SKKN Một số kinh nghiệm hướng dẫn học sinh lớp 5 làm các bài văn miêu tả

SKKN Một số kinh nghiệm hướng dẫn học sinh lớp 5 làm các bài văn miêu tả

 Môn Tiếng Việt là môn học hình thành và phát triển cho học sinh các kỹ năng sử dụng Tiếng Việt ( đọc, viết, nghe, nói ) để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của mọi lứa tuổi. Thông qua việc dạy học Tiếng Việt góp phần rèn luyện cho học sinh các thao tác tư duy. Cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản về Tiếng Việt, về tự nhiên và con người, về văn hóa, văn học của Việt Nam và nước ngoài.

 Qua nhiều năm giảng dạy ở trường Tiểu học, tôi nhận thấy nội dung các bài Tập làm văn lớp 5 thường gắn với chủ điểm đang học ở các bài Tập đọc. Quá trình hướng dẫn học sinh thực hiện các kỹ năng phân tích đề, quan sát tìm ý, nói-viết đoạn, bài v¨n là những cơ hội giúp học sinh mở rộng vốn hiểu biết về cuộc sống theo chủ điểm đang học. Việc tìm hiểu đề bài, lập dàn ý, quan sát đối tượng, tìm từ viết câu, viết đoạn văn góp phần phát triển năng lực phân tích, quan sát, tổng hợp. Tư duy trừu tượng của học sinh cũng được rèn luyện và phát triển nhờ các biện pháp so sánh, nhân hóa khi miêu tả. Môn Tập làm văn là trau dồi vốn sống và vốn văn chương của học sinh nhằm nâng cao năng lực cảm nhận và sự diễn tả ở mỗi học sinh. Thông qua môn Tập làm văn, học sinh có điều kiện tiếp cận với vẻ đẹp của con người và thiên nhiên đất nước, có cơ hội bộc lộ cảm xúc cá nhân, mở rộng tâm hồn và phát triển nhân cách con người Việt Nam.

Để học sinh viết được bài văn đúng và hay, biết cách dùng từ ngữ, sắp xếp từ phù hợp diễn tả chính xác, sinh động hồn nhiên, thông qua bài văn học sinh rèn được cách nghĩ, cách cảm nhận chân thật, sự sáng tạo, mỗi học sinh thể hiện được nét riêng độc đáo của mình. Đó là vấn đề mà nhiều giáo viên phải trăn trở. Chính vì lý do trên, tôi đã chọn viết đề tài: “Một số kinh nghiệm hướng dẫn học sinh lớp 5 làm các bài văn miêu tả”.

 

doc 16 trang thuychi01 8413
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số kinh nghiệm hướng dẫn học sinh lớp 5 làm các bài văn miêu tả", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
Số TT
Nội dung
Trang
I.
1.
2.
3.
4.
II.
1.
2.
3.
3.1.
3.2.
3.3.
3.4.
3.5.
4.
III.
1.
2.
Mục lục:
MỞ ĐẦU: 
Lí do chọn đề tài:
Mục đích nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu:
NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm:
Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề:
Tìm hiểu về văn mêu tả.
Các bước dạy và học làm văn miêu tả.
Giúp học sinh viết đúng và hay ba phần của bài văn
Phương pháp dạy học sinh diễn đạt bài văn một cách sinh động.
Chấm, chuẩn bị nhận xét chu đáo cho một tiết trả bài.
Kết quả đạt được.
KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ:
Kết luận.
Kiến nghị.
1
2
2
2
2
2
3
3
3
4
4
5
9
10
13
15
16
16
16
I. MỞ ĐẦU
1 Lí do chọn đề tài. 
 Môn Tiếng Việt là môn học hình thành và phát triển cho học sinh các kỹ năng sử dụng Tiếng Việt ( đọc, viết, nghe, nói ) để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của mọi lứa tuổi. Thông qua việc dạy học Tiếng Việt góp phần rèn luyện cho học sinh các thao tác tư duy. Cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản về Tiếng Việt, về tự nhiên và con người, về văn hóa, văn học của Việt Nam và nước ngoài. 
 Qua nhiều năm giảng dạy ở trường Tiểu học, tôi nhận thấy nội dung các bài Tập làm văn lớp 5 thường gắn với chủ điểm đang học ở các bài Tập đọc. Quá trình hướng dẫn học sinh thực hiện các kỹ năng phân tích đề, quan sát tìm ý, nói-viết đoạn, bài v¨n là những cơ hội giúp học sinh mở rộng vốn hiểu biết về cuộc sống theo chủ điểm đang học. Việc tìm hiểu đề bài, lập dàn ý, quan sát đối tượng, tìm từ viết câu, viết đoạn văn  góp phần phát triển năng lực phân tích, quan sát, tổng hợp. Tư duy trừu tượng của học sinh cũng được rèn luyện và phát triển nhờ các biện pháp so sánh, nhân hóa khi miêu tả. Môn Tập làm văn là trau dồi vốn sống và vốn văn chương của học sinh nhằm nâng cao năng lực cảm nhận và sự diễn tả ở mỗi học sinh. Thông qua môn Tập làm văn, học sinh có điều kiện tiếp cận với vẻ đẹp của con người và thiên nhiên đất nước, có cơ hội bộc lộ cảm xúc cá nhân, mở rộng tâm hồn và phát triển nhân cách con người Việt Nam.
Để học sinh viết được bài văn đúng và hay, biết cách dùng từ ngữ, sắp xếp từ phù hợp diễn tả chính xác, sinh động hồn nhiên, thông qua bài văn học sinh rèn được cách nghĩ, cách cảm nhận chân thật, sự sáng tạo, mỗi học sinh thể hiện được nét riêng độc đáo của mình. Đó là vấn đề mà nhiều giáo viên phải trăn trở. Chính vì lý do trên, tôi đã chọn viết đề tài: “Một số kinh nghiệm hướng dẫn học sinh lớp 5 làm các bài văn miêu tả”.
Mục đích nghiên cứu.
Rèn cho học sinh có kĩ năng làm văn về thể loại văn miêu tả trong chương trình Tiểu học.
Đối tượng nghiên cứu.
- Phân môn tập làm văn, thể loại văn miêu tả trong chương trình lớp 5.
- Đối tượng học sinh lớp 5.
4. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp đọc tài liệu, tổng hợp hệ thống kiến thức trong chương trình.
- Phương pháp điều tra.
 Thực hiện điều tra học sinh lớp 5C năm học: 2016- 2017 trường TH Quảng Hưng. 
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
 1. C¬ së lÝ luËn.
Văn miêu tả được đưa vào chương trình Tiểu học từ lớp 2. Khi tập quan sát trả lời câu hỏi, các em đã bắt đầu làm quen với văn miêu tả. Tại sao lại cần thiết cho các em học sinh học văn nhất là văn miêu tả? Có thể vì nhiều lí do:
Văn miêu tả phù hợp với đặc điểm tâm lí tuổi thơ (ưa quan sát, thích nhận xét, sự nhận xét thiên về cảm tính...); góp phần nuôi dưỡng mối quan hệ và sự quan tâm của các em đến thế giới thiên nhiên xung quanh, từ đó góp phần giáo dục thẫm mĩ, lòng yêu cái đẹp.
Học văn miêu tả học sinh có thêm điều kiện tạo nên sự thống nhất giữa tư duy và tình cảm, ngôn ngữ và cuộc sống, con người với thiên nhiên với xã hội, khêu gợi được tình cảm, cảm xúc, ý nghĩ cao thượng đẹp đẽ.
 	Đó là cơ sở vô cùng quý giá để chúng ta thực hiện dạy học văn một cách nhẹ nhàng, đi vào tâm hồn trẻ thơ một cách hồn nhiên mà đạt hiệu quả cao.
2. Thực trạng dạy văn miêu tả trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
 2.1 Thuận lợi: 
Văn miêu tả được dạy xuyên suốt từ lớp 2, từ những dạng bài, những yêu cầu đơn giản. Giáo viên đã quan tâm đến việc giúp các em quan sát, viết thành câu, thành đoạn văn rồi thành bài văn. Ở mỗi yêu cầu giáo viên đã uốn nắn sửa lỗi cho các em giúp các em có nhiều tiến bộ ở các lớp trên.
Đa số các em đều ngoan, biết vâng lời cô giáo. Riêng ở lớp 5C mà tôi chủ nhiêm, học sinh học khá đều, các em có đầy đủ dụng cụ học tập, sách giáo khoa, phụ huynh quan tâm đến việc học tập của con em.
 2.2 Khó khăn: Năm học 2016-2017, tôi được giao nhiệm vụ chủ nhiệm lớp 5C có 34 học sinh. Sau đợt khảo sát chất lượng đầu năm, tôi tổng hợp được kết quả bài làm như sau: 
Nhận xét về bài văn tả quang cảnh trường em
Số lượng
Tỉ lệ
Học sinh biết làm bài văn hay, có sự sáng tạo diễn tả sinh động, hồn nhiên.
4 em.
11,8%
 Học sinh biết cách làm bài văn, biết cách sắp xếp các ý đã quan sát được theo một trình tự nhất định, dùng từ ngữ, phù hợp diễn tả khá chính xác.
11 em.
32,3%
 Học sinh đã làm bài văn theo bố cục ba phần nhưng diễn tả chưa hay sa vào kể, liệt kê lại những điều quan sát được... 
13 em.
38,2%
Học sinh viết câu không đủ ý nội dung bài viết lan man, lủng củng. 
6 em.
17,7%
 Qua thực tế tìm hiểu ở lớp tôi chủ nhiệm cũng như thực trạng của học sinh lớp 5 những năm học trước nữa, tôi nhận thấy: bên cạnh một số học sinh viết văn biết diễn đạt và trình bày rõ ràng, mạch lạc, có những câu văn hay, giàu hình ảnh thì còn nhiều học sinh chỉ viết văn theo kiểu liệt kê các ý hiểu được. Các em cảm thấy lo lắng trước một đề bài tập làm văn. Vì thế khi làm văn có em đã học thuộc lòng hàng loạt những bài văn mẫu để đối phó với các bài kiểm tra thường xuyên, kiểm tra định kỳ và hậu quả diễn ra là học sinh phải học thuộc lòng một cách máy móc hay có một số em không biết diễn đạt đủ ý cần thiết cho một bài tập làm văn mà đã trình bày bài lan man không đi đúng trọng tâm của đề.
 	Sở dĩ có thực trạng như vậy là do nhiều nguyên nhân:
+ Nguyên nhân thứ 1: Việc tìm hiểu đề xác định nội dung và yêu cầu trọng tâm của đề bài chưa sát.
 Ví dụ: Đề bài: “Tả một người mà em thường gặp (cô giáo, thầy giáo hoặc người hàng xóm, ) đang làm việc”.Với đề bài trên do các em chưa xác định đúng yêu cầu trọng tâm nên một số em chỉ tả hình dáng của một người mà không tả người đó đang làm một việc cụ thể hoặc chưa phối hợp tả hình dáng, tính tình hoạt động của người đó.
+ Nguyên nhân thứ 2: Các em chưa chú ý đến việc quan sát đối tượng miêu tả để tả được các đặc điểm bên ngoài, một hiện tượng thiên nhiên ... hay sự thay đổi của cảnh phụ thuộc vào thời gian, không gian.
 Ví dụ: Đề bài: “ Tả một cây hoa đang nở” hay “một cảnh đẹp quê hương”.
 	Nếu các em không ra ngoài quan sát sự vật hiện tượng một cây đang nở hoa, một cảnh đẹp quê hương đang thay đổi theo sắc mây trời mà chỉ ngồi trong lớp học hồi tưởng về các đối tượng miêu tả thì lấy đâu ra hiểu biết về cây hoa, lấy đâu ra cảm xúc sáng tạo để viết văn.
+ Nguyên nhân thứ 3: Một số em không có thói quen lập dàn ý trước khi làm, hoặc làm văn phụ thuộc vào dàn ý chung, gợi ý của sách giáo khoa mà không biết lập dàn ý chi tiết để làm bài văn. 
 	+ Nguyên nhân thứ 4: Do vốn từ của một số em hạn chế nên làm bài còn khô khan, thiếu cảm xúc, dùng từ tối nghĩa, dùng sai từ. Còn thiên về liệt kê hết sự việc này đến sự việc khác, hết chi tiết này đến chi tiết khác. Việc sắp xếp các chi tiết quan sát được không theo một trật tự thời gian, không gian hay trên dưới, trước sau, câu văn diễn đạt không rõ ý định nói gì, kể gì, thậm trí câu sau làm câu trước mất nghĩa, và khả năng sử dụng biện pháp tu từ vào viết văn còn hạn chế. 
+ Nguyên nhân thứ 5: Do trình độ các em không đồng đều việc tạo điều kiện giúp đỡ các em học chậm chưa kịp thời nên chưa khơi dậy được sự hứng thú học tập của các em.
3. Giải pháp thực hiện
 3.1. Tìm hiểu về văn miêu tả: 
Muốn làm tốt bài văn miêu tả, trước tiên ta phải hiểu được thế nào là văn miêu tả? Làm một bài văn miêu tả phải theo mấy bước? Cho học sinh biết miêu tả là viết ra, dùng ngôn ngữ hoặc một phương tiện nghệ thuật nào đó làm cho người khác có thể hình dung được cụ thể sự vật, sự việc hoặc thế giới nội tâm của con người .
Việc dùng ngôn ngữ để làm công việc miêu tả tức là “làm văn”
Khi làm văn miêu tả, cần đạt những yêu cầu sau :
- Cụ thể hóa sự vật: Tả ai? Tả cái gì? (tả cái cặp thì người đọc sẽ hình dung được đây là cái cặp chứ không phải là cái bao hoặc cái túi đựng đồ vật). 
- Cá biệt hóa sự vật: Miêu tả như thế nào? (tả cái cặp thì người đọc sẽ hình dung được: đây là cái cặp chứ không phải là cái cặp chung chung nào đó).
- Mục đích hóa sự vật: Tả với tình cảm, tư tưởng, thái độ ra sao? (tình cảm yêu thích, quý mến)
Các bước làm một bài văn miêu tả:
+ Tìm hiểu đề.
+ Quan sát xây dựng dàn ý.
+ Viết thành bài văn hoàn chỉnh.
+ Đọc lại bài làm.
 3.2. Các bước dạy và học làm văn miêu tả:
 a.Tìm hiểu đề bài: Trong quá trình tìm hiểu đề cần hướng dẫn cho học sinh:
- Đọc đề bài: Học sinh đọc kỹ đề bài để có cái nhìn tổng quát, chú ý không bỏ sót một chi tiết nào để tránh hiểu sai đề.
- Phân tích đề: Biết kết cấu một đề bài miêu tả gồm hai phần: 
+ Thể loại bài văn: Phần này thường thể hiện ngay sau từ “hãy”.
+ Đối tượng miêu tả: phần này thường được đặt ngay sau từ “tả”
- Giới hạn miêu tả: Thường thì đối tượng miêu tả bị giới hạn bởi không gian thời gian, địa điểm.
Tùy theo đề bài và phần giới hạn đối tượng miêu tả có hoặc không có, có ít hoặc có nhiều.
Sau khi đọc kỹ đề bài có thể cho học sinh phân tích đề bài bằng cách:
+ Gạch hai gạch dưới từ xác định thể loại làm văn:
+ Gạch một gạch dưới các từ xác định đối tượng miêu tả.
+ Trọng tâm yêu cầu của đề ở chỗ nào? (Tả người đang làm việc thì tả hình dáng hay tính tình, hoạt động là chính?) 
+ Cần phân biệt các yêu cầu của đề:
Chẳng hạn: a. Tả một người bạn thân của em
 b. Bạn em đang học bài, em hãy tả bạn em lúc đó.
 Hai đề này có điểm khác nhau:
 Đề a, tả hình dáng tính tình của bạn em (trong phạm vi rộng).
 Đề b, tả hình dáng tính cách học bài của bạn em (trong phạm vi hẹp)
 Hay: Tả cánh đồng lúa chín quê em.
Nhiều học sinh nhầm sa vào tả hoạt động gặt lúa. Cần hướng dẫn học sinh quan sát kĩ cánh đồng lúa chín có những cảnh gì? ( lúa chín vàng, bông lúa nặng trĩu, hạt lúa tròn trĩnh níu khom bông lúa). Buổi sớm nhìn thấy lúa chín vàng tươi, nắng trưa nhìn đồng lúa vàng xuộm.
 Qua quá trình phân tích, tôi đã giúp học sinh xác định trọng tâm yêu cầu của đề bài, giúp các em có định hướng trong việc quan sát và viết thành dàn ý.
 b. Quan sát x©y dùng dµn ý:
Nói đến “cảnh” ta phải nghĩ tới thiên nhiên như núi sông, mây gió, trăng sao, dông bão, mưa nắng, một bãi biển khi mặt trời lên, một cánh đồng trong buổi hoàng hôn, một khu rừng giữa đêm trăngCảnh có thể là một khu vực gồm các vật thể, thiên nhiên lẫn vật thể do người tạo ra như: một bãi tắm ven biển thì ngoài bãi cát, sóng nước, mây trời còn có những con đường, nhà hàng, nhà nghỉ...
Trong cảnh có thể có người và vật nhưng người và vật chỉ là phần phụ, được điểm xuyết thêm vào chứ không phải là đối tượng chính để miêu tả. Vì vậy, để giúp cho học sinh miêu tả một cách sinh động, mới mẻ, giáo viên cần tạo điều kiện cho các em tiếp xúc trực tiếp đối tượng miêu tả.
VD: Cảnh một ngôi trường thì có các lớp học, khu vực hành chính, sân trường, vườn trường, khu tập thể dục thể thaoTất cả thường được bao bọc bởi những bức tường hay hàng rào và có cổng trường để ra vào. Vượt ra ngoài phạm vi đó sẽ không còn là cảnh trường nữa. Mỗi cảnh gắn liền với một thời gian nhất định như sáng sớm, trưa hay chiều tốiThời gian đi liền với ánh sáng, thời tiết, hoạt động của người và vật... làm cho cảnh có những nét riêng biệt.
Sau khi xác định đối tượng miêu tả với một phạm vi không gian và thời gian cụ thể, các em cần xác định vị trí để quan sát. Việc quan sát có thể ở một vị trí cố định, có thể ở những vị trí khác nhau nhưng vẫn phải có một vị trí chủ yếu.
Khi đã xác định được vị trí quan sát rồi, ta nên hướng dẫn các em có cái nhìn bao quát toàn cảnh đồng thời phải biết phân chia cảnh ra thành từng mảng, từng phần để quan sát. 
Khi quan sát, ta cần phối hợp các giác quan như tai nghe, mũi ngửi, tay sờ, da cảm nhận và cả cảm xúc của bản thân nữa. Khi tả, ta phải xác định một trình tự phù hợp với cảnh được tả. Tả từ trên xuống hay từ dưới lên, tả từ phải sang trái hay từ ngoài vào trong một phần tùy thuộc vào đặc điểm của mỗi cảnh. 
Mỗi bộ phận của cảnh chỉ nên chọn tả những nét tiêu biểu nhất đồng thời phải xác định đâu là cảnh chủ yếu để tập trung miêu tả. Nếu tả riêng một đồ vật, con vật, một người nào đó hướng các em cần tả tỉ mỉ về đối tượng còn khi tả cảnh, vì cảnh thường bao gồm nhiều thứ nên ta càng cần chọn những nét tiêu biểu nhất. Có thể tả người và vật trong cảnh nhưng việc tả đó phải góp phần bộc lộ một điều gì đó của cảnh làm cho cảnh nổi hơn, đẹp hơn.
Mỗi cảnh lại gắn với đặc điểm thiên nhiên, khí hậu, cây cỏ, hoa tráicủa từng vùng. Khi tả, ta phải làm toát lên màu sắc riêng biệt đó.
Tóm lại: Khi quan sát, học sinh cần phải tìm ra những nét chính - “nét trọng tâm” của đối tượng, sẵn sàng bỏ đi những nét thừa làm cho bài văn xa, lạc ý chính.
Học sinh có năng khiếu cần phải tìm được những nét tiêu biểu, đặc sắc, độc đáo của đối tượng, phải bộc lộ được cảm xúc, yêu quý, hứng thú, say mê của mình trước đối tượng quan sát.
Một điều các em cần ghi nhớ là khi tả thường cảnh luôn luôn gắn với tình người. Thi hào Nguyễn Du đã nêu một nhận xét rất sâu sắc: “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.”
Đúng vậy, cảnh vật mang theo trong nó cuộc sống riêng với những dặc điểm riêng. Nhưng con người cảm nhận cảnh như thế nào sẽ đem đến cho cảnh những tình cảm như thế. Đấy là phần hồn của cảnh. Cảnh không có hồn sẽ trơ trọi, thiếu sức sống. Vận dụng những điều đã quan sát đựơc làm dàn bài chung và dàn bài chi tiết cho từng đề bài cụ thể:
 Theo phương pháp lập dàn bài thì ta chia ra hai loại dàn bài:
- Dàn bài chung gồm: Những ý chính + những ý phụ
- Dàn bài chi tiết gồm: Những ý chính + các chi tiết của ý chính 
 Những ý phụ + các chi tiết của ý phụ.
- Học sinh có thể diễn đạt dàn bài chi tiết bằng câu văn hoàn chỉnh hoặc bằng những từ tóm tắt ngắn gọn. 
Ví dụ: Đề bài : Em hãy tả ngôi trường thân yêu của em. (Tiết 7 – tuần 4)
Dàn bài chung
Dàn bài chi tiết
I. Mở bài.
- Giới thiệu cảnh định tả.
 - Ở đâu?
II. Thân bài
1. Tả bao quát: toàn cảnh 
 Vị trí 
- Đặc điểm(tùy cảnh vật)
+ Hình dạng
+ Kích thước 
+ Vật liệu 
+ Màu sắc 
2. Tả chi tiết (tả các bộ phận)
- Cảnh sân chơi
+ Sân.
+ Cột cờ.
+ Cây cảnh.
Cảnh các lớp học.
+ Dãy phòng học.
+ Hàng hiên.
+ Trong phòng(bàn, ghế, bảng)
Cảnh khu vực văn phòng.
- Phòng ban giám hiệu.
- Phòng giáo viên.
- Phong thư viện.
- Phòng đội.
III. Kết bài
Nêu cảm nghĩ (ích lợi, giữ gìn, tình cảm)
I. Mở bài 
- Giới thiệu cảnh vật: quang cảnh trường em ở đâu? Nằm trên con đường nào, phố nào?
II. Thân bài.
 1. Tả bao quát (toàn cảnh)
 Vị trí: Từ đường lớn đi vào nằm phía bên tay phải sát lề đường tấm biển lớn ghi tên: Trường tiểu học  nền đỏ chữ vàng. 
Đặc điểm(tùy cảnh vật)
+ Hình dạng: Khuôn viên hình chữ nhật,nhìn xa nho nhỏ. Đến gần,vào bên trongtrường mới thấy vẻ khang trang
+ Kích thước: Cao, rộng, dài
+ Mái lợp ngói đỏ tươi, tường gạch quét vôi.
+ Màu sắc: Tường quét vôi màu vàng, cửa sơn màu trắng.
2. Tả chi tiết (tả các bộ phận)
 Trình tự không gian tùy theo vị trí quan sát.
Cảnh sân chơi:
+ Sân: rộng rãi, sạch sẽ.
+ Cột cờ: ở giữa sân, cao vút, trên đỉnh có lá cờ đỏ sao vàng.
+ Cây cảnh: đủ loại: mi mô da,sibồn hoa tròn xinh xắn bằng xi măng, vừa đẹp vừa dùng làm chỗ ngồi cho học sinh giờ ra chơi.
Cảnh các lớp học: Nổi bật nhất là các lớp học nối với nhau thành hình chữ U. Lớp nào cũng được xây dựng, sơn, trang trí cùng một kiểu giống nhau.
+ Dãy phòng học: được chia nhiều phòng từ khối 1-5.
+ Hàng hiên: rộng rãi, sáng sủa.
+ Bàn ghế kê thành 3 dãy, tấm bảng đen chiếm phân nửa bức tường trước mặt 
- Bàn giáo viên đặt bình hoa.
- Phía trên là ảnh Bác Hồ như đang mỉm 
cười với chúng em.
Cảnh khu vực văn phòng.
+ Phòng ban giám hiệu: trang trí giống nhau.
- Phòng giáo viên: bàn ghế ngay ngắn 
- Của kính bóng loáng
- Phòng giáo viên: nhiều kệ sách
- Phòng đội: giấy khen treo tường.
Giá trống, cờ đội,cờ màu trang trí.
III. Kết bài
Nêu cảm nghĩ, suy nghĩ, hiểu được tầm quan trọng của trường học.
- Tình cảm: yêu quý ngôi trường.
- Hành động: giữ gìn tốt tài sản nhà trường
Ví dụ 2: Đề bài: Em hãy tả hình dáng và tính nết của một người bạn mà em yêu mến.
(Tiết 25 – tuần 13)
Với đề bài trên phần thân bài gồm những ý: Tả hình dáng, tả tính nết của bạn học sinh đó.
 	- Miêu tả ngoại hình nhân vật, tôi yêu cầu học sinh thực hiện các yêu cầu sau:
 	 + Tả bao quát về tuổi tác, dáng người (cao hay thấp, mập hay gầy gò, yếu, tầm thước, xương xương, duyên dáng, nhanh nhẹn hay chậm chạp)
 	+ Tả chi tiết: Ở phần này yêu cầu học sinh miêu tả những chi tiết nổi bật nhất, gây ấn tượng để phân biệt bạn với người khác như:
Tả khuôn mặt, diện mạo: bầu bĩnh, trẻ măng, hồng hào, đen sạm rám nắng, xanh xao, chữ điền, trái xoan, vuông vắn, thơ ngây
Tả làn da: nhăn nheo, trắng trẻo, nõn nà, chai cứng, nứt nẻ, hồng hào, ngăm ngăm, bánh mật
Tả đôi mắt: đen huyền, đen láy, trong sáng, u buồn, một mí, mắt bồ câu; tả cái nhìn của đôi mắt đăm đắm, đắm đuối, trìu mến
- Về tả tính tình tôi yêu cầu học sinh trả lời các câu hỏi sau: Tính tình của bạn như thế nào? Lời nói nhẹ nhàng hay gắt gỏng, khoác loác, nhăn nhó, ba hoa hay hiền hòa? Bạn cư xử với người lớn, với bạn bè ra sao? Bạn ấy có hay giúp đỡ bạn bè, người thân không ? Đặc điểm nào của bạn làm em quý bạn nhất? 
 * Viết văn: Học sinh sẽ dựa vào dàn ý đã làm ở các tiết trước có sự hướng dẫn của giáo viên để hoàn thành một bài văn hoàn chỉnh. 
 * Đọc lại bài và sửa lỗi: Trong việc luyện làm văn, khâu đánh giá, sửa chữa là rất quan trọng. Giáo viên cần chấm bài, chữa bài cho từng em thật kĩ lưỡng. Thầy gợi mở, cùng trò trao đổi, giúp học sinh phát hiện ra ưu điểm và nhược điểm trong bài viết của mình ( tự đánh giá bài làm của mình) từ đó biết điều chỉnh, rút kinh nghiệm, khắc phục những tồn tại và phát huy những ưu điểm đã đạt được. Nên tạo không khí trao đổi sôi nổi và thoải mái.
3.3 Giúp học sinh viết đúng và hay ba phần của bài văn
 a) Luyện viết cách mở bài:
Mở bài là phần thứ nhất của bài văn nhằm mục đích giới thiệu đối tượng sẽ tả trong phần thân bài. Vì vậy các em có thể mở bài bằng nhiều cách, tùy đối tượng và cảm hứng của mỗi em. Giáo viên không gò bó, áp đặt, có thể mở bài trực tiếp hoặc gián tiếp, bằng một câu văn hay một đoạn văn nhưng không được phép tách rời nội dung đã xây dựng được. 
Chẳng hạn : Đề bài: Tả một người thân của em.
Với cách mở bài trực tiếp và gián tiếp các em đã được học, tôi giúp các em vận dụng các kiểu mở bài ở trên và mở rộng thêm cho học sinh như sau:
- Mở bài bằng các nêu lý do: Với cách này, tôi giúp học sinh nêu rõ nguyên nhân, dịp nào đó mà ta bắt gặp đối tượng.
Ví dụ: Nhân dịp nghỉ hè, mẹ cho chúng em về quê thăm ngoại. Hình ảnh bà ngoại những ngày bên em cứ in sâu vào tâm trí em.
- Mở bài bằng sự bất chợt: Tức là bất ngờ dùng một âm thanh, một tiếng động nào đó khiến ngưới đọc phải chú ý đến đối tượng.
Ví dụ: A! Ông lên! Ông lên! Tiếng cu Tí reo to ngoài ngõ làm em giật mình. Quay đầu lại, thì ra ông nội em từ quê lên thăm chúng em.
- Mở bài bằng tâm trạng chân thành và cảm xúc: 
Ví dụ: Thời thơ ấu của em đã trôi qua êm đềm ở chốn làng quê thanh bình, trong sự yêu thương, đùm bọc của người thân xung quanh. Bây giờ, tuy đã theo bố mẹ vào Nam nhưng em vẫn nhớ về quê, nơi chôn rau cắt rốn, ở đó có bà, người đã ru em những giấc ngủ tuổi thơ.
 b) Luyện viết phần thân bài:
Thân bài là phần thứ hai của bài văn sau phần mở bài và trước phần kết bài. Thân bài sẽ nói rõ đối tượng đã giới thiệu ở phần mở bài. Phần này tôi giúp học sinh những ý tưởng viết ra phải chân thật đúng với điều mình thấy và cảm nhận từ đối tượng. Học sinh phải chọn lọc chi tiết tiêu biểu thì bài văn mới hay, tránh viết lung mung, tránh sự máy móc.
Ví dụ: Tả hì

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_kinh_nghiem_huong_dan_hoc_sinh_lop_5_lam_cac_bai.doc