SKKN Một số kinh nghiệm trong việc phát hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi môn Địa Lí

SKKN Một số kinh nghiệm trong việc phát hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi môn Địa Lí

Công tác giáo dục nói chung, phát hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi nói riêng là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của các trường THPT trong cả nước. Việc bồi dưỡng học sinh giỏi có tác động tích cực đến quá trình dạy và học, tạo động lực, làm nòng cốt trong phong trào thi đua dạy tốt - học tốt. Kích thích ý chí vươn lên chiếm lĩnh đỉnh cao tri thức và góp phần giáo dục nhân cách toàn diện cho học sinh, hướng tới thực hiện mục tiêu giáo dục nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước.

Bộ môn Địa lí được đánh giá là một môn học khó vừa có kiến thức của các môn tự nhiên lại có cả kiến thức của các môn xã hội. Vì thế, người giáo viên dạy môn Địa lí cần phải có một kiến thức tổng hợp để cung cấp những kiến thức về tự nhiên và kinh tế xã hội đại cương, của toàn thế giới nói chung và của Việt Nam nói riêng. Ngoài ra, còn cung cấp cho học sinh kĩ năng tính toán, xử lí số liệu, nhận biết các dạng biểu đồ, cách quan sát và nhận xét Atlat, biểu đồ và các bảng số liệu. Trong sáng kiến này tôi xin được đưa ra một số quan điểm trong việc phát hiện học sinh giỏi và khái quát phương pháp bồi dưỡng học sinh giỏi bộ môn Địa lí ở lớp 11. Tôi mong muốn nhận được sự góp ý của đồng nghiệp để cùng tìm ra những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy và học Địa lí nói chung và nhất là việc bồi dưỡng học sinh giỏi bộ môn Địa lí nói riêng.

 

doc 25 trang thuychi01 9384
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số kinh nghiệm trong việc phát hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi môn Địa Lí", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
Mục lục
TRƯỜNG THPT TRẦN KHÁT CHÂN
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ KINH NGHIỆM TRONG VIỆC PHÁT HIỆN VÀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI MÔN ĐỊA LÍ
Người thực hiện: Đinh Thị Hạnh Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc môn: Địa lí
THANH HÓA NĂM 2018
Mục lục
Nội dung	Trang
Mở đầu	1
Lí do chọn đề tài	1
Mục đích nghiên cứu	1
Đối tượng nghiên cứu	2
Phương pháp nghiên cứu	2
Những điểm mới của SKKN	2
Nội dung sáng kiến kinh nghiệm	3
Cơ sở lý luận của SKKN	3
Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng SKKN	3
Thực trạng chung	3
Thực trạng đối với giáo viên và học sinh	4
Các SKKN hoặc giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề	6
Phát hiện học sinh giỏi môn Địa lí	6
Bồi dưỡng học sinh giỏi môn Địa lí	7
Hiệu quả của SKKN đối với hoạt động giáo dục, bản thân, đồng nghiệp và nhà trường	19
Kết luận, kiến nghị	20
Kết luận	20
Kiến nghị	20
* Tài liệu tham khảo
Mở đầu
Lí do chọn đề tài
Công tác giáo dục nói chung, phát hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi nói riêng là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của các trường THPT trong cả nước. Việc bồi dưỡng học sinh giỏi có tác động tích cực đến quá trình dạy và học, tạo động lực, làm nòng cốt trong phong trào thi đua dạy tốt - học tốt. Kích thích ý chí vươn lên chiếm lĩnh đỉnh cao tri thức và góp phần giáo dục nhân cách toàn diện cho học sinh, hướng tới thực hiện mục tiêu giáo dục nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước.
Bộ môn Địa lí được đánh giá là một môn học khó vừa có kiến thức của các môn tự nhiên lại có cả kiến thức của các môn xã hội. Vì thế, người giáo viên dạy môn Địa lí cần phải có một kiến thức tổng hợp để cung cấp những kiến thức về tự nhiên và kinh tế xã hội đại cương, của toàn thế giới nói chung và của Việt Nam nói riêng. Ngoài ra, còn cung cấp cho học sinh kĩ năng tính toán, xử lí số liệu, nhận biết các dạng biểu đồ, cách quan sát và nhận xét Atlat, biểu đồ và các bảng số liệu. Trong sáng kiến này tôi xin được đưa ra một số quan điểm trong việc phát hiện học sinh giỏi và khái quát phương pháp bồi dưỡng học sinh giỏi bộ môn Địa lí ở lớp 11. Tôi mong muốn nhận được sự góp ý của đồng nghiệp để cùng tìm ra những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy và học Địa lí nói chung và nhất là việc bồi dưỡng học sinh giỏi bộ môn Địa lí nói riêng.
Mục đích nghiên cứu
Học tập nói chung và học tập môn Địa lí nói riêng là quá trình tiếp thu kiến thức. Kiến thức địa lí lại hết sức phong phú và số liệu địa lí kinh tế lại phải liên tục cập nhật mà ở trường không sao truyền thụ hết được. Trong khi đó khả năng hiểu biết và khả năng học tập của con người trong cả cuộc đời là có hạn. Cho nên, dạy học ở trường phải phù hợp với đặc điểm tâm lí và khả năng nhận thức của học sinh, cần thiết phải làm cho quá trình học tập của học sinh trở thành quá trình chủ động học tập, tiến dần lên quá trình tự nghiên cứu độc lập.
Ngoài nhiệm vụ dạy môn Địa lí ở các lớp, giáo viên còn có nhiệm vụ phát hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi. Làm thế nào để phát hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi? Đây là trăn trở của nhiều giáo viên bộ môn trong đó có giáo viên giảng dạy môn Địa lí và đối với trường tôi vấn đề phát hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi cũng không nằm ngoài những trăn trở đó.
Thông qua sáng kiến này nhằm tạo ra khả năng tự giáo dục, tự học, tự nghiên cứu để kích thích và phát triển các phẩm chất thông minh và sáng tạo của người học. Học sinh không chỉ được học tốt về tri thức khoa học bộ môn mà còn học tri thức về phương pháp, được học cách tự học tốt nhất, được rèn luyện nhiều về mặt tư duy, nhất là tư duy lôgíc, tư duy biện chứng.
Đối tƣợng nghiên cứu
Học sinh khối lớp 11 của hai năm học khác nhau (lớp 11A2 khóa 2012 - 2015 và lớp 11B2 khóa 2014 - 2017).
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nêu vấn đề.
Phương pháp diễn giải.
Phương pháp dạy học liên môn.
Phương pháp đàm thoại gợi mở.
Phương pháp quy nạp diễn dịch.
Những điểm mới của SKKN
So với SKKN mà tôi làm năm học 2014 - 2015 thì năm nay tôi đã thay chương trình lớp 12 bằng chương trình lớp 11 cho phù hợp với nội dung cuả kì thi học sinh giỏi tỉnh. Cụ thể là thay thế phần: Địa lí ngành Công nghiệp Việt Nam bằng phần: Khái quát nền kinh tế xã hội thế giới.
Thay đổi đề mẫu cả phần lí thuyết và thực hành sao cho phù hợp với nội dung và cấu trúc thi học sinh giỏi tỉnh mới của Sở đã ban hành.
Nội dung sáng kiến kinh nghiệm.
Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm.
Việc phát hiện, bồi dưỡng học sinh giỏi là một trong những hoạt động khó khăn, vất vả và đầy thử thách đối với giáo viên trong sự nghiệp trồng người. Bồi dưỡng học sinh giỏi cũng là một công tác rất quan trọng giúp cho ngành giáo dục phát hiện được nhân tài, lựa chọn những mầm mống tương lai cho đất nước. Đồng thời, giúp cho học sinh thực hiện được ước mơ là con ngoan - trò giỏi và có định hướng đúng về nghề nghiệp của mình trong tương lai.
Thực tế trong những năm qua, công tác phát hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi luôn được Sở giáo dục đào tạo và các trường THPT trong tỉnh quan tâm và tạo điều kiện phát triển. Bên cạnh những thành tích đã đạt được, công tác phát hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi cũng còn một số những hạn chế nhất định như: chất lượng học sinh đầu vào của một số trường đi lên từ Bán công như trường tôi còn quá thấp, chất lượng đạt hiệu quả chưa cao, khi tăng khi giảm, thiếu tính bền vững mà đặc biệt là các bộ môn khoa học xã hội trong đó có bộ môn Địa lí.
Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
Thực trạng chung
Thực tế hiện nay, ở các trường THPT trên cả nước do điều kiện khách quan và chủ quan chi phối nên phần lớn học sinh nghiêng về các khối A - B - D. Hiện trạng học sinh quan niệm môn Địa lí là "môn phụ" diễn ra khá phổ biến nên ít có sự đầu tư học tập theo đúng yêu cầu bộ môn.
Thực tế ở trường tôi hiện nay, mặc dù từ năm 2010 trở lại đây đã được tuyển sinh độc lập nhưng chất lượng học sinh đầu vào còn rất thấp. Nên số lượng học sinh khá giỏi ít mà chủ yếu là học sinh trung bình, thậm chí có cả yếu. Kết quả thi ĐHCĐ, học sinh giỏi tỉnh hằng năm rất thấp so với các trường trong tỉnh. Mặt khác hiện
nay, số lượng học sinh theo các môn xã hội còn rất ít, mỗi khóa chỉ khoảng dưới 20 em. Nhiều em tỏ ra chán học, không hào hứng đối với các môn như: Sử, Địa
Cụ thể trong môn Địa nhiều học sinh không nắm được kiến thức cơ bản, không biết sử dụng bảng số liệu, không biết nhận xét biểu đồlàm việc với kiến thức địa lí còn lúng túng. Khi kiểm tra còn nhiều học sinh không thuộc bài, những câu hỏi vấn đáp trong giờ học thường rất ít, chỉ một vài học sinh khá xung phong xây dựng bài. Các đợt thi khảo sát đầu năm, kiểm tra học kì ở một số lớp đều có chung biểu hiện các em ít quan tâm, không chịu làm bài. Như vậy, rõ ràng việc đưa ra những phương pháp dạy học để học sinh thích học, học sinh được tham gia và được thể hiện mình là điều cần thiết và rất khó. Đặc biệt là việc phát hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi còn là vấn đề khó khăn và bức xúc hơn rất nhiều.
Thực trạng đối với giáo viên và học sinh
Đối với học sinh
Vấn đề quan trọng đầu tiên trong giảng dạy và bồi dưỡng học sinh giỏi đó là xác định đúng đối tượng học sinh cần chọn. Thông thường, giáo viên trực tiếp đứng lớp qua kinh nghiệm giảng dạy từ lớp 10 sẽ quan sát, chú ý những học sinh tiềm năng, tiếp cận và động viên các em tham gia đội tuyển học sinh giỏi và bắt đầu bồi dưỡng cho các kì thi như kì thi học sinh giỏi cấp trường... Nếu các em đạt được kết quả tốt sẽ tiếp tục bồi dưỡng lên lớp 11 để tham dự các kì thi học sinh giỏi cấp tỉnh. Những năm gần đây do tác động của kinh tế, xã hội và gia đình nên học sinh không hứng thú với các bộ môn khoa học xã hội - trong đó có môn Địa lí. Hiện trạng học sinh quan niệm Địa lí là "môn phụ" diễn ra khá phổ biến nên ít có sự đầu tư học tập theo đúng yêu cầu bộ môn. Qua tiếp xúc, trao đổi với học sinh, tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng của các em, tôi hiểu rằng không phải các em không thích học các môn khoa học xã hội mà đơn giản chỉ vì các môn học này không thể giúp các em kiếm sống dễ dàng trong xã hội ngày nay. Trong quá trình giảng dạy và bồi dưỡng học sinh giỏi bộ môn Địa lí, tôi nhận thấy đa số các em tham gia một phần
vì yêu thích bộ môn, một phần vì nể thầy cô giáo.
Đối với giáo viên
Muốn đạt được kết quả tốt trong công tác dạy - học, vai trò của thầy cô giáo là rất lớn, phải yêu cầu, hướng dẫn và tổ chức điều kiển học sinh phát triển tư duy nhất là tư duy độc lập, sáng tạo, biết tự tiếp thu tri thức từ nhiều nguồn trong đó phải kể đến việc giải các dạng bài tập khác nhau kể cả lí thuyết và thực hành, trong quá trình học bằng cách tự mình suy nghĩ, đặt vấn đề và giải quyết các vấn đề được đặt ra, kết hợp với trao đổi cá nhân, thảo luận nhóm, làm phong phú thêm kiến thức. Sau đó, người học tự kiểm tra đánh giá sản phẩm ban đầu sau khi đã trao đổi với bạn bè và dựa vào kết luận của thầy cô, tự sửa chữa, tự điều chỉnh, tự hoàn thiện, đồng thời tự rút ra kinh nghiệm về cách học, cách xử lí tình huống, cách giải quyết vấn đề của mình. Con người chỉ thực sự nắm vững cái mà mình đã giành được bằng hoạt động của bản thân. Học sinh sẽ chỉ ghi nhớ, nắm vững được những gì đã trải qua trong hoạt động nhận thức tích cực của mình, trong đó các em đã phải có những cố gắng trí tuệ và khát vọng học tập.
Nhiệm vụ tư duy đặt ra cho giáo viên khi bồi dưỡng cho học sinh giỏi phần lớn là việc lựa chọn vấn đề, chủ đề. Các vấn đề được lựa chọn theo chương trình chuyên sâu của THPT phải có mục đích gợi lại những kiến thức cơ bản của chương trình sách giáo khoa đã được thông hiểu và nắm vững để tổng hợp, hệ thống hoá, củng cố, thực hành, rèn luyện kĩ năng đã học, rút ra kết luận.
Vấn đề chuyên sâu không chỉ nhằm mục đích ôn tập, củng cố kiến thức đã học, mà tạo ra sự ham muốn hiểu biết, ham muốn học hỏi, tự tìm tòi và phải biết suy nghĩ, biết vận dụng kiến thức đã học để hiểu biết kiến thức mới thì học sinh không thể nào giải quyết được các vấn đề đặt ra. Sự nỗ lực trên của các em bao gồm cả tư duy trí tuệ, động cơ tâm lý, ý thức, thái độ tình cảm. Nhưng khi đã giải quyết được vấn đề đặt ra, học sinh sẽ cảm thấy phấn khởi, hứng thú, say mê hơn với bộ môn, đồng thời có niềm tin vào bản thân và có ý chí vươn lên trong cuộc sống.
Hiện nay, ngành giáo dục đang thực hiện đổi mới chương trình giáo dục phổ thông. Tính đa dạng, phức tạp của hoạt động giảng dạy - giáo dục đòi hỏi người giáo viên phải thường xuyên chú ý đến việc bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận và nghiệp vụ của mình. Bởi lẽ lao động sư phạm là lao động sáng tạo, đòi hỏi người giáo viên
phải có kiến thức sâu và toàn diện, luôn bổ sung cái mới nhằm hoàn thiện nghệ thuật sư phạm. Điều này giúp cho giáo viên có đủ năng lực thực hiện đổi mới phương pháp giáo dục phổ thông, nâng cao trình độ, giúp giáo viên theo kịp và đáp ứng được yêu cầu bộ môn.
Trước sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật, trước sự đòi hỏi ngày càng cao của chương trình đổi mới giáo dục phổ thông, của xã hội, giáo viên gặp rất nhiều khó khăn trước nhiệm vụ được giao. Việc phát hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi là vấn đề không hề đơn giản mà phải được đầu tư thích đáng và tiến hành bài bản. Học sinh "năng khiếu" được phát hiện và bồi dưỡng sớm bao nhiêu thì sẽ thu được kết quả tốt bấy nhiêu. Nhưng phát hiện và bồi dưỡng học sinh như thế nào để có kết quả tốt là một vấn đề hết sức khó khăn đòi hỏi giáo viên phải chuẩn bị kỹ lưỡng.
Các sáng kiến kinh nghiệm hoặc các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
Phát hiện học sinh giỏi môn Địa lí.
Mục tiêu đào tạo của trường THPT là “giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kỹ năng cơ bản nhằm hình thành nhân cách con người Việt Nam XHCN, xây dựng nhân cách và trách nhiệm công dân” và có thêm yêu cầu được phát triển năng khiếu (về một môn học) để chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên đại học, nhằm đào tạo thành những tri thức giỏi, cao hơn là những nhân tài cho đất nước.
Có thể nói mục tiêu đào tạo ở trường THPT là mục tiêu kép. Nhân cách, tư cách của một công dân và nhân cách, tư cách của một nhân tài trong tương lai. Nhiệm vụ của trường THPT là vừa phải thực hiện nhiệm vụ giáo dục toàn diện để hoàn thiện cho học sinh nền học vấn phổ thông và những hiểu biết thông thường về kỹ thuật và hướng nghiệp, vừa phải thực hiện sự tác động đúng hướng để phát triển năng khiếu của các em về một môn học cụ thể.
Đối với môn Địa lí : Trước hết giáo viên phải nhận biết được học sinh giỏi Địa phải là những học sinh học tốt cả các môn tự nhiên và các môn xã hội vì bên cạnh lí thuyết cần phải có trí nhớ bền vững, thì học sinh còn phải có khả năng tính toán, xử lí số liệu, có khả năng phát triển vấn đề và có khả năng sáng tạo. Ngoài ra, giáo viên còn có thể dựa vào một số tiêu chí sau để có thể phát hiện học sinh giỏi:
Thông qua tổng hợp kết quả học tập của học sinh cấp dưới.
Qua sự thăm dò ý kiến của giáo viên bộ môn.
Qua các giờ học trên lớp, học sinh phải thể hiện mình yêu thích môn Địa lí, có năng khiếu môn Địa lí.
Cụ thể:
+ Trong quá trình nghe giảng học sinh biết điều chỉnh, chọn lọc kiến thức cần ghi chép, những phần nào giáo viên mở rộng kiến thức mà không có trong SGK, học sinh ghi ngay vào quyển sổ tay để nhớ.
+ Lựa chọn những học sinh nắm vững kiến thức cơ bản trong chương trình phổ thông và kiến thức mở rộng.
+ Đặt các tình huống có vấn đề từ dễ đến khó để phát hiện học sinh có năng khiếu.
+ Trong quá trình học và làm bài kiểm tra, phát hiện những em có khả năng viết bài (lời lẽ hay, cách lập luận chặt chẽ, khoa học, lôgíc) phân tích tổng hợp những kiến thức đã học, trình bày rõ ràng mạch lạc, đúng trọng tâm vấn đề được đặt ra.
+ Trong chương trình làm đề, giáo viên nên đổi mới cách ra đề giành cho mỗi đối tượng học sinh. Đặc biệt đối với học sinh khá, giỏi nên có những câu hỏi đòi hỏi trình độ tư duy khái quát, phân tích, tổng hợp để từ đó phân loại học sinh và có kế hoạch bồi dưỡng.
Bồi dưỡng học sinh giỏi môn Địa lí.
* Phải xác định động cơ, hứng thú học tập cho học sinh.
Xác định mục tiêu học tập là hình thành ở học sinh động cơ đúng đắn trong học tập. Động cơ là động lực bên trong thúc đẩy trực tiếp học sinh hoạt động. Như vậy, bước thứ nhất của công việc dạy học địa lí là làm thế nào khơi gợi được hứng thú đối với việc học tập, làm rõ mục đích học tập của học sinh. Công việc này tập
trung tiến hành trong bài mở đầu cũng như phần đầu của bài giảng, trong suốt quá trình giảng dạy, giáo viên cần kết hợp hai yêu cầu đó. Trong bài mở đầu, giáo viên phải giúp học sinh thấy được mục đích và yêu cầu của toàn học kỳ, đồng thời biết nêu ra một số vấn đề trong nội dung học tập có khả năng khêu gợi hứng thú học tập của học sinh, khiến học sinh khát khao muốn được biết, kích thích tính tích cực học tập của học sinh.
Động cơ học tập môn địa lí của học sinh phải được tạo ra bởi quyền lợi được hưởng của các em (được khen thưởng, cộng điểm) hoặc bằng sức mạnh của nội dung bài học. Không có động cơ học tập, học sinh sẽ không có nhu cầu tham gia tích cực vào bài học. Vì vậy, chỉ có thể nâng cao được chất lượng dạy học Địa lí ở trường THPT nói chung, bồi dưỡng học sinh giỏi môn Địa lí nói riêng khi hình thành được ở học sinh động cơ, thái độ học tập đúng đắn.
* Phải sớm hình thành ở học sinh những năng lực học và làm bài thi môn Địa lí.
Năng lực học là khả năng tự mình chiếm lĩnh kiến thức địa lí một cách có hiệu quả dưới sự điều khiển, hướng dẫn của giáo viên. Muốn vậy, học sinh phải được trang bị những cơ sở mang tính phương pháp. Kiến thức mà học sinh lĩnh hội là những kiến thức đã được khoa học xác nhận và được ghi chép trong sách giáo khoa bộ môn. Xuất phát từ đặc trưng của kiến thức địa lí, chúng ta cần hình thành ở học sinh những kỹ năng cơ bản sau:
Thứ nhất là cần tạo cho học sinh kĩ năng học, ghi nhớ các vấn đề Địa lí một cách hệ thống thông qua các sơ đồ tư duy:
Thực tế cho thấy giữa các vấn đề và trong từng vấn đề của môn Địa lí luôn có mối quan hệ lẫn nhau. Các em cần nắm vững kiến thức ở từng bài, từng chương, từng chủ đề. Muốn đạt được điều đó, người giáo viên phải dạy cho các em những kiến thức cơ bản nhất, cho các em học theo ý rõ ràng, mạch lạc, mở rộng ở mức độ phù hợp với từng đối tượng học sinh.
Hiện nay có rất nhiều môn học trong đó có môn Địa lí đã sử dụng sơ đồ tư duy cho các tiết học, các chủ đề, vấn đề. Việc sử dụng sơ đồ tư duy giúp học sinh hình dung ra nội dung bài học, khái quát lại các kiến thức cơ bản. Từ đó, giúp các em dễ dàng ghi nhớ và nắm vững kiến thức được lâu hơn.
Cụ thể trong phần: Khái quát nền kinh tế xã hội thế giới (SGK cơ bản lớp 11), giáo viên có thể cho học sinh học theo các sơ đồ tư duy sau:
Thứ hai là cung cấp cho học sinh những kiến thức khó, những vấn đề nâng cao ngoài SGK.
Học sinh giỏi môn Địa lí là những học sinh ham thích, say mê nghiên cứu và học tập. Với đối tượng là học sinh giỏi, giáo viên cần xác định rõ ngoài kiến thức cơ bản trong sách giáo khoa, học sinh cần phải biết thêm về các kiến thức nâng cao để hiểu sâu sắc hơn vấn đề. Từ đó các em phải biết vận dụng vào làm các dạng bài thi với yêu cầu tổng hợp, phân tích giải thích, đánh giá. Muốn làm được điều này, giáo viên cần nắm được nguyên tắc "biết - hiểu - vận dụng". Để học sinh "biết" giáo viên cần thay đổi phương pháp dạy, thay vì việc truyền thụ kiến thức cho học sinh, giáo viên cần tạo ra những tình huống để học sinh tự tìm hiểu. Sau đó giáo viên chỉ là người đánh giá, nhận xét và bổ sung kiến thức cho học sinh.
Cụ thể trong phần: Một số vấn đề của châu lục và khu vực (SGK cơ bản lớp
11) có một số kiến thức khó như:
Giải thích vì sao phần lớn các nước châu Phi đều là những nước nghèo và kém phát triển nhất thế giới?
Chứng minh Mĩ la tinh là vùng đất được thiên nhiên ưu đãi.
Vì sao các nước Mĩ la tinh có điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế nhưng tỉ lệ người nghèo ở khu vực này vẫn cao và tốc độ phát triển kinh tế không đều?
Giải thích tại sao khu vực Tây Nam Á tuy tiếp giáp nhiều đại dương và biển nhưng đại bộ phận lãnh thổ lại có khí hậu khô hạn?
Tại sao hiện nay khu vực Tây Nam Á được coi là một trong những điểm nóng của thế giới?
Các vấn đề của khu vực Tây Nam Á và Trung Á nên được bắt đầu giải quyết từ đâu? Vì sao?
Tình hình chính trị thiếu ổn định ở khu vực Tây Nam Á và Trung Á ảnh hưởng đến khu vực và thế giới như thế nào?
Với những kiến thức mở rộng như trên, GV có thể hướng dẫn cho HS cách lập dàn ý như sau:
Đối với câu a: HS làm bài dựa trên việc bám sát kiến thức cơ bản, kết hợp với hiểu biết của bản thân, suy luận để giải thích vì sao phần lớn các nước châu Phi đều là những nước nghèo và kém phát triển:
+ Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên gồm các yếu tố: địa hình, đất đai, khí hậu, khoáng sản, rừngđều khó khăn và bị khai thác cạn kiệt.
+ Điều kiện kinh tế xã hội gồm: kinh tế chậm phát triển và bị lệ thuộc, chưa tự chủ, xung đột sắc tộc, trình độ dân trí thấp, đói nghèo bệnh tật, quản lí yếu kém
Đối với câu b: HS làm bài dựa trên việc bám sát kiến thức cơ bản, kết hợp với hiểu biết của bản thân, suy luận để chứng minh Mĩ la tinh là vùng đất được thiên nhiên ưu đãi:
+ Vị trí đía lí gồm: nằm giữa hai đại dương lớn là Đại Tây Dương và Thái Bình Dương, có kênh đào Panama, nằm trong khu vực giầu tài nguyên.
+ Tài nguyên thiên nhiên: đất đai màu mỡ, nguồn nước dồi dào, khí hậu đa dạng từ nhiệt đới đến ôn đới, bờ biển dài, rừng có diện tích lớn và nhiều gỗ quý, khoáng sản dồi dào
Đối với câu c: HS làm bài dựa trên việc bám sát kiến thức cơ bản, kết hợp với hiểu biết của bản thân, suy luận để giải thích vì sao các nước Mĩ la tinh có điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế nhưng tỉ lệ người nghèo ở khu vực này vẫn cao và tốc độ phát triển kinh tế không đều:
+ Chế độ chiếm hữu ruộng đất.
+ Tình hình chính trị không ổn định.
+ Duy trì quá lâu cơ cấu xã hội phong kiến, sự cản trở của các thế lực Thiên chúa giáo.
+ Chưa xây dựng được đường lối phát triển KTXH độc lập, tự chủ.
+ Đất canh tác chủ yếu trồng cây công nghiệp xuất khẩu, ít chú ý phát triển cây lương thực.
Đối với câu d: HS làm bài theo bốn ý chính để giải thích tại sao khu vực Tây Nam Á tuy tiếp giáp nhiều đại dương và biển nhưng đại bộ phận lãnh thổ lại có khí hậu khô hạn:
+ Khu vực gần ch

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_kinh_nghiem_trong_viec_phat_hien_va_boi_duong_ho.doc