SKKN Một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả tổ chức lớp học theo Mô hình trường học mới VNEN lớp 3 ở trường Tiểu học Hải Long
Mô hình dạy học VNEN đến năm học 2015-2016 đã hết dự án hỗ trợ và đầu tư. Nhưng một số trường trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa trong đó có cả huyện Như Thanh vẫn tiếp tục triển khai và thực hiện dạy học theo Mô hình trường học mới VNEN. Việc áp dụng mô hình trường học mới là một bước đột phá trong việc đổi mới, cải cách giáo dục, hy vọng mở ra cho nền giáo dục Việt Nam một lối đi đúng hướng để cùng hòa nhập với nền giáo dục tiên tiến, hiện đại trên thế giới, đáp ứng với sự phát triển chung của xã hội trong tương lai. Có thể nói, mô hình này đã trở thành yêu cầu cấp thiết của toàn xã hội, đòi hỏi sự chung tay của các cấp, các ngành và các tổ chức xã hội.
Trường Tiểu học Hải Long đã áp dụng Mô hình trường học mới bước đầu đã đạt được một số kết quả đáng kể. Đối với bản thân tôi cũng tham gia thực hiện dạy học theo mô hình này gần 5 năm nên đã quen với việc đổi mới phương pháp dạy học, tổ chức lớp học theo mô hình trường học mới VNEN.
Trên thực tế việc tổ chức thực hiện bản thân tôi nhận thấy để công tác dạy học theo đúng định hướng đổi mới mang lại hiệu quả thì vai trò của người giáo viên chủ nhiệm lớp là hết sức quan trọng và cần thiết. Chính vì những lẽ đó mà tôi đã dành khá nhiều thời gian, tâm sức cho công tác giảng dạy của lớp mình. Xuất phát từ những lí do nêu trên tôi đã mạnh dạn lựa chọn và nghiên cứu với nội dung sáng kiến:
“Một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả tổ chức lớp học theo Mô hình trường học mới VNEN lớp 3 ở trường Tiểu học Hải Long”.
1. Mở đầu 1.1. Lý do chọn đề tài. Mô hình dạy học VNEN đến năm học 2015-2016 đã hết dự án hỗ trợ và đầu tư. Nhưng một số trường trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa trong đó có cả huyện Như Thanh vẫn tiếp tục triển khai và thực hiện dạy học theo Mô hình trường học mới VNEN. Việc áp dụng mô hình trường học mới là một bước đột phá trong việc đổi mới, cải cách giáo dục, hy vọng mở ra cho nền giáo dục Việt Nam một lối đi đúng hướng để cùng hòa nhập với nền giáo dục tiên tiến, hiện đại trên thế giới, đáp ứng với sự phát triển chung của xã hội trong tương lai. Có thể nói, mô hình này đã trở thành yêu cầu cấp thiết của toàn xã hội, đòi hỏi sự chung tay của các cấp, các ngành và các tổ chức xã hội. Trường Tiểu học Hải Long đã áp dụng Mô hình trường học mới bước đầu đã đạt được một số kết quả đáng kể. Đối với bản thân tôi cũng tham gia thực hiện dạy học theo mô hình này gần 5 năm nên đã quen với việc đổi mới phương pháp dạy học, tổ chức lớp học theo mô hình trường học mới VNEN. Trên thực tế việc tổ chức thực hiện bản thân tôi nhận thấy để công tác dạy học theo đúng định hướng đổi mới mang lại hiệu quả thì vai trò của người giáo viên chủ nhiệm lớp là hết sức quan trọng và cần thiết. Chính vì những lẽ đó mà tôi đã dành khá nhiều thời gian, tâm sức cho công tác giảng dạy của lớp mình. Xuất phát từ những lí do nêu trên tôi đã mạnh dạn lựa chọn và nghiên cứu với nội dung sáng kiến: “Một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả tổ chức lớp học theo Mô hình trường học mới VNEN lớp 3 ở trường Tiểu học Hải Long”. 1.2. Mục đích nghiên cứu. Xuất phát từ cách thức tổ chức lớp học cũng như việc trang trí lớp tạo ra một môi trường học tập thân thiện, học sinh chủ động và sáng tạo trong việc lĩnh hội kiến thức. Bản thân tôi viết sáng kiến kinh nghiệm này với mong muốn. Đúc kết lại những công việc đã làm của mình để suy ngẫm, để chọn lọc và rút ra được bài học kinh nghiệm bài học thực tế cho bản thân. Tiếp xúc chia sẻ với đồng nghiệp những việc đã làm và đã thành công trong công tác chủ nhiệm và giảng dạy của lớp. Ghi nhận và tiếp thu những lời góp ý, nhận xét chân tình từ Ban giám hiệu, Tổ chuyên môn nhà trường cũng như các bạn đồng nghiệp. Từ đó để tôi phát huy những mặt tích cực, điều chỉnh, khắc phục những hạn chế thiếu sót của bản thân nhằm từng bước hoàn thiện mình hơn. Luyện phong cách làm việc năng động, sáng tạo; cố gắng học tập, tự rèn luyện mình để theo kịp sự thay đổi của xã hội trong giai đoạn hiện nay và sau này. 1.3. Đối tượng nghiên cứu. “Một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả tổ chức lớp học theo Mô hình trường học mới VNEN lớp 3 ở trường Tiểu học Hải Long” 1.4. Phương pháp nghiên cứu. Phương pháp thực hành. Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin Phương pháp thống kê, tổng hợp, xử lí số liệu. 2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm. 2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm. Trên cơ sở định hướng dạy học theo Mô hình trường học mới là nơi học sinh cùng học tập để lĩnh hội những kiến thức liên quan mật thiết đến cuộc sống hàng ngày của các em. Vai trò của giáo viên là người tổ chức, hướng dẫn và khích lệ các em trong việc tìm tòi, chiếm lĩnh kiến thức, hình thành phát triển kĩ năng giao tiếp, ứng xử dân chủ bình đẳng trong các nhóm học tập và giữa các nhóm với nhau. Một môi trường học tập mà các bậc phụ huynh và cộng đồng cùng tham gia tích cực vào việc chăm sóc và giáo dục con em mình. Bước đầu trang bị cho các em những kiến thức ban đầu cơ bản cần thiết, phù hợp với tâm lý lứa tuổi ở bậc học tiểu học nói chung và học sinh lớp 3 nói riêng. Giúp các em biết sống và ứng xử phù hợp trong các mối quan hệ với thầy cô giáo và bạn bè trong một tập thể lớp; giúp các em bước đầu biết sống tích cực, chủ động, có mục đích, có kế hoạch, tự trọng, tự tin, có kỉ luật, biết hợp tác, giản dị, tiết kiệm, gọn gàng, ngăn nắp, vệ sinh .....để trở thành con ngoan trong gia đình, học sinh tích cực xây dựng một tập thể lớp vững mạnh đoàn kết và hướng tới trở thành con người có ích trong xã hội. Mô hình trường học mới VNEN chú trọng tập trung vào đổi mới sư phạm: đổi mới phương pháp dạy, đổi mới phương pháp học, đổi mới phương pháp đánh giá, đổi mới phương pháp tổ chức lớp học. Để thực hiện tốt nhiệm vụ trên thì vai trò của người giáo viên là hết sức quan trọng quyết định thành công của quá trình dạy học theo mô hình này. 2.2.Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm. 2.2.1. Thuận lợi. Trường Tiểu học Hải Long được đóng trên địa bàn thôn Hải Thanh gần trung tâm của xã. Đường xá đi lại tương đối thuận lợi, phần lớn học sinh trong lớp là con em sống ở các thôn gần trường. Sự quan tâm chỉ đạo sát sao của các cấp, các ngành và các tổ chức đoàn thể ở địa phương. Đặc biệt là sự ủng hộ của cha mẹ học sinh là động lực giúp cho công tác dạy học và giáo dục của nhà trường nói chung và cá nhân tôi nói riêng mang lại nhiều thành công đáng kể. 2.2.2. Khó khăn. Trong lớp có 100% học sinh là con em nông thôn nên ít nhiều khả năng giao tiếp, để đáp ứng yêu cầu hoạt động tổ chức lớp học theo kiểu mới vẫn còn hạn chế. Gần 50% học sinh là người dân tộc thiểu số, bố mẹ đi làm ăn xa quanh năm phải ở nhà với ông bà, chú bác, thiếu hơi ấm tình thương của bố mẹ nên cũng phần nào ảnh hưởng đến tâm lí phát triển của các em. Việc trang trí lớp học, đồ dùng học tập theo mô hình này cũng đòi hỏi giáo viên chủ nhiệm phải đầu tư nhiều thời gian hơn so với các lớp học bình thường. Một bộ phận nhỏ cha mẹ học sinh còn chưa nhiệt tình ủng hộ mô hình dạy học này, “giao khoán hoàn toàn” việc dạy học và giáo dục cho nhà trường. Trường thuộc vùng nông thôn, nguồn thu nhập chủ yếu của người dân từ nông nghiệp, đời sống kinh tế xã hội tuy đã có nhiều cải thiện nhưng vẫn chưa thoát được nghèo khó, trình độ văn hóa, nhận thức của nhân dân không đồng đều thì việc học của học sinh nơi đây vẫn là một điều hết sức trăn trở. 2.2.3. Thực trạng của lớp chủ nhiệm. Năm học 2016 - 2017 tôi được Ban giám hiệu nhà trường phân công giảng dạy và làm công tác chủ nhiệm lớp 3B trường Tiểu học Hải Long. Lớp học có 16 học sinh, trong đó có 10 em nam và 6 em nữ, 7 em là người dân tộc thiểu số. Vào đầu năm học, sau thời gian nhận lớp, tôi xây dựng kế hoạch khảo sát, tìm hiểu tình hình học tập của học sinh. *Kết quả khảo sát như sau: Môn Tổng số HS dự kiểm tra Tốt Hoàn thành Cần cố gắng Điểm 9-10 Điểm 7-8 Điểm 5-6 Điểm 3-4 Điểm 1-2 SL TL SL TL SL TL SL TL SL TL Toán 16 1 6,25% 5 31,25% 7 43,75% 1 6,25% 2 12,5% Tiếng Việt 16 1 6,25% 4 25% 8 50% 1 6,25% 2 12,5% Bước vào thực tế cho các nhóm hoạt động tôi quan sát thấy khoảng gần 2/3 số học sinh trong lớp làm việc chưa thực sự tích cực, các em chỉ dựa vào nhóm trưởng và thư kí. Mặc dù các em đã được học một năm với mô hình này. Quá trình tham gia thảo luận trước lớp thì có khoảng 1/3 số học sinh trong lớp mạnh dạn phát biểu, số còn lại không dám giơ tay phát biểu vì chưa thực sự tự tin với câu trả lời hoặc ý kiến của mình đưa ra ...Có lẽ vì thế tôi suy nghĩ và quyết định chính mình sẽ cố gắng giáo dục cho các em để các em có thể tự tin trong giao tiếp; tích cực, chủ động trong học tập để cuối năm hoàn thành tốt nhất kết quả học tập và rèn luyện. Sau vài năm tiếp xúc với mô hình học tập mới VNEN, tôi nhận thấy bản thân mình đã dần khắc phục được cách dạy học áp đặt một chiều và lối học thụ động của học sinh. Cách thức tổ chức lớp học theo các nhóm đã tạo điều kiện cho học sinh được trải nghiệm, khám phá lĩnh hội kiến thức mới. Mối quan hệ tương tác giữa học sinh với giáo viên và quan hệ giữa học sinh với nhau được phát huy tối ưu. Quá trình dạy học theo hướng phân hóa đối tượng học sinh trong Mô hình trường học mới diễn ra bước đầu có nhiều thuận lợi. Tiến độ hoàn thành yêu cầu của những đối tượng học sinh hoàn thành tốt nội dung bài học trong lớp so với các bạn khác là nhanh hơn. Do đó các em có thời gian để tìm hiểu khám phá những yêu cầu mới cao hơn so với các bạn, thông qua những bài tập nâng cao mà giáo viên đã chuẩn bị trong các tiết dạy cụ thể. Bên cạnh đó nó cũng dần khơi dậy một phong trào cùng học theo con, cùng dạy cho con ở mỗi gia đình phụ huynh học sinh ngày càng phát triển và nhân rộng. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện, một số đồng chí giáo viên giảng dạy và tổ chức lớp học còn theo khuôn mẫu, rập khuôn, thiếu sáng tạo bởi tài liệu dạy học đã được hướng dẫn tỉ mỉ, giáo viên cứ thế mà làm theo. Bên cạnh đó không phải học sinh nào cũng phù hợp để tham gia học mô hình này. Với những em có khả năng tiếp thu chưa tốt hoặc tiếp thu chậm thì việc các em tự học để theo kịp các bạn trong nhóm là khá vất vả. Khả năng tổ chức hướng dẫn, giảng giải bài giúp bạn của các nhóm trưởng cũng như của các thành viên trong nhóm hạn chế thì giáo viên phải tham gia trợ giúp cho những em hoàn thành bài chậm ở các nhóm trở nên vất vả nhiều hơn. 2.2.4. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động. Sau mỗi năm trực tiếp tham gia và thực hiện Mô hình trường học mới, tôi nhận thấy các yếu tố ảnh hưởng đến sự thành công hay thất bại của quá trình dạy học đó là yếu tố người dạy và người học. Cái khó lớn nhất đối với người giáo viên là phải không ngại đổi mới, mà là ngại loại bỏ thói quen dạy theo lối giảng giải, thuyết trình. Vì những lí do đó đòi hỏi người giáo viên phải thật sự coi trọng việc tự chủ, tự học của học sinh; biết động viên khích lệ học sinh tự tin chiếm lĩnh tri thức mới thông qua nhóm học tập, cặp đôi hay quá trình tự học của mỗi cá nhân. Về phía học sinh, các em phải rèn luyện tính tự lập, tự chủ, tự tin trong việc chiếm lĩnh tri thức mới; phải chủ động hợp tác với bạn bè, thầy cô cũng như gia đình trong quá trình tự học, tự rèn luyện. Ngoài ra yêu cầu về cơ sở vật chất có vai trò quan trọng không nhỏ trong mô hình dạy học này. Với cách bố trí các nhóm học tập, các công cụ hỗ trợ trong lớp học thì đòi hỏi một phòng học đạt chuẩn là vô cùng cần thiết, tạo điều kiện tốt cho quá trình học tập ở lớp diễn ra thuận lợi. Mặt khác thì yếu tố gia đình và cộng đồng cũng không kém phần quan trọng. Ở mỗi gia đình, các bậc phụ huynh có thể hỗ trợ con em mình trong việc ứng dụng các kiến thức được học tại trường thông qua Hoạt động ứng dụng, hay giúp các em bổ sung, kết nối những nét phong tục tập quán của địa phương với kiến thức học trong sách vở. Thực trạng mà sáng kiến đã đặt ra. Qua quá trình thực hiện còn gặp những khó khăn, hạn chế cũng như những yếu kém của công tác dạy học theo Mô hình trường học mới như đã nêu ở trên. Tuy vậy, qua thời gian thực hiện tôi nhận thấy những thành công, những mặt tích cực là chủ yếu. Mô hình học tập này đã giúp học sinh phát huy tích cực tính tự học, tính sáng tạo, tính tự giác, ý thức tự quản, sự tự tin, hứng thú trong học tập. Đây là phương pháp dạy học mới, giúp các em phát huy tốt các kỹ năng giao tiếp, kỹ năng hợp tác, kỹ năng tự đánh giá lẫn nhau trong mỗi tiết học. Vai trò quản lý tổ chức lớp học là “Hội đồng tự quản học sinh” do các em bầu ra và đảm nhiệm, đây là một biện pháp giúp học sinh được phát huy quyền làm chủ quá trình học tập. Học sinh còn có điều kiện tìm hiểu rõ quyền và trách nhiệm của bản thân trong môi trường giáo dục, các em được rèn luyện các kỹ năng lãnh đạo, kỹ năng tham gia, kỹ năng hợp tác trong các hoạt động; đồng thời xây dựng không gian lớp học với “Góc học tập”, “Góc cộng đồng”, “Thư viện lớp học”, “Hộp thư vui”, hòm thư “Điều em muốn nói” cũng như trong cách trang trí lớp học để tạo ra môi trường giáo dục thân thiện, gần gũi với các em. Đối với bản thân tôi đã thích nghi với môi trường học tập này. Bởi đây là phương pháp dạy học theo nguyên tắc lấy học sinh làm trung tâm, học tập mang tính tương tác và phù hợp với từng cá nhân học sinh; chuyển việc truyền thụ kiến thức của giáo viên thành việc hướng dẫn học sinh tự học. Lớp học do học sinh tự quản và được tổ chức theo các hình thức như làm việc theo cặp, làm việc cá nhân và làm việc theo nhóm, trong đó hình thức học theo nhóm là chủ yếu. Do vậy học sinh cơ bản đã thay đổi thói quen học tập, các em tự nghiên cứu tìm hiểu kiến thức trong bài và qua tài liệu hướng dẫn. Những kiến thức khó, các em trao đổi với bạn trong nhóm và mạnh dạn trao đổi vướng mắc với giáo viên. Qua đó, tạo điều kiện thuận lợi để các em phát huy tính độc lập, chủ động tiếp thu kiến thức và hiểu sâu sắc các kiến thức trong bài học; rèn luyện cho các em được nhiều kỹ năng sống, kỹ năng tập thể trong cách hoạt động học theo nhóm. Môi trường học tập thoải mái, các em có hứng thú tham gia các bài học. Trong mỗi tiết học không tạo áp lực đối với học sinh. Các em được hình thành thói quen làm việc trong môi trường tương tác, được học hỏi bạn để tự hoàn thiện và luôn có ý thức được mình phải bắt đầu và kết thúc hành động như thế nào, không chờ đến sự nhắc nhở của giáo viên, tránh sự thụ động trong dạy và học, góp phần đẩy mạnh sự phát triển trong công tác giáo dục của trường. Với việc cùng tham gia của cha mẹ học sinh có thể giúp trẻ liên hệ nội dung học tập với thực tiễn cuộc sống. Hơn ai hết, phụ huynh học sinh, những người sinh sống gần gũi, gắn bó mật thiết với các em và cộng đồng nơi các em sinh sống chính là nguồn kiến thức, kinh nghiệm thực tế vô cùng quý báu giúp các em liên hệ những điều học được ở trường với cuộc sống xung quanh. 2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề. Ngay từ đầu năm học 2016 - 2017 trường chúng tôi đã vận dụng phương pháp dạy học theo mô hình VNEN. Qua một thời gian giảng dạy tôi đã mạnh dạn nghiên cứu sáng kiến “Một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả tổ chức lớp học theo Mô hình trường học mới VNEN lớp 3 ở trường Tiểu học Hải Long” với những giải pháp cụ thể như sau: 2.3.1. Giải pháp thứ nhất : Xây dựng lớp học thân thiện, nhóm tích cực. Mỗi ngày đến trường, đến lớp là một ngày vui, bản thân các em thêm yêu trường yêu lớp, gắn bó với ngôi nhà chung đó. Việc trang trí lớp học thân thiện là một sự sáng tạo phù hợp với đặc điểm tâm lý học sinh nó tạo cho các em nhận thức về cái đẹp và có ý thức gìn giữ trường lớp của mình sạch đẹp, góp thêm cho lớp học một luồng không khí thân thiện, thoải mái, sinh động, hăng say trong giờ học, rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh. Vì vậy, tôi đã kết hợp với phụ huynh và học sinh để tổ chức trang trí lớp học. * Trang trí lớp học. Ở Mô hình trường học mới, việc trang trí lớp học không đơn thuần là để trang trí cho đẹp mắt mà nó còn là những công cụ hỗ trợ góp phần giáo dục học sinh những phẩm chất mới cũng như phát triển kĩ năng sống cho các em. Bởi vậy mà việc thực hiện trang trí lớp học của lớp tôi được thực hiện và hoàn thành một tuần trước khi bắt đầu chương trình năm học mới. Để thực hiện có hiệu quả tôi thường huy động nhiều thành phần tham gia. Ngoài cô trò trong lớp còn có sự góp sức, góp ý của Ban giám hiệu, các thầy cô giáo và đặc biệt là sự hỗ trợ của cộng đồng như cha mẹ hay anh chị của học sinh. Tôi thường trao đổi với các đồng nghiệp và đặc biệt là với Hội phụ huynh học sinh lớp để lựa chọn những công cụ phù hợp nhất với điều kiện của lớp mình. Những công cụ mà theo tôi chúng đã được chứng minh là hữu ích cho công tác quản lí hoạt động ở lớp, ở trường bao gồm: Hộp thư Điều em muốn nói, Hộp thư vui, Góc sinh nhật, Bảng theo dõi sĩ số, Nội quy trường lớp, Bảng thi đua, Góc Tiếng Việt, Góc Toán, Góc Tự nhiên- Xã hội ... *Góc sinh nhật: Là nơi nhắc các em học sinh trong lớp nhớ đến ngày tháng năm sinh của các bạn, giúp các em tự tạo không khí vui tươi trong lớp, biết quan tâm đến bạn bè. Tạo điều kiện để các em biết cách tổ chức các buổi kỉ niệm nho nhỏ, tạo sự gắn kết giữa các thành viên trong lớp, tạo điều kiện cho các em yêu thương, yêu quý nhau hơn, tránh được sự phân biệt điều kiện kinh tế gia đình. Từ những công cụ trong lớp, tôi có thể hướng dẫn các em hiểu ý nghĩa của việc xây dựng các công cụ cũng như việc sử dụng chúng để tham gia vào các hoạt động học tập. Thông qua đó tôi có thể phát hiện và nuôi dưỡng các tiềm năng; giải đáp những băn khoăn, lo lắng; giúp các em phát triển niềm đam mê, sự sáng tạo và hình thành nhân cách cùng các kĩ năng sống, kĩ năng ứng phó với môi trường xung quanh. *Hộp thư Điều em muốn nói: là công cụ giúp tôi nắm được những ý kiến bày tỏ của học sinh về những điều thầm kín cần được trao đổi cùng cô. Những ý kiến đó cụ thể như những tình cảm, cảm nhận, mong muốn, đề nghị của các em muốn nói cùng cô, bạn bè, cha mẹ, điều kiện học tập sinh hoạt, vui chơi,... mà các em không thể hoặc chưa dám nói trực tiếp. Từ đó tôi có những thông tin quan trọng để hiểu học sinh của mình và quan trọng hơn là để điều chỉnh các hoạt động dạy học cho phù hợp với từng đối tượng học sinh. 2.3.2. Giải pháp thứ hai: Đổi mới về phương pháp dạy học. Để đáp ứng yêu cầu dạy học theo Mô hình VNEN, tôi đã thật sự đổi mới phương pháp dạy học. Bản thân đã chuyển đổi vai trò là người truyền thụ kiến thức thành vai trò là người: + Tổ chức lớp học. + Quan sát hoạt động của mỗi cá nhân, của mỗi nhóm. + Hỗ trợ học sinh khi cần thiết. + Chốt lại những kiến trọng tâm cơ bản nhất của bài học. ( Ảnh: Giáo viên hỗ trợ học sinh) + Đánh giá quá trình và kết quả học tập của học sinh. Sử dụng tài liệu hướng dẫn học hợp lý khi giảng bài trên lớp, khắc phục dạy học theo lối đọc, chép. Khi thực hiện dạy học theo mô hình VNEN việc sử dụng tài liệu hướng dẫn học làm phương tiện dạy học là hết sức cần thiết. Giáo viên chú trọng khai thác đầy đủ nội dung tài liệu hướng dẫn học và cập nhật thêm kiến thức các nội dung tích hợp như giáo dục kỹ năng sống,... Sử dụng hợp lý công nghệ thông tin trong các bài học, khai thác tối đa thiết bị dạy học hiện có và tự làm. Ứng dụng công nghệ thông tin giúp cho tiết dạy thêm sôi động, thu hút sự tập trung của học sinh. Giáo viên thật sự phải có kiến thức về ứng dụng công nghệ thông tin, sử dụng thành thạo máy, nếu không sẽ phản tác dụng khi thực hiện. Bên cạnh đó, để dạy học theo mô hình VNEN đạt hiệu quả thì giáo viên phải phối kết hợp chặt chẽ với phụ huynh cùng tham gia vào hoạt động giáo dục của nhà trường. Ngoài ra, bản thân mỗi giáo viên phải có quyển sổ “Nhật kí” ghi lại những thành công hoặc những khó khăn vướng mắc trong quá trình thực hiện. Giáo viên tự học, tự bồi dưỡng, tự chủ, linh hoạt trong phương pháp dạy học. Tích cực tham gia các lớp bồi dưỡng chuyên môn, các hoạt động chuyên đề của tổ của trường để học tập về đổi mới phương pháp dạy học theo tinh thần VNEN. Trong sinh hoạt tổ chuyên môn kịp thời đưa ra những khó khăn, vướng mắc như: biện pháp để học sinh học nhóm tốt, biện pháp để giúp em nhóm trưởng có thể điều khiển tốt các hoạt động học tập của nhóm, hoặc biện pháp về đổi mới phương pháp dạy học của một hoạt động nào đó ở một bài dạy cụ thểtrong tổ sẽ cùng nhau thảo luận để tìm ra cách giải quyết tốt nhất. Tăng cường kiểm tra bài tập ứng dụng. Phân nhóm nhiều đối tượng học sinh hỗ trợ nhau trong học tập. Trong dạy học phải bao quát lớp, quy định các kí hiệu để học sinh thực hiện theo lệnh và kiểm tra giám sát để giúp đỡ học sinh kịp thời. Nhất thiết phải tổ chức bước khởi động để tạo hứng thú cho học sinh bước vào tiết học. Muốn không khí lớp học vui tươi, kích thích sự tò mò, khơi dậy hứng thú của học sinh về chủ đề sẽ học. Giáo viên phải nghiên cứu thật kỹ tài liệu để lựa chọn hình thức sao cho phù hợp, có thể là: đặt câu hỏi, câu đố vui, kể chuyện, một tình huống, tổ chức trò chơi hoặc sử dụng các hình thức khác.. Ví dụ : Bài 5: Ôn tập các bảng nhân và bảng chia (Tài liệu Hướng dẫn học Toán lớp 3 Trang 15 -Tập 1A). Trước khi vào tiết học, GV tổ chức HS chơi trò chơi “Kết bạn”. Các em sẽ biết nếu “kết 4” mà lớp mình có 16 bạn thì sẽ thành lập được 4 nhóm, nếu “kết 3” thì lớp mình sẽ thành lập được 5 nhóm còn dư 1 bạn (bạn bị dư sẽ bị phạt). Thông qua trò chơi, học sinh sẽ cảm thấy trò chơi mà mình vừa được tham gia rất gần gũi với bản thân, bên cạnh đó trò chơi còn kích thích tính tò mò, khơi dậy hứng thú trong học tập giúp các em muốn tiếp tục được trải nghiệm kiến thức mới. Đối với những bài có kênh hình, kênh chữ không phù hợp hoặc quá trừu tượng với học sinh, tôi mạnh dạn điều chỉnh và giảng giải, phân tích để học sinh hiểu. Việc đổi mới này thật sự đã phần nào mang lại hiệu quả trong
Tài liệu đính kèm:
- skkn_mot_so_kinh_nghiem_nang_cao_hieu_qua_to_chuc_lop_hoc_th.doc