao động sau này. Trong quá trình dạy - học Toán thì dạy giải toán là hoạt động được chú ý nhiều nhất vì với Tiểu học nó chiếm khoảng thời gian khá lớn trong nhiều tiết học cũng như toàn bộ chương trình. Thông qua việc giải toán giúp học sinh ôn tập, hệ thống hóa, củng cố các kiến thức và kĩ năng đã học đồng thời rèn luyện cho học sinh tư duy lô gic, diễn đạt và trình bày một vấn đề toán học trong đời sống. Có thể nói nó góp phần hình thành nhịp cầu nối toán học trong nhà trường và ứng dụng toán học trong thực tiễn. Giải toán có lời văn là một trong bốn mạch kiến thức cơ bản của môn Toán Tiểu học nói chung và lớp 3 nói riêng. Nội dung giải toán có lời văn ở lớp 3 là giải các bài toán có hai bước tính với các mối quan hệ trực tiếp và đơn giản. Giải bài toán liên quan đến rút về đơn vị và bài toán có nội dung hình học.Cũng như các lớp trước yêu cầu của dạy học giải toán có lời văn ở lớp 3 chủ yếu là rèn kĩ năng về “phương pháp” giải toán ( cách đặt vấn đề, tìm hiểu đề, giải quyết vấn đề); rèn khả năng “diễn đạt”; Trình bày vấn đề bằng lời nói, bằng chữ viết cho học sinh.

doc 19 trang thuychi01 9992
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số kinh nghiệm về rèn kỹ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ
PHÒNG GD&ĐT THỌ XUÂN
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ KINH NGHIỆM VỀ RÈN KỸ NĂNG GIẢI TOÁN CÓ LỜI VĂN CHO HỌC SINH LỚP 3
 Người thực hiện: Nguyễn Thị Phương
 Chức vụ: Giáo viên
 Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Quảng Phú-Thọ Xuân
 SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Toán
THANH HOÁ NĂM 2016
(Font Times New Roman, cỡ 14, CapsLock)
MỤC LỤC
MỤC
NỘI DUNG
Trang
A
MỞ ĐẦU
1
I
Lí do chọn đề tài
1
II.
Mục đích nghiên cứu 
1
III
Đối tượng nghiên cứu
1
IV.
Phương pháp nghiên cứu
1
B.
 NỘI DUNG
2
I.
Cơ sở lý luận
2
II
Thực trạng của vấn đề
2
1
Đặc điểm tình hình
2
2
Thực trạng dạy - học các bài toán giải
2
3
Kết quả của thực trạng trên
3
4
Giải pháp và biện pháp thực hiện
4
C
KẾT LUẬN - KIẾN NGHỊ
13
I
Kết luận
13
II
Kiến nghị
14
A. MỞ ĐẦU
I.LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Môn Toán đóng vai trò quan trọng, không chỉ cung cấp kiến thức toán học mà nó còn giúp học sinh phát triển trí thông minh, tư duy sáng tạo, kích thích óc tò mò, tự khám phá và rèn luyện một phong cách làm việc khoa học. Yêu cầu đó rất cần thiết cho mọi người, góp phần giáo dục ý chí, đức tính chịu khó, nhẫn nại, cần cù trong học tập để trẻ tiếp tục học ở bậc Trung học hay cho công việc lao động sau này. Trong quá trình dạy - học Toán thì dạy giải toán là hoạt động được chú ý nhiều nhất vì với Tiểu học nó chiếm khoảng thời gian khá lớn trong nhiều tiết học cũng như toàn bộ chương trình. Thông qua việc giải toán giúp học sinh ôn tập, hệ thống hóa, củng cố các kiến thức và kĩ năng đã học đồng thời rèn luyện cho học sinh tư duy lô gic, diễn đạt và trình bày một vấn đề toán học trong đời sống. Có thể nói nó góp phần hình thành nhịp cầu nối toán học trong nhà trường và ứng dụng toán học trong thực tiễn. Giải toán có lời văn là một trong bốn mạch kiến thức cơ bản của môn Toán Tiểu học nói chung và lớp 3 nói riêng. Nội dung giải toán có lời văn ở lớp 3 là giải các bài toán có hai bước tính với các mối quan hệ trực tiếp và đơn giản. Giải bài toán liên quan đến rút về đơn vị và bài toán có nội dung hình học.Cũng như các lớp trước yêu cầu của dạy học giải toán có lời văn ở lớp 3 chủ yếu là rèn kĩ năng về “phương pháp” giải toán ( cách đặt vấn đề, tìm hiểu đề, giải quyết vấn đề); rèn khả năng “diễn đạt”; Trình bày vấn đề bằng lời nói, bằng chữ viết cho học sinh.
 Vậy làm cách nào để học sinh tiếp thu bài một cách tốt nhất, nắm chắc bản chất của dạng toán, tìm tòi được cách giải phù hợp, từ đó, làm bài một cách độc lập, tích cực và hiệu quả là điều mà tôi luôn băn khoăn suy nghĩ và trăn trở. Sau một thời gian tìm hiểu, nghiên cứu các tài liệu, tìm hiểu kĩ bản chất của các bài toán giải ở lớp 3, tôi mạnh dạn đưa ra : "Một số kinh nghiệm về rèn kỹ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3"với mong muốn góp một phần nhỏ vào việc nâng cao chất lượng dạy học môn Toán lớp 3.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:Nghiên cứu đề tài này nhằm tìm hiểu một số sai lầm của học sinh lớp 3 thường mắc khi giải các bài toán có lời văn. Từ đó, tìm ra biện pháp giúp bản thân rút kinh nghiệm vận dụng linh hoạt các phương pháp , các hình thức dạy học. Từ dó, áp dụng các kỹ năng dạy học sinh giải toán sao cho phù hợp với từng bài dạy, với từng đối tượng học sinh để đạt kết quả cao hơn, góp phần nâng cao chất lượng dạy- học Toán .
III- ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
Lớp 3 năm học 2015 - 2016 trường Tiểu học Quảng Phú.
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu:
-Nghiên cứu sách giáo khoa Toán lớp 3,Vở bài tập Toán lớp 3.
-Nghiên cứu tài liệu sách giáo viên Toán lớp 3 và một số phương pháp dạy học toán ở tiểu học và các tài liệu khác.
2. Phương pháp quan sát 
3. Phương pháp điều tra: thực hiện phỏng vấn điều tra, dự giờ để tìm hiểu...
4. Phương pháp so sánh : so sánh, đối chiếu kết quả của lớp thực nghiệm với lớp khác cùng khối.
5. Phương pháp thống kê toán học: thống kê số liệu, phân tích kết quả điều tra thực nghiêm.
6. Phương pháp thực nghiệm...
B. NỘI DUNG 
I. Cơ sở lý luận :
Trong quá trình dạy học hiện nay, ngoài công tác dạy – học theo đúng mục tiêu, yêu cầu và kĩ năng cần đạt của môn học, thì việc rèn kỹ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3 cần được chú trọng và quan tâm một cách chặt chẽ vì chủ yếu ở lớp 1, lớp 2 các em chủ yêu làm quen với cách giải các bài toán đơn. Ở lớp 3 học sinh mới bắt đầu làm quen với dạng toán giải bằng hai bước tính, giải bài toán liên quan đến rút về đơn vị và bài toán có nội dung hình học ở mức độ khó hơn nên khả năng diễn đạt bài giải còn có nhiều hạn chế như sai ngữ pháp, chưa rõ ý, lủng củng. Có em chưa hiểu đề dẫn đến hiểu sai đề và làm lạc đề. Bản thân là giáo viên dạy lớp 3 tôi luôn trăn trở và tìm các giải pháp, biện pháp để giúp học sinh có thể hiểu và vận dụng kiến thức để giải các bài toán tốt hơn.
II. Thực trạng của vấn đề dạy- học giải các bài toán giải ở lớp 3.
1.Đặc điểm tình hình:	
 Năm học 2015 – 2016 Trường tiểu học Quảng Phú có 22 lớp, trong đó có 3 lớp 5; 5 lớp 4; 4 lớp 3; 5 lớp 2 và có 5 lớp1.
Khối 3 được chia thành 5 lớp: 3A, 3B, 3C, 3D, 3Đ.Trong đó lớp chủ nhiệm là lớp 3A.
2.Thực trạng dạy- học các bài toán giải .
a.Thực trạng dạy của giáo viên. 
 Hiện nay việc đổi mới phương pháp dạy học được hầu hết giáo viên trường Tiểu học Quảng Phú chúng tôi tích cực tham gia. Các đồng chí không những trao đổi trực tiếp với đồng nghiệp mà còn tham khảo thêm các ý kiến hay trên mạng nên trong giờ học đã biết kết hợp nhiều phương pháp dạy học để học sinh hoạt động tích cực, tự tìm ra kiến thức mới. Trong việc giải toán, giáo viên đã hướng dẫn học sinh tìm tòi ra nhiều cách giải. Mặt khác, khi dạy các dạng toán điển hình, giáo viên chưa khai thác hết nội dung bài dạy, còn thụ động trong cách giải ở sách giáo khoa làm cho học sinh tiếp thu bài thụ động, máy móc. 
b.Thực trạng học giải toán của học sinh.
 Qua thực tế nhiều năm giảng dạy, tôi nhận thấy rằng đa số học sinh có học lực trung bình và yếu rất ngại giải toán có lời văn. Mặt khác khả năng tư duy ở nhiều học sinh trung bình và yếu còn nhiều hạn chế, không có khả năng thiết lập các mối liên hệ giữa các đại lượng trong bài toán, gặp những bài tập biến dạng một chút là học sinh rất khó khăn. 
 Một số học sinh chưa đọc kĩ đề bài, khả năng phân tích để xác định dạng toán chưa đúng, thiếu suy nghĩ về dữ kiện và điều kiện đưa ra trong bài toán, các em thường làm bài theo mẫu nên rất dễ quên.
 3. Kết quả của thực trạng trên.
 Thực trạng trên cho thấy chất lượng giảng dạy các bài toán giải cho học sinh còn nhiều hạn chế. Nhiều học sinh không nắm được cách giải và giải toán còn sai nhiều. Nhìn chung trong những năm học gần đây chất lượng môn toán nói chung và chất lượng môn Toán lớp 3 nói riêng còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu dạy học đặt ra. Là một giáo viên nhiều năm được nhà trường phân công giảng dạy ở lớp 3, điều đó khiến tôi luôn trăn trở làm thế nào để giúp học sinh giải toán có lời văn được tốt hơn.Vì thế, tôi đã tiến hành khảo sát kĩ năng giải toán của học sinh lớp 3A(lớp thực nghiệm do tôi phụ trách) và lớp 3B do cô Phượng phụ trách (đây là hai lớp có chất lượng tương đối đồng đều.) với đề kiểm tra như sau:
 Đề bài: ( thời gian 40 phút)
Bài 1: Con hái được 7 quả cam, mẹ hái được gấp con 6 lần.Hỏi mẹ hái được bao nhiêu quả cam ?
Bài 2: Nhà Lan nuôi 24 con gà, mẹ đã bán đi số gà đó. Hỏi nhà Lan còn lại bao nhiêu con gà? 
Bài 3: Mẹ Hoa mua 4 gói kẹo và 1 gói bánh, mỗi gói kẹo cân nặng 180g và gói bánh cân nặng 355g. Hỏi mẹ Hoa đã mua tất cả bao nhiêu gam kẹo và bánh ?
Bài 4: Một công ti dự định xây 45 ngôi nhà, đến nay đã xây được số nhà đó. Hỏi công ti còn phải xây tiếp bao nhiêu ngôi nhà nữa ?
 Cách đánh giá: Toàn bài cho 10 điểm.
Bài 1: ( 2.5 điểm) Đặt lời giải và làm phép tính đúng cho 2 điểm, đáp số đúng cho 0,5 điểm.
Bài 2:( 2.5 điểm) Đặt lời giải và làm phép tính đúng cho 2 điểm, đáp số đúng cho 0,5 điểm 
Bài 3:( 2.5 điểm) Đặt lời giải và làm phép tính đúng cho 2 điểm, đáp số đúng cho 0,5 điểm. 
Bài 4:(2.5 điểm) Đặt lời giải và làm phép tính đúng cho 2 điểm, đáp số đúng cho 0,5 điểm.
Kết quả học sinh làm bài được thể hiện ở bảng sau:
 Bảng 1: Chất lượng môn Toán đầu năm của hai lớp 3A và 3B 
 Chất lượng
Lớp
Hoàn thành
Chưa HT
ứng với điểm dưới 5
HT ở mức 1
( Điểm 9-10)
HT ở mức 2
( Điểm 7-8)
HT ở mức 3
( Điểm 5-6)
3A( 30HS)
2
6.7
10
33.3
11
36.7
7
23.3
3B( 29HS)
3
10.3
10
34.5
11
 38.0
5
17.2
 Bảng 1 cho thấy kết quả giải toán có lời văn ở hai lớp 3A và 3B tương đối đồng đều . Cả hai lớp chất lượng giải toán có lời văn chưa cao, số lượng học sinh khá, giỏi còn hạn chế, số học sinh yếu vẫn còn nhiều. Từ thực tế dạy học cũng như kết quả khảo sát trên, tôi rất trăn trở về chất lượng dạy và học toán hiện nay của lớp tôi cũng như các lớp khối 3 trường tôi, cần phải tìm ra một giải pháp để giải quyết tình hình trên.
Từ thực trạng trên tôi thấy cần phải tìm ra những nguyên nhân dẫn đến những sai lầm của học sinh khi dạy loại toán này. Nguyên nhân sai lầm do học sinh không đọc kỹ đề bài, nhầm lẫn thuật ngữ “gấp ” và “hơn ”. Khi giải bài toán học sinh chưa đọc kĩ đề bài, chưa hiểu đúng các dữ kiện của bài toán giữa cái đã cho và cái cần tìm. Học sinh không nắm vững kiến thức cơ bản. Sai lầm do học sinh còn lúng tung khi sử dụng từ ngữ để viết câu lời giải và chưa nắm vững các bước giải của bài toán để có biện pháp khắc phục.Vậy để nâng cao chất lượng giảng dạy môn Toán, đặc biệt là giải toán có lời văn, tôi đã mạnh dạn đưa ra "Một số kinh nghiệm về rèn kỹ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3"
4. Giải pháp và biện pháp thực hiện:
 Giải pháp giúp HS sữa chữa những sai lầm của học sinh trong quá trình làm các bài toán giải.
	Sai lầm của học sinh khi học toán là một hiện tượng phổ biến, cho đến nay trước những sai lầm của học sinh giáo viên thường cho rằng học sinh ít chú ý nghe giảng ở trên lớp, không chịu khó làm bài tập nên không nắm được kiến thức hoặc kiến thức không vững, không chắc ... mà ít người để tâm theo dõi, nghiên cứu, phân tích một cách cụ thể, có hệ thống, các nguyên nhân sai lầm về kiến thức, suy luận trong khi học toán có phần thuộc về tinh thần, thái độ học tập của học sinh nhưng không phải trường hợp nào cũng như vậy. Trong dạy học để ngăn ngừa hoặc hạn chế học sinh mắc sai lầm ta cần phải nghiên cứu nguyên nhân sâu xa của những sai lầm đó.
	“Bài toán giải bằng hai bước tính ở lớp 3 ” là một loại toán cần nhiều đến tư duy, bởi vì đề bài được nêu ra dưới hình thức có lời văn hoàn chỉnh. Vì vậy, để giải được học sinh cần phải tìm được sự liên quan giữa các đại lượng, các yếu tố đã học và yếu tố cần tìm của bài toán một cách lôgíc. Nói chung, nội dung được đưa ra trong đề toán đều gắn liền với thực tế hoạt động của các sự vật, các yếu tố cuộc sống để học sinh dễ liên hệ, nó mang tính chất đa dạng. Như vậy, đây là loại toán khó đối với học sinh ở lứa tuổi học sinh tiểu học, các em chưa tiếp xúc nhiều với cuộc sống. Bản chất các em còn rất hồn nhiên, ngây thơ, vì vậy, sự chú ý của học sinh tiểu học hướng ra bên ngoài chứ chưa có khả năng hướng vào bên trong, vào tư duy, vào trí nhớ lôgic. Trí nhớ các em còn nhớ máy móc, nhớ dễ dàng đối với các hiện tượng, hình ảnh cụ thể hơn là các câu chữ trừu tượng, khô khan. Khi suy luận, các luận cứ lôgíc các em còn gắn nhiều với thực tế. Bởi vậy dạy các nội dung toán giải sao cho các em hứng thú và có được kỹ năng làm bài tập là việc làm cần nhiều công sức của người thầy. Việc rèn luyện, hình thành, củng cố kỹ năng giải toán của học sinh ở gần như chưa có. Chính vì vậy học sinh không thể tránh khỏi những khó khăn, sai lầm. Qua thực tế giảng dạy và khảo sát học sinh ở một số lớp tôi thấy sai lầm của học sinh khi giải các bài toán giải là do những nguyên nhân sau:
a- Sai lầm do học sinh không đọc kỹ đề bài, nhầm lẫn thuật ngữ “gấp ” và “hơn ” :
 Ví dụ 1: (BT1 -VBTT3 T60) : Một người có 50 quả trứng. Lần đầu bán 12 quả, lần sau bán 18 quả. Hỏi sau hai lần bán, người đó còn bao nhiêu quả trứng ?
	- Tìm hiểu đề toán:
	 Bài toán cho ta biết những gì ? (Có 50 quả trứng, bán lần đầu 12 quả, lần sau bán 18 quả.)
	Bài toán yêu cầu ta phải làm gì ? (Còn lại bao nhiêu quả trứng)
	Tóm tắt đề bài toán 
 Có 7 học sinh lớp 3A năm học 2015-2016 đã giải như sau:
Bài giải:
Sau khi bán, còn lại số quả trứng là:
50 - 12 = 38 (quả )
Người đó còn lại số quả trứng là:
38 + 18 = 56 (quả )
 Đáp số: 56 quả trứng
	Còn đa số học sinh làm đúng bài toán với lời giải như sau:
Bài giải: 
Số quả trứng người đó bán cả hai lần là:
 12 + 18 = 30 (quả trứng)
Người đó còn lại số quả trứng là:
50 - 30 = 20 (quả trứng)
 Đáp số: 20 quả trứng
	7 học sinh mắc sai lầm trên đều do các em chưa đọc kỹ đề bài toán, một dữ kiện quan trọng của bài toán “Lần đầu bán 12 quả, lần sau bán 18 quả"
	Đây chỉ là một trong những ví dụ học sinh mắc sai lầm loại này.
b- Khi giải bài toán học sinh chưa đọc kĩ đề bài, chưa hiểu đúng các dữ kiện của bài toán giữa cái đã cho và cái cần tìm
	Ví dụ 2: Bài tập 1 - trang 51 (SGK)
	Quãng đường từ nhà đến chợ huyện dài 5 km, quãng đường từ chợ huyện đến bưu điện tỉnh dài gấp 3 lần quãng đường từ nhà đến chợ huyện. Hỏi quãng đường từ nhà đến bưu điện tỉnh dài bao nhiêu ki - lô - mét ?
	Khi gặp bài toán trên học sinh rất lúng túng. Tôi tiến hành kiểm tra trên lớp 3A năm học 2015 - 2016 chỉ có một số ít học sinh giải bài toán này theo cách giải sau:
Quãng đường từ Chợ huyện đến Bưu điện tỉnh dài số ki - lô - mét là:
5 3 = 15 (km)
 Quãng đường từ Nhà đến Bưu điện tỉnh dài số ki - lô - mét là:
5 + 15 = 20 (km)
Đáp số: 20 km
	Một số học sinh khác do quen cách tính chỉ có một phép tính nên không viết được trọn vẹn lời giải.
	Khi đã làm bài toán giải bằng một phép tính sang bài toán giải bằng hai phép tính có em áp dụng máy móc cách tính của bài toán giải bằng một phép tính
c- Học sinh không nắm vững kiến thức cơ bản:
	Ví dụ 3: Bài 3 - trang 157
 Một quãng đường dài 25 850 m, trong đó có 9850 m đường đã trải nhựa. 
Hỏi còn bao nhiêu ki- lô- mét đường chưa trải nhựa ?
Với bài toán trên học sinh có thể tính được kết quả nhưng không để ý đến tên đơn vị đề bài mà chỉ để ý đến yêu cầu của bài bắt tìm gì ? và trong quá trình giải các em điền ngay tên đơn vị mà không qua bước đổi đơn vị đo 
	Có 15 học sinh đã giải như sau:
Còn lại số mét đường chưa trải nhựa là :
25 850 - 9850 = 16 000 (km)
Đáp số: 16 000 km
	Chỉ có 13 em có lời giải và kết quả đúng như sau: 
Bài giải:
Số ki- lô- mét đường chưa trải nhựa là :
25 850 - 9850 = 16 000 (m)
Đổi : 16 000 m = 16 km
Đáp số: 16 km
15 học sinh mắc sai lầm trên đều do các em chưa đọc kỹ đề bài toán, một dữ kiện quan trọng của bài toán “Bài toán cho biết quãng đường dài theo đơn vị là mét nhưng yêu cầu đi tìm đoạn đường còn lại theo đơn vị là ki- lô- mét”.
d- Sai lầm do học sinh còn lúng tung khi sử dụng từ ngữ để viết câu lời giải và chưa nắm vững các bước giải của bài toán.
	Ví dụ 4: Bài 4 - VBTT3 trang 46
 Mẹ mua rau hết 5600 đồng. Mẹ đưa cô bán hàng một tờ giấy bạc loại 5000 đồng và một tờ loại 2000 đồng. Hỏi cô bán hàng phải trả lại mẹ bao nhiêu tiền?
Tôi tiến hành kiểm tra trên lớp 3A năm học 2015 - 2016 , nhưng chỉ có 16 em có lời giải và kết quả đúng. 
 	Số học sinh còn lại đặt lời giải và phép tính như sau:
	Bài giải:
Số tiền mẹ mua rau hết là :
5000 - 2000 = 3000 (đồng)
Cô bán hàng trả lại mẹ số tiền là :
5600 - 3000 = 2600 (đồng)
 Đáp số : 2600 đồng
	Tóm lại: Trên đây là những khó khăn sai lầm cơ bản học sinh thường gặp khi giải bài toán có lời văn. Trong quá trình giải, học sinh dễ bộc lộ những sai lầm nhưng không phải rành mạch từng loại mà có những sai lầm đan xen bao hàm lẫn nhau. Người giáo viên phải nắm chắc được những khó khăn cơ bản, làm cơ sở tìm hiểu những khó khăn sai lầm cụ thể để giúp đỡ học sinh sửa chữa.
Sau đây là khảo sát trên lớp 3A và lớp 3B ở trường tôi trong năm học đã nêu ở trên.
Kiểm tra những bài tập sau ở vở Bài tập Toán lớp 3:
 Lớp 3A, lớp 3B đều 3 bài 
Bài 3 - trang 75
Bài 4 - trang 33 
Bài 1 - trang 81
Kết quả thu được như sau:
 Chất lượng
Lớp
Hoàn thành
Chưa HT
ứng với điểm dưới 5
HT ở mức 1
( Điểm 9-10)
HT ở mức 2
( Điểm 7-8)
HT ở mức 3
( Điểm 5-6)
3A( 30HS)
2
6.7
10
33.3
12
40
6
20.0
3B( 29HS)
4
13.8
9
31.0
12
 41.4
4
13.8
Nhìn vào bảng thống kê trên ta nhận thấy : Kết quả giải toán của HS chưa mĩ mãn. Chất lượng HS giỏi còn khiêm tốn . Số bài điểm yếu còn nhiều. Cụ thể khi chấm bài cho HS tôi nhận ra một số nhược điểm như sau :
- HS chưa nắm chắc bản chất của bài toán.
- Một số HS không hiểu bản chất vấn đề nên trình bày câu lời giải không chính xác.
- Một số HS khác lại biết cách làm nhưng tính toán còn sai sót do không nắm chắc các kiến thức ở lớp dưới.
-Một số học sinh làm phép tính đúng nhưng lại viết sai đơn vị bài toán .... 
 *Các biện pháp tổ chức thực hiện.
 Áp dụng phương pháp dạy học tích cực để dạy giải các bài toán có lời văn ở lớp 3:
	Qua điều tra thực trạng về giải toán có lời văn ở trường tôi và căn cứ vào nội dung giải toán có lời văn ở Tiểu học, tôi mạnh dạn đề xuất phương pháp dạy giải các bài toán giải cụ thể như sau:
a- Phương pháp chung: 
	Đối với giáo viên Tiểu học, việc dạy giải toán cần tiến hành theo một quy tắc nhất định. Những quy tắc đó được xác định trên cơ sở: 
	- Yêu cầu của nội dung kiến thức trong bài.
	Để phát huy cao nhất tác dụng, yêu cầu của việc dạy giải toán, khi dạy giải toán người giáo viên Tiểu học cần tuân theo các bước sau:
	- Xác định yêu cầu của bài.
	- Giáo viên giải bài toán bằng các cách khác nhau.
	- Hướng dẫn học sinh giải.
	- Dự kiến khó khăn sai lầm của học sinh.	
* Giải toán: 
Là khâu đầu tiên trong quá trình chuẩn bị dạy - giải của người giáo viên. Chỉ thông qua giải toán, giáo viên mới có thể dự kiến được những khó khăn sai lầm mà học sinh thường mắc phải. Khi giải bài toán bằng nhiều cách giáo viên bao quát được tất cả hướng giải của học sinh, phát hiện nhiều em cón hướng giải tốt. Đồng thời hướng dẫn các em giải theo nhiều cách để kích thích lòng say mê toán học ở trẻ.
	* Dự kiến sai lầm:
Đây là một công việc không thể thiếu được trong quá trình dạy toán. Từ dự kiến những sai lầm của học sinh giáo viên đặt ra phương án tốt giải quyết cho từng bài toán.
Một số khó khăn sai lầm học sinh thường mắc phải khi giải toán là:
- Không nắm được các bước giải
- Tính toán sai.
- Đổi sai đơn vị đo.
- Vận dụng sai công thức
Xuất phát từ định hướng trên và từ những ngại ngùng khi gặp toán giải của học sinh, tôi đã hướng dẫn học sinh qua từng bước để các em thấy giải toán không còn là mối lo ngại khi làm bài.Khi gặp bài toán giải tôi thường hướng dẫn các em đi theo các bước sau đây:
* Tìm hiểu đề toán:
	Hướng dẫn học sinh xác định được:
	- Bài toán cho ta biết những gì ?
	- Bài toán yêu cầu tìm gì ?
	- Mối quan hệ giữa cái đã biết và cái chưa biết là gì ?
 - Phân tích điều phải tìm để tìm hướng đi đến đích của bài.
 * Hướng dẫn giải:
	Đây là công việc chủ yếu trong giờ dạy giải toán, để việc đó đạt hiệu quả rõ ràng người giáo viên phải thực hiện tốt những khâu trên.
	Hướng dẫn giải có khi chỉ là một câu hỏi ngắn gọn gợi ý của bài toán, có khi là một sơ đồ hoặc nhắc lại một kiến thức nào đó, cũng có thể là một hệ thống câu hỏi mắt xích.
 b- Phương pháp dạy giải một số bài toán cụ thể:
 Bài toán có đến hai bước tính (Với các mối quan hệ trực tiếp và đơn giản)
	Bài 3 - trang 58 (SGK Toán 3)):Thu hoạch ở thửa ruộng thứ nhất được 127 kg cà chua, ở thửa ruộng thứ hai được nhiều gấp 3 lần số cà chua ở thửa ruộng thứ nhất. Hỏi thu hoạch ở cả hai thửa ruộng được bao nhiêu ki- lô- gam cà chua ?
Bài giải
Thửa ruộng thứ hai thu ho

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_kinh_nghiem_ve_ren_ky_nang_giai_toan_co_loi_van.doc