SKKN Một số kinh nghiệm sử dụng tính tích hợp có hiệu quả khi dạy bài 3B (tiết 2) – chương trình vnen

SKKN Một số kinh nghiệm sử dụng tính tích hợp có hiệu quả khi dạy bài 3B (tiết 2) – chương trình vnen

Tập làm văn là một phân môn quan trọng trong chương trình Tiếng Việt ở bậc tiểu học nói chung và ở lớp 5 nói riêng. Dạy tốt phân môn này không những rèn cả 4 kĩ năng nghe, nói, đọc, viết cho học sinh (HS) mà còn giúp học sinh có được kĩ năng làm văn, bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc thẩm mĩ, biết cảm nhận yêu quý cái đẹp, yêu thiên nhiên đất nước, con người, hình thành nhân cách của học sinh.

Như vậy ta có thể khẳng định: Tập làm văn là một môn học rất quan trọng, đòi hỏi học sinh phải vận dụng toàn bộ kiến thức, kinh nghiệm, kĩ năng Tiếng Việt cũng như tư tưởng tình cảm của mình vào bài làm. Chính vì vậy Tập làm văn là một thước đo năng lực của học sinh.

Để giúp học sinh học tốt môn học không phải là đơn giản, và đặc biệt là văn tả cảnh có thể nói là một thể loại văn khó đối với học sinh. Trong thực tế giảng dạy tôi thường gặp những bài văn tả cảnh ý nghèo nàn, lời lẽ khô khan, cứng nhắc thiếu sự lôi cuốn, . nhiều em còn sao chép văn mẫu nội dung không phù hợp với cảnh, thiếu tự nhiên, thiếu sáng tạo. Giờ học tập làm văn trở nên khô khan nặng nề, học sinh thụ động. Với chương trình VNEN nói chung và Tiếng Việt 5 của chương trình VNEN nói riêng khi học theo mô hình này tức là các em được học trong môi trường tương tác sẽ giúp các em chủ động tự tin trong học tập. Tuy nhiên, với dạy học phân môn tập làm văn thì chưa thực sự đạt được điều đó, mỗi khi làm văn học sinh thường bí từ, ngại viết văn, thường lôi văn mẫu ra để chép. Rõ ràng các em chưa phát huy hết khả năng và tính chủ động của mình trong học tập, khả năng diễn đạt bằng ngôn ngữ của các em còn nhiều hạn chế.

 

doc 20 trang thuychi01 6762
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số kinh nghiệm sử dụng tính tích hợp có hiệu quả khi dạy bài 3B (tiết 2) – chương trình vnen", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN YÊN ĐỊNH 
TRƯỜNG TIỂU HỌC ĐỊNH LIÊN 
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ KINH NGHIỆM SỬ DỤNG TÍNH TÍCH HỢP CÓ HIỆU QUẢ KHI DẠY BÀI 3B (TIẾT 2) – CHƯƠNG TRÌNH VNEN
 Người thực hiện: Nguyễn Thị Tâm
 Chức vụ: Giáo viên
	 Đơn vị: Trường Tiểu học Định Liên
 SKKN thuộc môn: Tiếng Việt
YÊN ĐỊNH NĂM 2018
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
MỤC LỤC
Mục
Nội dung
Trang
1
Mở đầu
3
1.1
Lí do chọn đề tài
3
1.2
Mục đích nghiên cứu
3
1.3
Đối tượng nghiên cứu
4
1.4
Phương pháp nghiên cứu
4
1.5
Những điểm mới của SKKN
4
2
Nội dung
5
2.1
Cơ sở lí luận của SKKN
5
2.2
Thực trạng dạy và học trước khi áp dụng SKKN 
6
2.3
Các giải pháp thực hiện
7
2.4
Hiệu quả của SKKN
14
3
Kết luận, kiến nghị
16
3.1
Kết luận
16
3.2
Kiến nghị
16
Tài liệu tham khảo
18
1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
Tập làm văn là một phân môn quan trọng trong chương trình Tiếng Việt ở bậc tiểu học nói chung và ở lớp 5 nói riêng. Dạy tốt phân môn này không những rèn cả 4 kĩ năng nghe, nói, đọc, viết cho học sinh (HS) mà còn giúp học sinh có được kĩ năng làm văn, bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc thẩm mĩ, biết cảm nhận yêu quý cái đẹp, yêu thiên nhiên đất nước, con người, hình thành nhân cách của học sinh.
Như vậy ta có thể khẳng định: Tập làm văn là một môn học rất quan trọng, đòi hỏi học sinh phải vận dụng toàn bộ kiến thức, kinh nghiệm, kĩ năng Tiếng Việt cũng như tư tưởng tình cảm của mình vào bài làm. Chính vì vậy Tập làm văn là một thước đo năng lực của học sinh.
Để giúp học sinh học tốt môn học không phải là đơn giản, và đặc biệt là văn tả cảnh có thể nói là một thể loại văn khó đối với học sinh. Trong thực tế giảng dạy tôi thường gặp những bài văn tả cảnh ý nghèo nàn, lời lẽ khô khan, cứng nhắc thiếu sự lôi cuốn, ... nhiều em còn sao chép văn mẫu nội dung không phù hợp với cảnh, thiếu tự nhiên, thiếu sáng tạo. Giờ học tập làm văn trở nên khô khan nặng nề, học sinh thụ động. Với chương trình VNEN nói chung và Tiếng Việt 5 của chương trình VNEN nói riêng khi học theo mô hình này tức là các em được học trong môi trường tương tác sẽ giúp các em chủ động tự tin trong học tập. Tuy nhiên, với dạy học phân môn tập làm văn thì chưa thực sự đạt được điều đó, mỗi khi làm văn học sinh thường bí từ, ngại viết văn, thường lôi văn mẫu ra để chép. Rõ ràng các em chưa phát huy hết khả năng và tính chủ động của mình trong học tập, khả năng diễn đạt bằng ngôn ngữ của các em còn nhiều hạn chế.
Vậy làm thế nào để nâng chất lượng hiệu quả của các tiết dạy học Tập làm văn? Nó là một câu hỏi lớn đặt ra cho nhiều thầy cô giáo phải băn khoăn, trăn trở: “Dạy như thế nào?” để thực hiện mục tiêu bài học, môn học. Vì thế mà ngay từ đầu năm học tôi rất quan tâm đến việc tìm hiểu nội dung chương trình và phương pháp dạy học sao cho phù hợp với khả năng sư phạm của bản thân và nhất là phù hợp với đối tượng học sinh lớp mình phụ trách trong đó có môn Tiếng Việt đặc biệt là phân môn Tập làm văn, nhằm giúp cho mỗi giờ học Tập làm văn không còn trở nên nặng nề đối với giáo viên (GV) và học sinh và góp phần nâng cao hiệu quả dạy học trong nhà trường. Chính vì những lí do trên tôi đã chọn nghiên cứu và đưa ra sáng kiến kinh nghiệm (SKKN): Một số biện pháp sử dụng tính tích hợp có hiệu quả khi dạy bài 3B (tiết 2) - Chương trình VNEN.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Tôi nghiên cứu vấn đề đưa ra trong SKKN này nhằm:
- Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả dạy học bài luyện tập tả cảnh ở bài 3B (tiết 2), góp phân nâng cao chất lượng môn Tiếng Việt lớp 5 chương trình VNEN. 
- Giúp học sinh rèn luyện kĩ năng viết, sử dụng tích hợp kiến thức các môn học vào để viết văn. Từ đó giúp học sinh viết văn một cách chân thực, giàu hình ảnh, giàu cảm xúc làm cho bài viết trở nên sinh động, hấp dẫn.
- Giúp học sinh yêu thích môn Tiếng Việt, thích làm văn, tích cực chủ động trong học tập không lệ thuộc vào văn mẫu.
1.3.  Đối tượng nghiên cứu
	Thực trạng dạy học văn tả cảnh lớp 5 chương trình VNEN.
Nghiên cứu nội dung và phương pháp dạy bài 3B (tiết 2) Tiếng Việt 5 (sách thử nghiệm) chương trình VNEN.
Nghiên cứu tính tích hợp trong dạy học Tiếng Việt 5 ở lớp 5B (lớp thực nghiệm) và lớp 5C (lớp đối chứng), Trường Tiểu học Định Liên - Yên Định - Thanh Hóa.
 1.4. Phương pháp nghiên cứu
 Để thực hiện SKKN này chủ yếu tôi đã sử dụng một số phương pháp sau:
a) Nhóm phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết
- Nghiên cứu các văn kiện, các công văn, văn bản hướng dẫn giảng dạy môn Tiếng Việt, sách giáo khoa và tài liệu tham khảo.
 b)  Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp khảo sát điều tra thực tế.
- Phương pháp thống kê.
- Phương pháp phân tích số liệu.
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm.
1.5. Những điểm mới của SKKN
- Năm học 2013-2014 tôi đã nghiên cứu và ứng dụng SKKN này vào dạy bài Luyện tập tả cảnh (tiết 5) - Tập làm văn 5 của chương trình hiện hành tại lớp 5A Trường TH Yên Ninh.
- Năm học 2017 - 2018 tôi tiếp tục nghiên cứu và ứng dụng SKKN này vào dạy bài 3B (tiết 2) – Tiếng Việt 5 Chương trình VNEN tại lớp 5B Trường Tiểu học Định Liên. Trong lần ứng dụng này tôi mạnh dạn đề xuất một số giải pháp mới (chủ yếu là về hình thức dạy học) nhằm phù hợp với chương trình của sách giáo khoa (SGK) và đối tượng học sinh lớp mình phụ trách và phù hợp với mô hình trường học mới Việt Nam.
2. Nội dung
2.1. Cơ sở lí luận của SKKN 
	a. Tìm hiểu về văn miêu tả trong trường Tiểu học
	Ngay từ lớp 2, khi tập quan sát và trả lời câu hỏi, các em đã bắt đầu làm quen với văn miêu tả. Việc cho học sinh tiếp cận với văn miêu tả sớm như vậy có thể nói rằng các nhà nghiên cứu đã dựa vào đặc điểm tâm sinh lí của trẻ (ưa quan sát, thích nhận xét, sự nhận xét thiên về cảm tính thích tìm hiểu,...) và qua việc học văn miêu tả góp phần nuôi dưỡng tình yêu của các em với thiên nhiên, với thế giới xung quanh, góp phần giáo dục tình cảm thẩm mĩ, ngôn ngữ ở trẻ, ... Học văn miêu tả các em có thêm điều kiện để tạo nên sự thống nhất giữa tư duy và tình cảm, ngôn ngữ và cuộc sống, con người với thiên nhiên, với xã hội để gợi ra những tình cảm ý nghĩ cao thượng, đẹp đẽ ... cho học sinh tiếp xúc với thiên nhiên là con đường hiệu quả nhất để giáo dục học sinh phát triển ngôn ngữ.
	b. Yêu cầu chung đối với dạy - học văn miêu tả
	- Bài văn miêu tả phải chân thực: Miêu tả là dùng lời văn có hình ảnh, làm hiện ra (vẽ ra) trước mắt người đọc (nghe) bức tranh cụ thể về một đối tượng đã làm cho ta chú ý và cảm xúc sâu sắc. Do vậy, bài văn miêu tả trước hết cần có tính chân thực, đúng bản chất đối tượng. Dạy cho học sinh tiểu học miêu tả một đối tượng trước hết phải đi từ yêu cầu là tả đúng thực tế, nghĩa là thông qua việc quan sát bằng nhiều giác quan, chon được từ ngữ thích hợp, diễn tả đúng được đối tượng, không làm người đọc (nghe) hiểu sai không hình dung được nó. Trước khi tiến hành một bài văn miêu tả, học sinh cần được giáo viên giao nhiệm vụ quan sát và hướng dẫn các em cách quan sát, miêu tả theo trình tự hợp lí (trình tự thời gian, khômg gian hoặc trình tự tâm lí).
	- Bài văn miêu tả phải có trọng tâm và chọn lọc được những nét tiêu biểu.
	- Bài văn miêu tả phải bộc lộ được cảm xúc chân thành của người viết.
	- Bài văn miêu tả phải diễn đạt bằng lời văn sinh động, giàu hình ảnh.
	c. Tìm hiểu về tính tích hợp
	- Tích hợp là quan điểm mới trong chương trình giáo dục tiểu học nhằm giải quyết quyết mâu thuẫn giữa lượng kiến thức ngày càng tăng do sự bùng nổ thông tin với thời gian học tập và sức lực học tập có hạn của học sinh. Làm cho người học nhận biết và ý thức được mối quan hệ giữa nội dung học tập ở các môn học khác nhau và ở ngay trong một môn học đó là mối quan hệ giữa các tri thức của các môn khoa học tự nhiên và khoa học xã hội; giữa tri thức với kĩ năng, với năng lực cải tạo cuộc sống của người học ngay trong một môn học cụ thể.
	d. Sách Hướng dẫn học Tiếng Việt 5 (sách thử nghiệm) xây dựng theo quan điểm tích hợp
	Các nhiệm vụ cung cấp kiến thức và rèn kĩ năng gắn bó chặt chẽ với nhau. Sách được xây dựng theo hai trục: Trục chủ điểm và trục kĩ năng, trong đó trục chủ điểm làm khung cho cả cuốn sách, còn kĩ năng được lấy làm khung cho từng tuần học, từng đơn vị học.
	Hệ văn bản đưa vào chương trình là các dạng văn bản thường gặp trong cuộc sống như văn bản khoa học, văn bản thông tin truyền thông, văn bản hành chính, pháp luật,... Hệ văn bản này cung cấp cho học sinh những tri thức phong phú về khoa học, về các thông tin thuộc những vấn đề bức xúc của thời đại, làm giàu vốn hiểu biết, vốn sống cho học sinh. Hệ văn bản này cũng góp phần làm khuôn mẫu, làm ngữ liệu giúp các em học tốt, làm tốt các bài Tập làm văn đồng dạng.
	e. Dạy Tập làm văn là một quy trình tích hợp
	- Phần Tập làm văn lớp 5 bao gồm nhiều thể loại: văn miêu tả (tả cảnh, tả người) ngoài ra còn ôn tập các kiểu bài miêu tả đồ vật, con vật, cây cối ở lớp 4, văn kể chuyện, viết thư ở các lớp dưới; cùng với việc xen kẽ các thể loại: làm báo cáo thống kê, thuyết trình tranh luận, làm đơn, làm biên bản cuộc họp, biên bản sự việc,...
	- Kiến thức kĩ năng viết văn không chỉ hình thành trong phần Tập làm văn mà còn được hình thành, rèn luyện trong các phân môn của Tiếng Việt như: Tập đọc, Chính tả, Kể chuyện, Luyện từ và câu hay trong các bài thuộc các môn học khác như: Khoa học, Lịch sử và Địa lí, Đạo đức,... ngoài ra học sinh còn phải vận dụng những kiến thức từ thực tế cuộc sống trong gia đình, làng xóm, quê hương, trường học, qua sách báo, các kênh thông tin đại chúng, các em còn phải phát huy trí tưởng tượng khái quát, óc sáng tạo của mình.
	Thực hiện quan điểm tích hợp trong dạy học Tập làm văn theo hướng trên sẽ tạo cho giáo viên và học sinh cơ hội tốt để dạy học tốt phân môn Tập làm văn nói riêng và môn Tiếng Việt nói chung.
2.2. Thực trạng dạy và học trước khi áp dụng SKKN
	a. Đối với học sinh
Trong quá trình dạy học Tập làm văn tôi thấy học sinh thường gặp một số khó khăn như: Vốn ngôn ngữ, vốn hiểu biết về cảnh vật thiên nhiên của các em còn hạn chế. Khi học các phân môn của Tiếng Việt cũng như các môn học khác học sinh chưa có sự liên hệ vận dụng các kiến thức đó để hỗ trợ cho quá trình quan sát và làm văn tả cảnh. Để các em hoàn thành bài tập theo đúng mục tiêu đề ra cũng là tương đối khó. Nhiều em chưa biết phân tích đề bài và lập dàn ý, trình bày đoạn văn còn lúng túng chưa biết cách diễn đạt, khi viết câu văn còn rườm rà chưa xếp ý cho đúng. Dẫn đến ngại làm văn hoặc có làm thì bài văn khô khan ít có cảm xúc, hoặc sao chép văn mẫu.
b. Đối với giáo viên
	Qua phỏng vấn một số đồng nghiệp tôi được biết khi dạy văn tả cảnh cho học sinh lớp 5, đa số giáo viên cho rằng học sinh làm bài kém hơn các thể loại văn khác, do vốn từ ngữ cũng như cách diễn đạt của các em còn khô khan, thiếu sáng tạo. Để đối phó với tình trạng học sinh làm bài kém, để đảm bảo chất lượng nhiều thầy cô giáo cho học sinh học thuộc một số bài văn mẫu khi gặp đề bài tương tự cứ thế mà chép. Vì vậy dẫn đến tình trạng cả thầy và trò đều lệ thuộc vào văn mẫu. Nguyên nhân là do giáo viên chưa nhiệt tình trong công tác đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích hợp, chưa quan tâm lưu ý hướng dẫn học sinh tích hợp các nội dung, kiến thức, kĩ năng các phân môn của môn Tiếng Việt cũng như các môn học khác. Tổ chức các hình thức dạy và học chưa phong phú và phù hợp với từng đối tượng học sinh. Do vậy, chưa lôi cuốn được sự tập trung chú ý nghe giảng của học sinh. Từ đó dẫn đến tình trạng dạy học chưa trọng tâm, kiến thức còn dàn trải.
	c. Đối với gia đình
Do địa hình dân cư là vùng nông thôn điều kiện kinh tế còn gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn, bố mẹ thường đi làm ăn xa hoặc đi làm ở công ti cả ngày do đó việc học hành của các em chưa được quan tâm nhiều. Vì thế, nó ảnh hưởng rất lớn đến kết quả học tập của các em, ảnh hưởng đến trình độ tư duy, nhận thức và vốn sống, khả năng giao tiếp của các em. Điều đó ảnh hưởng đến xúc cảm, tình cảm của các em, ảnh hưởng đến chất lượng học tập phân môn Tập làm văn nói chung và văn tả cảnh nói riêng.
* Kết quả, hiệu quả của thực trạng trên
Kết quả khảo sát chất lượng văn miêu tả đầu năm học 2017 - 2018 Lớp 5B (lớp thực nghiệm) và lớp 5C (lớp đối chứng) Trường Tiểu học Định Liên như sau:
Lớp
Sĩ số
Điểm 9-10
Điểm 7-8
Điểm 5-6
Điểm dưới 5
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
5B
27
0
0
2
7.4
20
74.1
5
18.5
5C
28
2
7.1
6
21.4
17
60.8
3
10.7
	Thực trạng về dạy học văn miêu tả như đã nêu trên đã ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng dạy học phần Tập làm văn nói riêng và môn Tiếng Việt nói chung của nhà trường. Vì vậy ngay từ đầu năm học tôi đã mạnh dạn đổi mới phương pháp dạy học Tập làm văn nhằm khắc phục tình trạng như đã nêu ở trên. 
2.3. Các giải pháp thực hiện
2.3.1. Tìm hiểu nội dung bài 3B (tiết 2) - Hướng dẫn học Tiếng Việt 5 (Sách thử nghiệm) - Tập 1A
* Bài 1: Đọc bài văn sau và trả lời câu hỏi
Mưa rào
	Một buổi có những đám mây bay về. Những đám mây lớn nặng và đặc xịt lổm ngổm đầy trời. Mây tản ra từng nắm nhỏ rồi san đều trên một nền đen xám xịt. Gió nam thổi giật mãi. Gió bỗng đổi mát lạnh, nhuốm hơi nước. Từ phía nam bỗng nổi lên một hồi khua động dạt dào. Mưa đã xuống bên kia sông: gió càng thêm mạnh, mặc sức điên đảo trên cành cây.
Mưa đến rồi, lẹt đẹt... lẹt đẹt... mưa giáo đầu. Những giọt nước lăn xuống mái phên nứa: mưa thực rồi, mưa ù xuống khiến cho mọi người không tưởng được là mưa lại kéo đến chóng thế . Lúc nãy là mấy giọt lách tách, bây giờ bao nhiêu nước tuôn rào rào. Nước xiên xuống, lao xuống, lao vào trong bụi cây. Lá đào, lá na, lá sói vẫy tay run rẩy. Con gà sống ướt lướt thướt ngật ngưỡng tìm chỗ trú. Mưa xuống sầm sập, giọt ngã, giọt bay, bụi nước toả trắng xoá. Trong nhà bỗng tối sầm, một mùi nồng ngai ngái, cái mùi xa lạ, man mác của những trân mưa mới đầu mùa. Mưa rào rào trên sân gạch. Mưa đồm độp trên phên nứa, đập bùng bùng vào lòng lá chuối. Tiếng giọt tranh đổ ồ ồ.
Nước chảy đỏ ngòm bốn bề sân, cuồn cuộn dồn vào các rãnh cống đổ xuống ao chum. Mưa xối nước được một lúc thì bỗng trong vòm trời tối thẳm vang lên một hồi ì ầm. Tiếng sấm, tiếng sấm của mưa mới đầu mùa..
Mưa đã ngớt. Trời rạng dần. Mấy con chim chào mào từ hốc cây nào đó bay ra hót râm ran. Mưa tạnh, phía đông một mảng trời trong vắt. Mặt trời ló ra, chói lọi trên những vòm lá bưởi lấp lánh.
 Theo Tô Hoài
a) Những dấu hiệu nào báo cơn mưa sắp đến?
b) Tìm những từ ngữ tả tiếng mưa từ lúc bắt đầu đến lúc kết thúc mưa.
c) Tìm những từ ngữ tả cây cối, con vật, bầu trời trong và sau trận mưa
d) Tác giả đã quan sát cơn mưa bằng những giác quan nào?
* Bài 2: Lập dàn ý cho bài văn miêu tả một cơn mưa.
	Gợi ý:
	a) Mở bài
	Giới thiệu: Đó là cơn mưa vào buổi sáng hay trưa, chiều, tối? Vào mùa nào (xuân, hạ, thu, đông / mùa mưa, mùa khô)? Diễn ra ở đâu? ...
	b) Thân bài
	- Lúc sắp mưa, cảnh vật xung quanh em (bầu trời, nắng, gió, chim chóc,...) có những dấu hiệu gì khác thường?
	- Lúc cơn mưa bắt đầu diễn ra, những giọt nước rơi xuống ra sao? Không khí lúc đó thế nào?...
	- Trong lúc mưa, cảnh vật (cây cối, đường sá, nhà cửa,...), âm thanh (tiếng mưa rơi, gió thổi, nước chảy) có những nét gì nổi bật?
	- Cơn mưa kết thúc thế nào? Cảnh vật và con người sau cơn mưa có những biểu hiện gì thay đổi so với trước cơn mưa?
	c) Kết bài
	Cảm nghĩ: Cơn mưa đem lại cho em cảm giác thế nào (hoặc gợi cho em những điều gì về cuộc sống xung quanh) ?
2.3.2. Một số biện pháp sử dụng tính tích hợp vào bài 3B (tiết 2) – Hướng dẫn học Tiếng Việt 5 (Sách thử nghiệm) – Tập 1A
a. Sự kết hợp bài học với các nội dung trong môn Tiếng Việt
* Đối với nội dung Tập đọc
	Dựa vào nội dung bài tập 1 được trình bày trong bài học, ta có thể thấy ngay được là trước khi học sinh lập dàn ý cho một đề bài Tập làm văn tả cảnh cụ thể thì có một bài văn (hoặc đoạn văn) có thể hiểu là một mẫu văn bản tương ứng với thể loại văn mà học sinh được học. Như vậy, để khai thác bài văn này thì có thể kèm theo một hệ thống câu hỏi gợi ý tìm hiểu, yêu cầu học sinh phải huy động các kĩ năng của nội dung Tập đọc như: đọc thành tiếng, đọc thầm, đọc lướt, đọc hiểu,... để trả lời các câu hỏi gợi ý. Từ đó giúp các em dễ dàng nhận biết được cách viết một bài văn thuộc thể loại văn tả cảnh nói chung và tả cơn mưa nói riêng đặc biệt là cách trình bày, diễn đạt, sử dụng từ ngữ, hình ảnh,...
	Chẳng hạn để học sinh thực hiện theo đúng yêu cầu của bài tập bằng cách trả lời các câu hỏi thì giáo viên yêu cầu học sinh thực hiện như sau:
- HS thảo luận nhóm lớn: cá nhân đọc thành tiếng, cả nhóm đọc thầm toàn bài “Cơn mưa” của nhà văn Tô Hoài trong SGK.
- HS đọc thầm, đọc lướt suy nghĩ trao đổi thảo luận để trả lời các câu hỏi a, b, c, d có trong bài đọc.
- Cách tiến hành ở phần này gần giống như cách khai thác tìm hiểu bài ở nội dung Tập đọc. Vì thế, để học sinh làm được thì trước hết các em phải có kĩ năng đọc thành tiếng, đọc thầm, đọc hiểu, đọc diễm cảm tốt ở nội dung Tập đọc thì từ đó mới có thể giúp cho HS có thói quen tìm hiểu văn bản trong nội dung Tập làm văn, giúp học sinh có thêm ngữ liệu, có hiểu biết về một bài văn miêu tả chân thực, sinh động và hấp dẫn. Nếu học sinh đọc yếu, kĩ năng đọc hiểu văn bản kém thì dẫn đến học sinh không thể hiểu và cảm nhận một cách đầy đủ, rõ ràng một bài văn đúng và hay được. Từ đó dẫn đến các em sẽ khó khăn trong việc dịnh hướng nói, viết cho bài văn của mình theo đúng yêu cầu đề bài.
	Vì vậy mà ta có thể nói rằng việc dạy tốt các kĩ năng trong nội dung Tập đọc góp phần quan trọng để học sinh có thể học tốt phân môn Tập làm văn.
* Đối với nội dung Luyện từ và câu
+ Thông qua các câu hỏi có thể giúp học sinh thảo luận tìm được những từ ngữ, hình ảnh miêu tả có trong bài văn:
 	- Mây: đặc xịt, lổm ngổm đầy trời; tản ra từng nắm nhỏ rồi san đều trên một nền đen xám xịt.
	- Gió: thổi giật, đổi mát lạnh, nhuốm hơi nước; khi mưa xuống, gió càng mạnh, mặc sức điên đảo trên cành cây.
	- Tiếng mưa: lẹt đẹt ... lẹt đẹt, lách tách; mưa ù xuống, rào rào, sầm sập, đồm độp, đập bùng bùng vào lòng lá chuối; giọt tranh đổ ồ ồ.
	- Hạt mưa: Những giọt nước lăn xuống mái phên nứa rồi tuôn rào rào; mưa xiên xuống, lao xuống, lao vào bụi cây; hạt mưa giọt ngã, giọt bay, toả bụi nước trắng xoá.
	...
	Những từ ngữ, hình ảnh miêu tả trên được tác giả sử dụng một loạt các từ láy mang tính tượng hình, tượng thanh; từ đơn, từ ghép, từ đồng nghĩa, danh từ, động từ, tính từ, ... gợi tả mây, gió, tiếng mưa, hạt mưa,...
+ Những biện pháp nghệ thuật giúp cho bài văn sinh động hấp dẫn như:
	Tác giả sử dụng biện pháp nhân hoá khi miêu tả cảnh vật trong mưa: “Lá đào, lá na, lá sói vẫy tai run rẩy”
+ Những từ ngữ, hình ảnh; những biện pháp nghệ thuật như: so sánh, nhân hoá, liên tưởng, điệp ngữ,... Học sinh đã được học ở phân môn Luyện từ và câu. Vì vậy, học sinh cũng cần phải học tốt và nắm vững về đặc điểm, dấu hiệu nhận biết, cách sử dụng chúng khi học ở phân môn này. Có như vậy thì khi học nội dung Tập làm văn giáo viên chỉ việc dùng câu hỏi gợi mở giúp học sinh nhớ lại và nhận biết ngay được từ đó có thể giúp cho dạy học Tập làm văn đạt hiệu quả tốt.
* Đối với nội dung Tập làm văn
	Như chúng ta đã biết, thể loại văn tả cảnh là tổng hợp nghiều thể loại văn khác học sinh đã được học như: tả đồ vật, con vật, cây cối,... chính vì thế mà có thể nói rằng văn tả cảnh là thể loại văn đã tích hợp gồm nhiều loại văn học sinh đã được học trước đó. Ngay từ lớp hai học sinh đã được tìm các từ ngữ, hình ảnh miêu tả, viết câu văn đoạn văn miêu tả. Ở lớp 3 học sinh được làm quen với cách viết một đoạn văn tương đối hoàn chỉnh theo các chủ đề: con người, đò vật, con vật, cây cối,... gần gũi xung quanh các em. Ở lớp 4, học sinh được học và có kĩ năng viết một bài văn hoàn chỉnh (đủ ba phần: mở bài, thân bài, kết bài) về thể loại kể chuyện, tả đồ vật, con vật, cây cối,... Lên lớp 5, học sinh bắt đầu được học thể loại văn tả cảnh. Bài luyện tập tả cảnh này là tiết thứ tư học sinh học thể loại văn tả cảnh. Trước tiết luyện tập này học sinh đã được học về cấu tạo bài văn tả cảnh và có hai tiết luyện tập để tìm hiểu sâu hơn về cấu tạo bài văn, cách sử dụng từ ngữ, hình ảnh trong bài văn miêu tả, cách lập dàn ý một bài văn tả cảnh. Do đó, ở tiết luyện tập này giáo viên chỉ dùng câu hỏi gợi ý giúp học sinh

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_kinh_nghiem_su_dung_tinh_tich_hop_co_hieu_qua_kh.doc