SKKN Một số kinh nghiệm trong việc giúp học sinh lớp 5 sửa lỗi câu sai

SKKN Một số kinh nghiệm trong việc giúp học sinh lớp 5 sửa lỗi câu sai

 Mục tiêu giáo dục Tiểu học là nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ và thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bước đầu xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân, chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học THCS. Chính vì thế, giáo dục Tiểu học được coi là cấp học nền tảng của hệ thống giáo dục quốc dân. Do vậy, người giáo viên Tiểu học có vị trí, vai trò quan trọng góp phần quyết định trong việc thực hiện hoạt động dạy và học có chất lượng. Ở bậc Tiểu học, bên cạnh việc dạy kiến thức cho học sinh là việc rèn kĩ năng giao tiếp cho các em.

 Xuất phát từ những yêu cầu trên và để có thể đạt được mục tiêu của cấp học, ngành Giáo dục đã không ngừng đổi mới, đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy và học.

 Trong các môn học ở Tiểu học, môn Tiếng Việt giữ một vị trí rất quan trọng. Mục tiêu của môn Tiếng Việt ở trường tiểu học nhằm: Hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt (nghe, nói, đọc, viết) để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi. Thông qua việc dạy và học Tiếng Việt, góp phần rèn luyện các thao tác của tư duy. Cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản về Tiếng Việt và những hiểu biết sơ giản về xã hội, tự nhiên và con người, về văn hóa, văn học của Việt Nam và nước ngoài. Bồi dưỡng tình yêu Tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của Tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Từ mục tiêu trên, có thể nói dạy Tiếng Việt chính là dạy cách làm người.

 

doc 21 trang thuychi01 8365
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số kinh nghiệm trong việc giúp học sinh lớp 5 sửa lỗi câu sai", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THẠCH THÀNH
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
“MỘT SỐ KINH NGHIỆM TRONG VIỆC GIÚP HỌC SINH 
LỚP 5 SỬA LỖI CÂU SAI”
 Người thực hiện: Nguyễn Thị Thu
 Chức vụ: Giáo viên
 Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Thạch Quảng 
 Thạch Thành – Thanh Hóa
 SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Tiếng Việt
THANH HÓA NĂM 2016
MỤC LỤC
STT
NỘI DUNG
TRANG
1
I. Mở đầu.
2
2
1. Lí do chọn đề tài:
2
3
2. Mục đích nghiên cứu.
3
4
3. Đối tượng nghiên cứu.
3
5
 4. Phương pháp nghiên cứu.
3
6
II. Nội dung.
4
7
1. Cơ sở lí luận.
4
8
2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu.
7
9
3. Các giải pháp và biện pháp tổ chức thực hiện.
9
10
4. Kết quả đạt được.
17
11
III. Kết luận, kiến nghị
18
I. Mở đầu.
1. Lí do chọn đề tài:
 Mục tiêu giáo dục Tiểu học là nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ và thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bước đầu xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân, chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học THCS. Chính vì thế, giáo dục Tiểu học được coi là cấp học nền tảng của hệ thống giáo dục quốc dân. Do vậy, người giáo viên Tiểu học có vị trí, vai trò quan trọng góp phần quyết định trong việc thực hiện hoạt động dạy và học có chất lượng. Ở bậc Tiểu học, bên cạnh việc dạy kiến thức cho học sinh là việc rèn kĩ năng giao tiếp cho các em.
 Xuất phát từ những yêu cầu trên và để có thể đạt được mục tiêu của cấp học, ngành Giáo dục đã không ngừng đổi mới, đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy và học.
 Trong các môn học ở Tiểu học, môn Tiếng Việt giữ một vị trí rất quan trọng. Mục tiêu của môn Tiếng Việt ở trường tiểu học nhằm: Hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt (nghe, nói, đọc, viết) để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi. Thông qua việc dạy và học Tiếng Việt, góp phần rèn luyện các thao tác của tư duy. Cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản về Tiếng Việt và những hiểu biết sơ giản về xã hội, tự nhiên và con người, về văn hóa, văn học của Việt Nam và nước ngoài. Bồi dưỡng tình yêu Tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của Tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Từ mục tiêu trên, có thể nói dạy Tiếng Việt chính là dạy cách làm người.
 Đặc biệt đối với học sinh cuối cấp thì sau khi học xong lớp 5 các em phải đạt được trọn vẹn mục tiêu trên. Nhưng để giúp học sinh có được kĩ năng sử dụng tiếng Việt thành thạo trong giao tiếp và tư duy thì cần thiết phải giúp các em biết nói và viết câu tiếng Việt cho đúng, đúng cả về hình thức lẫn nội dung. Hay nói cách khác chính là giúp các em biết cách sắp xếp các từ ngữ thành câu văn hoàn chỉnh bởi vì câu chính là thành phần đầu tiên giúp các em đạt hiệu quả cao trong quá trình tư duy và giao tiếp.
 Đối với bản thân tôi, năm học 2015 – 2016 được BGH nhà trường giao nhiệm vụ chủ nhiệm lớp 5. Qua tìm hiểu, tôi nhận thấy học sinh trường Tiểu học Thạch Quảng còn nhiều hạn chế trong việc dùng câu đúng, đủ vào giao tiếp và tư duy hoặc câu đúng về cấu trúc nhưng chưa hay ở nội dung. Tôi mong muốn làm sao có thể giúp học sinh lớp 5 nâng cao khả năng dùng từ đặt câu, khả năng làm văn thông qua việc giúp các em tự biết sửa các câu sai của mình cho đúng ngữ pháp rồi đến viết được các câu văn hay, giàu hình ảnh, biết vận dụng vào trong giao tiếp và tư duy đạt kết quả cao. Năm học này, tôi đã mạnh dạn thực hiện một số biện pháp nhằm thay đổi và góp phần nâng cao chất lượng môn Tiếng Việt lớp 5 ở trường tôi và thực tế đã mang lại hiệu quả. Do đó, tôi mạnh dạn chia sẻ cho đồng nghiệp qua sáng kiến “ Một số kinh nghiệm trong việc giúp học sinh lớp 5 sửa lỗi câu sai” được thực hiện đối với học sinh lớp 5 trường Tiểu học Thạch Quảng.
2.Mục đích nghiên cứu.
 Mục đích của tôi khi tiến hành nghiên cứu và thực hiện đề tài này là:
+ Nhằm giúp học sinh lớp 5 trường Tiểu học Thạch Quảng thấy được nguyên nhân dẫn đến việc nói và viết câu sai. Từ đó giúp các em tự biết nhận ra câu sai và tự sửa được câu sai của mình cho đúng ngữ pháp. Từ việc biết nói và viết câu đúng ngữ pháp, dần dần các em sẽ viết được những câu văn hay hơn, giàu hình ảnh hơn, biết vận dụng vào trong giao tiếp và tư duy đạt kết quả cao. 
+ Học sinh biết nói và viết câu đúng sẽ biết truyền tải hoặc diễn đạt ý trọn vẹn, mạch lạc, rõ ràng. Khi đó người đọc, người nghe sẽ hiểu đúng nội dung ý nghĩa của vấn đề.
+ Qua việc sửa câu sai sẽ giúp các em học sinh lớp 5 đạt được mục tiêu môn học. Đồng thời hỗ trợ đắc lực cho việc học tập các môn học khác.
+ Thực hiện đề tài này, tôi mong muốn góp phần giáo dục cho học sinh lớp 5 biết yêu hơn tiếng mẹ đẻ, luôn có ý thức giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt.
+ Ngoài những mục đích nêu trên, qua quá trình nghiên cứu vấn đề này còn giúp cho bản thân tôi củng cố rèn luyện tay nghề, nâng cao hiểu biết của bản thân để phục vụ tốt cho việc dạy và học, đáp ứng được yêu cầu giáo dục hiện nay.
3. Đối tượng nghiên cứu.
 Trong khuôn khổ của đề tài này, tôi chỉ nghiên cứu, tìm hiểu và thực nghiệm đối với học sinh lớp 5 trường Tiểu học Thạch Quảng.
 4. Phương pháp nghiên cứu.
 Để tiến hành thực hiện đề tài này tôi đã sử dụng các phương pháp sau:
4.1.Phương pháp nghiên cứu lý thuyết.
- Khi nghiên cứu phương pháp này tôi đã nghiên cứu các tài liệu, giáo trình 
có liên quan đến vấn đề nghiên cứu, bằng phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh mô hình hoá để rút ra những vấn đề lí luận có tính định hướng làm cơ sở để giải quyết các nội dung nghiên cứu.
4.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn.
- Nghiên cứu điều tra thực tiễn qua các bài kiềm tra, các bài thi định kì của học sinh các năm học trước, qua dự giờ, phiếu điều tra, qua phỏng vấn học sinh và giáo viên để làm nền cơ sở cho quá trình nghiên cứu, đề ra những giải pháp mang tính khả thi.
4.3. Phương pháp thực nghiệm.
- Sử dụng phương pháp này để kiểm nghiệm tính khả thi và tác dụng của các giải pháp đã đề ra, có sự điều chỉnh cho hợp lí nhằm đạt kết quả cao trong dạy và học.
 Ngoài các phương pháp nêu trên thì trong quá trình thực hiện đề tài, bản thân tôi đã kết hợp một số phương pháp khác như: Phương pháp quan sát, phương pháp đàm thoại, phương pháp thống kêv.v.
II. Nội dung.
1. Cơ sở lí luận.
 Đất nước Việt Nam của chúng ta có truyền thống văn hóa lâu đời, trong đó ngôn ngữ chiếm một vị trí rất quan trọng. Ông cha ta có câu: “Học ăn, học nói, học gói học mở”, câu “Ăn cho nên đọi, nói cho nên lời”. Những câu nói ấy đã trở nên rất quen thuộc đối với mỗi con người Việt Nam. Nhưng trên thực tế hiện nay, xã hội càng phát triển thì những vấn đề phi văn hóa cũng tìm cách len lỏi ngày càng nhiều vào trong đời sống của chúng ta. Vì vậy giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt là bổn phận và trách nhiệm của mỗi người dân Việt Nam.
 Chính từ tầm quan trọng của môn Tiếng Việt như vậy nên việc dạy tiếng Việt cho học sinh càng được chú trọng và yêu cầu cao. Dạy tiếng Việt chính là dạy giao tiếp. Quá trình tư duy và giao tiếp của con người chỉ đầy đủ, trọn vẹn và đạt hiệu quả cao khi được cung cấp đầy đủ ngữ pháp về câu. 
 Cơ sở để dạy học tốt môn Tiếng Việt cần thiết phải nắm được căn cứ và nguyên tắc xây dựng chương tình môn Tiếng Việt ở Tiểu học. Đó chính là cái gốc của mọi vấn đề trong dạy học Tiếng Việt. Trong quá trình dạy học nói chung, dạy học Tiếng Việt nói riêng, muốn có hiệu quả cao luôn đảm bảo sự phù hợp với đặc điểm tâm lý và nhận thức của lứa tuổi. 
* Các căn cứ xây dựng chương trình.
 Để dạy học tốt môn Tiếng Việt thì ngay khi xây dựng chương trình môn học, các nhà Giáo dục đã nghiên cứu dựa trên các căn cứ: 
1.1.Căn cứ yêu cầu về kinh tế xã hội và giáo dục của giai đoạn mới.
 Đất nước ta đang trong thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đây là thời kì rất khó khăn và cần nhiều thời gian. Gần đây trên thế giới cũng như ở nước ta bắt đầu đặt ra những vấn đề như nền kinh tế tri thức, nền kinh tế của công nghệ thông tin, xu hướng quốc tế hoá, toàn cầu hóa trong kinh tế, vấn đề hội nhập, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc kinh tế xã hội phát triển được phản ánh vào giáo dục, đòi hỏi phải có những đổi mới tư duy trong phát triển giáo dục và đào tạo.
 Để đáp ứng yêu cầu trên, ngành Giáo dục đã đề ra những yêu cầu mới trong dạy tiếng nói chung, dạy tiếng mẹ đẻ nói riêng. Để Tiếng Việt trở thành công cụ đắc lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội, cho sự phát triển giáo dục, việc dạy Tiếng Việt phải nhằm vào cả hai chức năng của ngôn ngữ (công cụ của tư duy và công cụ của giao tiếp), phải chú trọng vào cả bốn kĩ năng (nghe, nói, đọc, viết), phải hướng tới sự giao tiếp và sử dụng phương pháp giao tiếp Để đáp ứng yêu cầu trên, sự thay đổi trong chương trình, sách giáo khoa, phương pháp dạy học Tiếng Việt nói chung, dạy Tiếng Việt ở tiểu học nói riêng là cấp thiết.
2.2 Căn cứ vào mục tiêu đào tạo nói chung, mục tiêu môn học nói riêng
 Đây là căn cứ quan trọng nhất. Môn Tiếng Việt trong nhà trường không thể sao chép từ chương trình khoa học Tiếng Việt vì nhà trường có nhiệm vụ riêng của mình. Dạy học Tiếng Việt trong nhà trường nhằm hình thành cho HS những kĩ năng, kĩ xảo về ngôn ngữ và các thao tác tư duy. Mục tiêu dạy học sẽ chi phối việc lựa chọn dạy những gì thiết thực đối với trẻ em. Môn học Tiếng Việt cần đảm bảo cho HS những mẫu đúng đắn của ngôn ngữ văn hoá, giáo dục cho HS văn hoá giao tiếp, dạy cho các em biết truyền đạt tư tưởng, hiểu biết, tình cảm của mình một cách, chính xác và biểu cảm.
 Quan niệm về mục tiêu môn học khác nhau là cơ sở để đề xuất chương trình khác nhau. Nếu mục tiêu cơ bản của dạy tiếng mẹ đẻ trong nhà trường là hình thành và phát triển kĩ năng kĩ xảo hoạt động lời nói cho HS thì cần phải biết lựa chọn những tài liệu lí thuyết đủ trang bị cho các em nắm những kĩ năng chính âm, chính tả, ngữ pháp.
2.3. Căn cứ vào thành tựu của các khoa học cơ bản, khoa học cơ sở và phương pháp dạy học.
 Trước những thành tựu của các ngành khoa học : Ngôn ngữ học, Việt ngữ học, Tâm lý học, Giáo dục học và phương pháp dạy tiếng đã có những bước phát triển vượt bậc, tạo điều kiện cho việc xây dựng một chương trình Tiếng Việt tiểu học mới. Sự phát triển của ngành khoa học này là động lực thúc đẩy sự phát triển của ngành khoa học kia. Nghiên cứu ngôn ngữ và Tiếng Việt trong giao tiếp đã được chú ý, dẫn tới sự phát triển mạnh mẽ của ngữ dụng học bên cạnh xu hướng nghiên cứu ngôn ngữ trong hệ thống, theo cấu trúc. Các thành tựu nghiên cứu về lý thuyết hội thoại, về giao tiếp ngôn ngữ đã mang lại những cơ sở vững chắc cho sự phát triển phương pháp dạy học tiếng trong giao tiếp và bằng giao tiếp.
 Về mặt tâm lý học, chuyển từ cách học thụ động nặng về ghi nhớ sang cách học chủ động kết hợp ghi nhớ với hoạt động chiếm lĩnh kiến thức. 
2.4. Sự kế thừa các thành tựu dạy Tiếng Việt trong những năm qua và tiếp thu kinh nghiệm dạy tiếng mẹ đẻ của các nước trên thế giới.
 Trong nhà trường, mỗi chương trình dạy Tiếng Việt hướng tới một loại đối tượng (chương trình Tiếng Việt cho học sinh người Việt, chương trình Tiếng Việt cho học sinh các dân tộc vùng khó khăn, chương trình Tiếng Việt thực nghiệm của Công nghệ giáo dục, chương trình Tiếng Việt Tiểu học – 2000,...). 
2.5 Căn cứ điều kiện dạy học ở Tiểu học hiện nay trên phạm vi cả nước
 Những điều kiện về cơ sở vật chất, thiết bị dạy học  ở các vùng khác nhau rất không đồng đều, có nhiều nơi trường lớp chưa đủ, các thiết bị dạy học Tiếng Việt còn thiếu, giáo viên trình độ thấp. Những điều này cần được tính toán đầy đủ khi xây dựng chương trình.
 Với tôi, là một giáo viên Tiểu học, để góp phần thực hiện nhiệm vụ dạy học của mình, thông qua dạy học để giáo dục học sinh, giáo dục cho các em biết yêu quê hương đất nước trong đó bao gồm yêu tiếng mẹ đẻ, biết nói và viết đúng ngữ pháp Tiếng Việt, cần thiết phải nắm được chương trình cũng như các căn cứ xây dựng chương trình.
* Những nguyên tắc xây dựng chương trình Tiếng Việt
 1. Nguyên tắc khoa học
 Nguyên tắc khoa học đòi hỏi môn Tiếng Việt phải đảm bảo tính chính xác, hiện đại nội dung dạy học, vừa sức với đối tượng học sinh. Cấu tạo chương trình phải phù hợp logíc phát triển của khoa học Tiếng Việt, đồng thời hệ thống các tri thức của môn học, trật tự sắp xếp các tài liệu theo từng lớp học phải phù hợp lôgíc phát triển tâm lí và khả năng nhận thức của HS. Nguyên tắc khoa học yêu cầu về tính hệ thống đảm bảo cho sự kế thừa và phát triển tri thức, kĩ năng kĩ xảo đối với tri thức cũ như là yếu tố của một hệ thống trọn vẹn và thống nhất.
 2.Nguyên tắc sư phạm
 Nguyên tắc sư phạm đòi hỏi chương trình môn học phải thống nhất với mục tiêu giáo dục chung. Chương trình Tiếng Việt, các ngữ liệu, nội dung văn bản lựa chọn phải hướng tới giáo dục và hình thành nhân cách cho HS.
 3.Nguyên tắc thực tiễn
 Nguyên tắc này đòi hỏi việc xây dựng chương trình Tiếng Việt phải tính toán đầy đủ điều kiện dạy học cụ thể ở từng địa phương. Chương trình phải xác định được chuẩn tối thiểu của môn học, phải có sự mềm dẻo nhất định để có khả năng thực thi ở các vùng miền khác nhau.
 4. Nguyên tắc biên soạn và tiêu chuẩn của sách giáo khoa Tiếng Việt
 4.1. Nguyên tắc giao tiếp
 Để thực hiện mục tiêu: “Hình thành và phát triển ở HS các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt (nghe, đọc, nói, viết) để học tập, giao tiếp trong môi trường hoạt động lứa tuổi”, SGK Tiếng Việt lấy nguyên tắc dạy giao tiếp làm định hướng cơ bản.Về phương pháp dạy học, các kĩ năng nói trên được hình thành thông qua nhiều bài tập mang tính tình huống, phù hợp với những tình huống giao tiếp tự nhiên.
 4.1. Nguyên tắc tích hợp
 Tích hợp là tổng hợp trong một đơn vị học, thậm chí một tiết hay một bài tập nhiều mảng kiến thức và kĩ năng liên quan đến nhau nhằm tăng cường hiệu quả giáo dục và tiết kiệm thời gian học tập cho người học. 
 Dựa vào mục tiêu của môn Tiếng Việt ở tiểu học, sách giáo khoa đã tích hợp kiến thức Tiếng Việt với các mảng kiến thức về văn học, thiên nhiên, con người và xã hội thông qua các chủ điểm học tập theo nguyên tắc đồng quy. Bằng việc tổ chức hệ thống bài đọc, bài học theo chủ điểm, sách giáo khoa dắt dẫn học sinh đi dần vào các lĩnh vực của đời sống, qua đó tăng cường vốn từ, vốn diễn đạt của các em về nhà trường, gia đình và xã hội, đồng thời mở rộng cánh cửa cho các em bước vào thế giới xung quanh và soi vào thế giới tâm hồn của chính mình.
 Tính tích hợp của bộ sách còn thể hiện ở sự gắn bó giữa các bài học trong phân môn học, sự gắn bó các phân môn trong môn học.
 4.1.Nguyên tắc tích cực hoá hoạt động của học sinh
 Theo nguyên tắc tích hoá hoạt động của HS, SGK không trình bày kiến thức như một kết quả có sẵn mà xây dựng hệ thống câu hỏi, bài tập hướng dẫn HS học sinh thực hiện các hoạt động nhằm chiếm lĩnh kiến thức và phát triển các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt; còn SGV có nhiệm vụ hướng dẫn thầy cô giáo cách thức cụ thể để tổ chức hoạt động học cho HS.
2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu.
2.1. Thuận lợi.
 Xã Thạch Quảng mặc dù là một xã miền núi, địa phương còn gặp nhiều khó khăn về kinh tế nhưng công tác giáo dục cũng như việc dạy và học của các nhà trường luôn được quan tâm và chú trọng. Trường Tiểu học Thạch Quảng đã có nhiều thay đổi về cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho việc dạy và học đầy đủ hơn.
 Về phía nhà trường, Ban giám hiệu luôn quan tâm, chỉ đạo sát sao đến mọi hoạt động, đặc biệt là chất lượng dạy và học. Đội ngũ giáo viên nhiệt tình, tâm huyết, yêu nghề, mến trẻ. Các em học sinh ngoan ngoãn, lễ phép. Bên cạnh đó, nhà trường luôn có mối liên hệ chặt chẽ với phụ huynh và các tổ chức xã hội, đảm bảo công tác xã hội hoá giáo dục tốt. Các bậc phụ huynh quan tâm, ủng hộ và tạo điều kiện thuận lợi cho con em học tập. 
 Các hoạt động giáo dục NGLL được tổ chức thường xuyên. Qua đó học sinh được tham gia, rèn luyện, được thể hiện bản thân, trau dồi kiến thức, rèn luyện kĩ năng sống, kĩ năng giao tiếp (kĩ năng nói và viết),. 
 Tất cả những điều kiện trên là cơ sở giúp học sinh có được các năng lực và phẩm chất cần đạt của học sinh Tiểu học, góp phần nâng cao chất lượng học tập các môn học, trong đó có môn Tiếng Việt. 
 2.2. Khó khăn
 Bên cạnh những thuận lợi nêu trên, vẫn còn một số hạn chế sau:
 Mặc dù kinh tế địa phương có phát triển nhưng nhìn chung đời sống nhân dân vẫn còn nhiều khó khăn. Cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho hoạt động dạy và học của nhà trường còn thiếu nhiều. Nhiều em học sinh chưa được quan tâm đúng mức do bố mẹ đi làm ăn xa, các em phải ở nhà với ông bà, nên việc chăm lo đến việc học tập còn nhiều hạn chế.
 Trên thực tế hiện nay do điều kiện dân trí thấp, toàn xã có tới trên 70% dân số là người dân tộc, các em học sinh còn ảnh hưởng của phương ngữ rất nhiều, ảnh hưởng của phong tục tập quán của dân tộc, lối sống của gia đình. Do đó ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng dạy và học. Môn Tiếng Việt cũng gặp nhiều khó khăn. Nhiều em nói và viết câu chưa tốt, chưa đúng, đủ hoặc chưa hay. Để daỵ cho học sinh có kĩ năng nói và viết câu đúng là việc làm không dễ chút nào. Các yếu tố đó biểu hiện rõ trong cách diễn đạt, cách dùng từ của các em. Có nhiều em học sinh dân tộc do vốn từ ngữ phổ thông hạn chế nên trong làm văn các em có sử dụng cả tiếng dân tộc vào văn bản để diễn đạt suy nghĩ của mình, vì vậy làm cho câu văn càng trở nên lủng củng, khó hiểu.
 Trong môn Tiếng Việt ở lớp 1,2,3 các em biết đặt những câu đơn giản chỉ gồm 2 thành phần chính là chủ ngữ và vị ngữ. Lên lớp 4 các em được bổ sung thêm những kiến thức về một số thành phần phụ như trạng ngữ. Đây là những kiến thức mang tính trừu tượng hơn, học sinh bắt đầu gặp khó khăn trong việc đặt câu. Đến lớp 5, ngoài việc ôn lại các kiến thức cũ ở lớp dưới các em tiếp tục được học thêm các nội dung mới như: từ đồng âm, từ đồng nghĩa, từ trái nghĩa, quan hệ từ.rất nhiều em đã lúng túng trong việc dùng từ đặt câu, viết văn.
 Đối với trường Tiểu học Thạch Quảng, chất lượng môn Tiếng Việt trong những năm gần đây mặc dù đã được nâng cao hơn nhưng nhìn chung vẫn còn thấp so với khu vực cũng như trong toàn huyện. Dưới đây là bảng tổng hợp kết quả môn Tiếng Việt lớp 5 trường Tiểu học Thạch Quảng trong 2 năm gần đây (kết quả thi cuối năm học).
Năm học
Số HS 
ĐỌC
(Số điểm/em)
VIẾT
(Số điểm/em)
TBC
(Số điểm/em)
9,10
7, 8
5, 6
<5
9,10
7, 8
5, 6
<5
9,10
7,8
5,6
<5
2013-2014
72
17
40
15
0
3
17
45
7
8
25
39
0
2014-2015
78
20
38
20
0
5
23
44
6
10
28
40
0
 Bên cạnh việc tìm hiểu chất lượng môn Tiếng Việt lớp 5 của nhà trường các năm trước, tôi cũng đã tiến hành khảo sát chất lượng ban đầu của học sinh lớp 5 do tôi phụ trách. Tôi đã thu được kết quả như sau:
Năm học
Số HS 
ĐỌC
(Số điểm/em)
VIẾT
(Số điểm/em)
TBC
(Số điểm/em)
9,10
7, 8
5, 6
<5
9,10
7, 8
5, 6
<5
9,10
7,8
5,6
<5
2015-2016
26
9
5
12
0
3
4
19
0
4
9
13
0
 Nhìn vào 2 bảng tổng hợp trên có thể nhận thấy, điểm môn Tiếng Việt của học sinh có tăng dần theo các năm học. Tuy nhiên, có sự chênh lệch ró nét giữa điểm đọc và điểm viết. Điểm TBC của các em bị kéo xuống do điểm viết thấp. Tôi tìm hiểu và được biết điểm viết của các em thấp là do điểm phần Luyện từ và câu và phần Tập làm văn thấp. Phần Luyện từ và câu, các em đặt câu chưa đúng ở nhiều phương diện khác nhau. Phần Tập làm văn, các em đã biết cách trình bày đúng bố cục của bài nhưng các em thường sai ở chỗ sử dụng từ ngữ chưa chính xác, chấm câu chưa đúng, cách diễn đạt còn lủng củng, chưa thoát ý. Điều đáng lo hơn cả là các em đã đọc đi đọc lại bài làm của mình nhưng cũng không phát hiện được câu sai. Vì vậy các em không thể sửa câu lại cho đúng. 
 Đối với học sinh lớp 5 do tôi phụ trách, ngay từ đầu năm học tôi đã phân nhóm học sinh theo các nhóm lỗi. Cụ thể:
Biểu hiện lỗi
Tên học sinh
Lỗi dùng từ
Minh, Quách Dương, Ngần, Chiến, Kim Anh, Thuỳ Linh, Duy Dương, Nghĩa, Như Trang, Thiện, Thuỳ, Đức, Dũng, Tuấn Anh, Thảo Uyên.
Lỗi về logic
Minh, Ngần, Kim Anh, Quách Dương, Thuỳ Linh, Mai Linh.
Lỗi về phong cách
Minh, Như Trang, 
Lỗi về câu
Câu thiếu CN
Quách Dương, Duy Dương, Bảo Ngọc, Đứ

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_kinh_nghiem_trong_viec_giup_hoc_sinh_lop_5_sua_l.doc