SKKN Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 3 học tốt giải toán có lời văn
Trong các môn học ở Tiểu học, cùng với môn Tiếng việt, môn Toán có vai trò rất quan trọng. Ngôn ngữ toán học, các kiến thức toán học là những điều rất cần thiết cho đời sống, sinh hoạt, lao động và học tập cho các môn học khác, đồng thời cũng là cơ sở để học sinh học tiếp lên những lớp trên. Ở bậc Tiểu học, môn Toán là một trong những môn học chiếm vị trí quan trọng. Vì vậy để giúp học sinh nắm được hệ thống kiến thức, kỹ năng cơ bản ban đầu về Toán học không phải là điều dễ dàng, đơn giản. Toán học rất đa dạng và phong phú, có nhiều loại bài toán, ở nhiều dạng khác nhau, trong đó bài toán có lời văn luôn giữ vị trí quan trọng.
Bài toán có lời văn thực chất là những bài toán có trong thực tế cuộc sống. Nội dung bài toán thông qua những câu văn, những quan hệ tương quan và phụ thuộc có liên quan đến thực tế cuộc sống. Cái khó là phải làm sao chỉ ra được các mối quan hệ giữa các yếu tố của bài toán, tìm ra hướng giải, lời giải và phép tính thích hợp với yêu cầu của bài, biết trình bày bài giải một cách ngắn gọn, khoa học. Dạy học sinh giải toán nói chung và giải toán có lời văn có riêng là giúp học sinh rèn luyện những đức tính và phong cách làm việc của người lao động như ý thức vượt khó, thói quen xét đoán, tính cẩn thận chu đáo; rèn cho học sinh tác phong làm việc của người lao động mới: làm việc có ý thức, có kế hoạch, sáng tạo và hăng say, miệt mài trong công việc đồng thời từng bước hình thành và rèn luyện thói quen suy nghĩ có cơ sở, tính độc lập, khắc phục tính rập khuôn, tạo dựng lòng ham thích tìm tòi sáng tạo. Dạy học giải toán có lời văn ở lớp 3 nhằm kế thừa giải toán có lời văn ở các lớp 1 – 2, mở rộng, phát triển nội dung giải toán phù hợp với sự phát triển nhận thức của học sinh lớp 3. Thời lượng dành cho giải toán có lời văn chiếm thời lượng tương đối lớn trong quỹ thời gian dành cho môn toán. Giải toán có lời văn ở Tiểu học nói chung và giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3 nói riêng – học sinh phải tư duy một cách linh hoạt, áp dụng được tất cả các kiến thức, kỹ năng và khả năng đã có vào giải toán, vào các tình huống khác nhau, trong nhiều trường hợp, phải biết vận dụng những dữ liệu, những điều kiện chưa được nêu ra một cách tường minh và chừng mực. Học sinh phải tự năng động trong giải toán, phát huy vai trò trung tâm, tích cực, chủ động của học sinh, vì vậy mạch kiến thức giải toán có lời văn đóng vai trò quan trọng trong nội dung chương trình Toán lớp 3.
PHẦN I: MỞ ĐẦU I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI: Trong các môn học ở Tiểu học, cùng với môn Tiếng việt, môn Toán có vai trò rất quan trọng. Ngôn ngữ toán học, các kiến thức toán học là những điều rất cần thiết cho đời sống, sinh hoạt, lao động và học tập cho các môn học khác, đồng thời cũng là cơ sở để học sinh học tiếp lên những lớp trên. Ở bậc Tiểu học, môn Toán là một trong những môn học chiếm vị trí quan trọng. Vì vậy để giúp học sinh nắm được hệ thống kiến thức, kỹ năng cơ bản ban đầu về Toán học không phải là điều dễ dàng, đơn giản. Toán học rất đa dạng và phong phú, có nhiều loại bài toán, ở nhiều dạng khác nhau, trong đó bài toán có lời văn luôn giữ vị trí quan trọng. Bài toán có lời văn thực chất là những bài toán có trong thực tế cuộc sống. Nội dung bài toán thông qua những câu văn, những quan hệ tương quan và phụ thuộc có liên quan đến thực tế cuộc sống. Cái khó là phải làm sao chỉ ra được các mối quan hệ giữa các yếu tố của bài toán, tìm ra hướng giải, lời giải và phép tính thích hợp với yêu cầu của bài, biết trình bày bài giải một cách ngắn gọn, khoa học. Dạy học sinh giải toán nói chung và giải toán có lời văn có riêng là giúp học sinh rèn luyện những đức tính và phong cách làm việc của người lao động như ý thức vượt khó, thói quen xét đoán, tính cẩn thận chu đáo; rèn cho học sinh tác phong làm việc của người lao động mới: làm việc có ý thức, có kế hoạch, sáng tạo và hăng say, miệt mài trong công việc đồng thời từng bước hình thành và rèn luyện thói quen suy nghĩ có cơ sở, tính độc lập, khắc phục tính rập khuôn, tạo dựng lòng ham thích tìm tòi sáng tạo. Dạy học giải toán có lời văn ở lớp 3 nhằm kế thừa giải toán có lời văn ở các lớp 1 – 2, mở rộng, phát triển nội dung giải toán phù hợp với sự phát triển nhận thức của học sinh lớp 3. Thời lượng dành cho giải toán có lời văn chiếm thời lượng tương đối lớn trong quỹ thời gian dành cho môn toán. Giải toán có lời văn ở Tiểu học nói chung và giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3 nói riêng – học sinh phải tư duy một cách linh hoạt, áp dụng được tất cả các kiến thức, kỹ năng và khả năng đã có vào giải toán, vào các tình huống khác nhau, trong nhiều trường hợp, phải biết vận dụng những dữ liệu, những điều kiện chưa được nêu ra một cách tường minh và chừng mực. Học sinh phải tự năng động trong giải toán, phát huy vai trò trung tâm, tích cực, chủ động của học sinh, vì vậy mạch kiến thức giải toán có lời văn đóng vai trò quan trọng trong nội dung chương trình Toán lớp 3. Bản thân là giáo viên Tiểu học trực tiếp đứng lớp, tôi luôn nhận thấy việc dạy: “Giải các bài toán có lời văn” cho học sinh luôn là vấn đề cần được chú trọng quan tâm. Bởi vì không chỉ đối với học sinh khi tiếp cận với dạng Toán này thường gặp khó khăn, mà đây còn là vấn đề trăn trở của giáo viên trong quá trình giảng dạy, để làm sao cho phù hợp với xu hướng đổi mới phương pháp dạy học hiện nay, đồng thời mang lại hiệu quả cao nhất trong công tác giảng dạy ở nhà trường. Chính vì vậy tôi chọn đề tài: “Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 3 học tốt giải toán có lời văn” với mong muốn góp phần nhỏ bé của mình vào việc nâng cao chất lượng dạy và học toán ở trường Tiểu học Hà Tân. II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU: Đề tài này phần nào giúp các em học sinh học tập môn toán tốt hơn nói chung và giải bài toán có lời văn nói riêng. Bổ sung cho các em một số kiến thức, kỹ năng còn thiếu hụt khi gặp các tình huống khác nhau, giúp các em có kiến thức và dễ nhận dạng toán và giải bài toán có lời văn nhanh hơn. III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU: Đề tài này áp dụng tốt cho học sinh lớp 3 khi gặp các bài toán giải có lời văn. IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: - Tham khảo, thu thập tài liệu. - Phân tích tổng kết kinh nghiệm. - Kiểm tra kết quả chất lượng học sinh. - Phương pháp giảng giải, minh họa PHẦN II: NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM I. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM. Môn Toán có mục tiêu cũng như các môn học khác là góp phần hình thành và rèn luyện các phẩm chất, các đức tính cần thiết của người lao động trong xã hội hiện đại. Môn Toán ở Tiểu học có nhiệm vụ giúp học sinh hình thành các kiến thức cơ bản, đơn giản, có nhiều ứng dụng vào đời sống về số học, các số thập phân bao gồm: cách đọc, viết so sánh các số tự nhiên, phân số, số thập phận. Từ đó rèn kỹ năng để nắm chắc các kỹ năng thực hành tính nhẩm, tính viết về bốn phép tính các số tự nhiên, các số thập phân, số đo đại lượng; có những hiểu biết ban đầu thiết thực nhất về các đại lượng cơ bản như: độ dài, khối lượng, thời gian, thể tích, diện tích, dung tích, tiền Việt Nam và một số đơn vị đo thông dụng nhất của chúng. Biết sử dụng các dụng cụ để thực hành đo lường, biết ước lượng các số đo đơn giản. Đồng thời biết nhận dạng và phân biệt một số hình thường gặp, biết tính chu vi, diện tích, thể tích của một số hình. Biết cách giải và trình bày bài giải với bài toán có lời văn, nắm chắc thực hiện đúng quy trình bài toán và bước đầu biết giải một bài toán bằng các cách khác nhau. Thông qua các hoạt động học toán để pháp triển đúng mức một số khả năng trí tuệ và thao tác tư duy quan trọng: so sánh, phân tích, tổng hợp, trừu tượng hóa, khái quát hóa, cụ thể hóa đồng thời rèn tác phong học tập và làm việc suy nghĩ, có kế hoạch kiểm tra, có tinh thần hợp tác, độc lập và sáng tạo, có ý trí vượt khó cẩn thận, kiên trì, tự tin. Như vậy ta có thể khẳng định rằng giải toán có lời văn là một trong những nội dung quan trọng góp phần thực hiện nhiệm vụ và hoàn thành mục tiêu của môn Toán ở Tiểu học. II.THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ CẦN NGHIÊN CỨU: 1. Thực trạng sách giáo khoa và nội dung chương trình: Chương trình môn toán lớp 3 là một bộ phận của chương trình môn toán tiểu học và là sự tiếp tục chương trình này kế thừa và phát triển những thành tựu về dạy học toán ở nước ta thực hiện đổi mới về nội dung cấu trúc để tăng cường thực hành và ứng dụng kiến thức mới, quan tâm đến đổi mới phương pháp dạy học nhằm giúp học sinh hoạt động học tập tích cực, linh hoạt, sáng tạo theo năng lực của từng học sinh. Giải toán có lời văn ở lớp 3 (không quá hai bước tính) trong đó có một số dạng như: giải toán đơn bằng bốn phép tính ôn lại ở lớp 2 như: các bài toán đơn giản về cộng trừ - hoàn thiện “thêm” “bớt” – bài toán đơn về nhân, chia và bước đầu làm quen về giải toán có nội dung hình học và thêm các dạng như: Tìm một trong các phần bằng nhau của một số, gấp một số lên nhiều lần, giảm đi một số lần, so sánh số lớn gấp mấy lần số bé, so sánh số bé bằng một phần mấy số lớn, giải bài toán bằng hai phép tính, bài toán liên quan rút về đơn vị, bài toán có nội dung hình học, học sinh học tốt nội dung “Giải toán có lời văn ở lớp 3” sẽ tạo tiền đề để các em học tốt nội dung Giải toán có lời văn ở các lớp 4 các em sẽ học toán trung bình cộng, bài toán liên quan đến tổng tỉ, hiệu tỉ,. Cụ thể giải toán có lời văn là một trong 5 mạch kiến thức cơ bản trong chương trình toán lớp 3 (Số học và các yếu tố Đại số, các yếu tố Hình học, đại lượng và đo đại lượng, giải toán có lời văn, một số yếu tố thống kê).[3] 2. Thực trạng việc dạy giải toán có lời văn của giáo viên ở trưởng Tiểu học Hà Tân: Trong quá trình dạy học, giáo viên đã nhận thức được sự cần thiết để đổi mới phương pháp dạy học. Việc đổi mới phương pháp dạy học đã được bản thân tôi và các giáo viên trường Tiểu học Hà Tân áp dụng phổ biến rộng rãi vào tất cả các môn học, tiết học. Đặc trưng của phương pháp dạy học mới là lấy học sinh làm nhân vật trung tâm của quá trình dạy học, còn người giáo viên là người tổ chức, hướng dẫn hoạt động học của học sinh, giúp học sinh huy động tối đa sự hiểu biết và vốn kinh nghiệm của mình một cách tích cực, tự giác để chiếm lĩnh tri thức mới vận dụng các kiến thức đó một cách sáng tạo vào luyện tập thực hành để rèn các kỹ năng mới. Tuy nhiên, trong thực tế giảng dạy giáo viên còn gặp nhiều khó khăn và còn một số tồn tại trong việc dạy học toán có lời văn có ảnh hưởng đến chất lượng dạy học đó là: người giáo viên có ít tài liệu tham khảo; do không có nhiều thời gian để nghiên cứu nên chưa hiểu hết dụng ý của SGK (phần bài học được tô màu xanh) bởi thời gian giành nhiều cho việc lên lớp chứ chưa nói đến mở rộng và nâng cao; một số ít giao viên vẫn còn áp dụng cách dạy cũ khả năng ứng dụng và khai thác công nghệ thông tin, giáo án điện tử vào trong giảng dạy còn hạn chế; một số giáo viên chưa nêu yêu cầu học sinh sáng tạo tìm cách giải, nhiều lúc còn làm thay cho học sinh và có việc sử dụng bộ biểu diễn dạy học toán chưa hiệu quả. 3. Thực trạng việc học giải toán có lời văn của học sinh lớp 3 trường Tiểu học Hà Tân: Học sinh đa số chỉ nắm (hiểu) cách thực hiện giải toán có lời văn ngay trong tiết học nhưng sau đó thì quên, việc vận dụng kỹ năng thực hành nhất là phương pháp giải toán có lời văn SGK Toán 3 “quy trình” thực hiện giải đề toán có lời văn một cách sáng tạo, linh hoạt hay vận dụng vào thực tế thì còn hạn chế nhiều, các em học sinh thường gặp khó khăn khi giải các bài toán có lời văn. Khi gặp dạng toán này các em thường hay lúng túng khi đặt lời giải, trình bày các danh số thường thiếu hoặc thừa. Hơn nữa các bài toán có lời văn thường không có hình vẽ cụ thể (trừ bài mẫu, ở một số dạng) nên giáo viên khó hướng dẫn trong bước tìm hiểu đề bài. Các em thường chưa đọc kỹ đề bài nên chưa xác định được đề toán cho biết gì, bài toán hỏi gì? Chưa nắm được cái gì mà đề bài cho biết, cái gì đề bài yêu cầu phải đi tìm? Câu trả lời thường vừa thừa vừa thiếu, chưa chính xác và đáp số thường không đúng so với yêu cầu của đề bài, nhiều em còn lúng túng khi thực hiện giải toán có lời văn. Còn một số em hiểu đề toán chưa đúng theo nội dung đề cho. Các “tình huống” trong bài toán có lời văn khi hiểu sai lệch nội dung, yêu cầu của đề toán chưa sâu, từ các tình huống cụ thể chưa tự phát hiện ra mối quan hệ giữa các đại lượng (mối quan hệ toán học mà nội dung đề bài toán đã nêu), từ đó các em chon phép tính giải, lời giải không thích hợp. 4. Kết quả của thực trạng: Năm học 2016 – 2017, tôi được phân công giảng dạy lớp 3A. Ngay từ đầu năm nhà trường đã có kế hoạch khảo sát chất lượng học tập của học sinh. Tôi cũng lên kế hoạch khảo sát về chất lượng chất lượng giải toán có lời văn cho lớp mình, để từ đó có kế hoạch giảng và biện pháp dạy học cho phù hợp với từng nhóm đối tượng học sinh. Đề bài khảo sát như sau: (Thời gian khảo sát 35 phút) Bài 1 (2 điểm): Mẹ hái được 29 bông hoa, chị hái được nhiều hơn mẹ 9 bông hoa. Hỏi chị hái được bao nhiêu bông hoa? Bài 2 (2 điểm): Năm nay ông 65 tuổi, bố kém ông 29 tuổi. Hỏi năm nay bố bao nhiêu tuổi? Bài 3 (3 điểm): Giải bài toán theo tóm tắt sau: 10 nhãn vở Em: ? nhãn vở Anh: Bài 4 (3 điểm): Mua 3 bút chì hết 7500 đồng. Hỏi nếu mua hết 5 bút chì như thế thì hết bao nhiêu tiền? Kết quả khảo sát cho thấy: Tổng số Giải thành thạo Kỹ năng giải chậm Chưa nắm được cách giải 29 7em = 24,2% 11 em = 37,9 % 11 em = 37,9 % Qua kết quả khảo sát học sinh lớp 3A tại trường Tiểu học Hà Tân, những biểu hiện của một số học sinh về mặt kiến thức và kĩ năng còn hạn chế như: 1. Chưa hiểu đề bài toán dẫn đến thực hiện chưa đúng. 2. Tóm tắt bài toán còn hạn chế (chưa biết tóm tắt bài toán theo nhiều cách). 3. Không biết lựa chọn phép tính để giải. 4. Viết lời giải sai (kết cấu câu lời giải, thường chú ý đến danh số không bám sát vào câu hỏi, lời giải dài dòng thiếu chặt chẽ, không tương ứng với phép tính giải). 5. Viết phép tính giải sai trong phần bài giải. 6. Ghi đáp số sai. III. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN: 1. Chú trọng khắc sâu kiến thức về giải toán có lời văn cho học sinh: Giáo viên cần nắm vững mục tiêu, nội dung chương trình SGK liên quan đến giải toán có lời văn. Giáo viên phải tìm hiểu kỹ nội dung chương trình Toán lớp 3 để liệt kê được các dạng bài toán giải có lời văn ở lớp 3, sau đó hướng dẫn học sinh nhận biết mỗi dạng và dạy cho học sinh giải dạng toán này như một dạng cơ bản. Đồng thời không ngừng nâng cao kiến thức, kỹ năng sư phạm trong dạy học giải toán có lời văn. Để không ngừng nâng cao kiến thức, kỹ năng sư phạm trong dạy học giải toán có lời văn bản thân tôi luôn học hỏi kinh nghiệm của đồng nghiệp thông qua dự giờ, kiến tập, trao đổi kinh nghiệm khi dạy các bài khó. 2. Coi trọng kỹ năng nhận diện các dạng toán có lời văn: - Khi hướng dẫn học sinh giải các bài toán có lời văn, bản thân giáo viên phải nghiên cứu kỹ sách giáo khoa, hiểu nội dung sách giáo khoa đưa ra. - Trong khi dạy “Giải toán có lời văn” giáo viên không làm thay hoặc áp đặt cách giải mà để học sinh tự tìm ra cách giải bài toán. Tôi tập trung chủ yếu và các bước tóm tắt (bằng ngôn ngữ hoặc bằng sơ đồ đoạn thẳng), phân tích và nhận diện dạng bài toán. a. Giúp học sinh nhận diện dạng toán “Nhiều hơn” Ví dụ 1: Bài tập 1 trong SGK trang 12. [1] Đội một trồng được 230 cây, đội hai trồng được nhiều hơn đội một 90 cây. Hỏi đội hai trồng được bao nhiêu cây? Khi dạy dạng toán này học sinh còn hay nhầm phần tóm tắt bài toán và câu lời giải. Vì vậy dạng toán này tôi tiến hành như sau: - Yêu cầu học sinh đọc đề bài toán. - Giáo viên ra lệnh: Giơ bút chì( cả lớp cùng giơ bút chì). Gạch dưới câu hỏi của bài toán. Giáo viên theo dõi đôn đốc các em làm và giúp đỡ học sinh yếu. - Giáo viên gọi một học sinh đọc xem mình đã gạch dưới câu nào để cả lớp nhận xét. - Cho học sinh tóm tắt bài toán bằng ngôn ngữ hoặc bằng sơ đồ đoạn thẳng. - Bài toán thuộc dạng toán nào? * Lưu ý: - Từ “nhiều hơn” ở bài toán được hiểu như “nhiều hơn”, ngoài ra trong các bài toán khác thuộc dạng toán về nhiều hơn thường có các cụm từ như: hơn, dài hơn, rộng hơn.cũng được hiểu như là “nhiều hơn”. - Giải bài toán về nhiều hơn ở đây là làm phép tính cộng. b. Giúp học sinh nhận diện dạng toán “ít hơn” Ví dụ 2: Bài tập 2 trong SGK trang 12. [1] Một cửa hàng buổi sáng bán được 635l xăng, buổi chiều bán kém buổi sáng 128l xăng. Hỏi buổi chiều cửa hàng bán được bao nhiêu lít xăng? (Hướng dẫn tương tự bài tập 1 SGK toán trang 12) * Lưu ý: - Từ “kém” ở bài toán được hiểu như “ít hơn”, ngoài ra trong các bài toán khác thuộc dạng toán về ít hơn thường có các cụm từ như: ít hơn,kém, ngắn hơn, thấp hơn.cũng được hiểu như là “ít hơn”. - Sau khi học xong hai dạng toán này học sinh phải so sánh được mối quan hệ giữ hai bài toán về “nhiều hơn” và bài toán về “ít hơn”. c. Giúp học sinh nhận diện dạng toán “Gấp một số lên nhiều lần” Ví dụ 3: Bài tập 2 trong SGK trang 33. [1] Con hái được 7 quả cam, mẹ hái được gấp 5 lần số quả cam con hái. Hoi mẹ hái được bao nhiêu quả cam? (Hướng dẫn tương tự bài tập 1 SGK toán trang 12) * Lưu ý: Gấp lên số lần trong bài toán này ta làm phép tính nhân. d. Giúp học sinh nhận diện dạng toán “Giảm đi một số lần” Ví dụ 4: Bài tập 2 trong SGK trang 38. [1] Một cửa hàng buổi sáng bán được 60l dầu, số lít dầu bán được trong buổi chiểu giảm đi 3 lần so với buổi sáng. Hỏi buổi chiều cửa hàng bán được bao nhiêu lít dầu? (Hướng dẫn tương tự bài tập 1 SGK trang 12) * Lưu ý: - Giảm đi một số lần ta làm phép tính chia. - Các bài toán dạng tìm một trong các phần bằng nhau, so sánh số lớn gấp mấy lần số vé e. Giúp học sinh nhận diện dạng toán “Bài toán rút về đơn vị” Ví dụ 5: Bài tập 1 trong SGK trang 129. [1] Có 4500 đồng mua được 5 quả trứng. Hỏi mua 3 quả trứng hết bao nhiê tiền? (Hướng dẫn tương tự bài tập 1 SGK toán trang 12) * Lưu ý: - Bước tìm giá trị của một phần gọi là bước “rút về đơn vị”, thực hiện bằng phép tính chia, đồng thời học sinh cũng phân biệt sự khác nhau và mối liên hệ giữa bài toán giảm đi một số lần và bài toán gấp lên một số lần. [2] - Tập cho học sinh thói quen suy luận để trả lời các câu hỏi. Bài toán cho biết gì? Bài toán bắt ta tìm gì? Sau đó hướng dẫn học sinh tóm tắt bằng lời (hoặc bằng sơ đồ nếu có thể). Dựa vào tóm tắt trình bày lại bài toán, để giúp học sinh tìm ra mối quan hệ giữa các dự liệu trong bài toán từ đó nhớ lại dạng bài tương tự đã học nhận ra kiến thức cần sử dụng để giải bài toán như: Đây là bài toán thuộc dạng nào đã biết, đã học? Mối giải được bài toán cần làm các phép tính gì? Sau đó trình bày ra nháp rồi mới ghi vào bài làm. Để rèn luyện kỹ năng giải toán có lời trong quá trình giảng dạy tôi tiến hành như sau: - Lập kế hoạch bài học theo hướng đổi mới phương pháp. Khi lập kế hoạch bài học tôi nghiên cứu kỹ nội dung SGK kết hợp với vở bài tập và luôn bám sát chuẩn kiến thức kỹ năng các môn học để thiết kế bài học. Mặt khác tôi cũng luôn luôn học hỏi và tìm hiểu xem những bài nếu có thể sử dụng giáo án điện tử phù hợp với mục tiêu của bài dạy tôi liền áp dụng để tiết dạy đạt kết quả tốt. - Tổ chức thực hiện kế hoạch bài học có hiệu quả, phát huy hiệu quả các phương tiện, đồ dùng dạy học sẵn có, các phương tiện hiện đại. 3. Tăng cường việc củng cố kiến thức và kỹ năng giải toán có lời văn cho học sinh: Khi đi vào cụ thể từng bài tôi hướng dẫn cho học sinh: Tìm hiểu kỹ đề bài, hiểu cách diễn đạt bằng lời văn của bài toán. Phân tích đề bài, tìm ra mối liên hệ giữa cái đã cho và cái cần tìm thông qua việc tóm tắt bài toán. Cách đặt lời giải phải dựa vào các câu hỏi của bài toán để đặt chính xác. Cần chú ý đến các danh số trong từng phéo tính giải. - Tổ chức thực hiện kế hoạch bài học có hiệu quả, phát huy hiệu quả của giờ học tôi tiến hành để giúp học sinh nắm được các bước cần thiết của quá trình giải toán có lời văn đó là: + Bước 1: Tìm hiểu kỹ đề bài và tóm tắt, nhận dạng bài toán.[2] + Bước 2: Lập kế hoạch giải.[2] + Bước 3: Thực hiện kế hoạch giải.[2] + Bước 4: Kiểm tra lời giải và cách giải.[2] Khi hướng dẫn học sinh giải các bài toán có lời văn, bản thân giáo viên phải nghiên cứu kỹ nội dung SGK, hiểu nọi dung sách giáo khoa đưa ra. Trong khi dạy “Giải toán có lời văn” học sinh biết cách giải, không làm thay hoặc áp đặt cách giải mà để học sinh tự tìm ra cách giải bài toán. Tôi tập trung chủ yếu vào các bước tóm tắt bài toán (bằng ngôn ngữ hoặc sơ đồ đoạn thẳng), phân tích và nhận diện dạng toán. Để thiết lập được cách giải và thứ tự các bước giải là quá trình phức tạp và khó khăn đòi hỏi các em phải có khái niệm tư duy, khái niệm tổng hợp phân tích. Để thực hiện được điều đó các em phải tiến hành: - Suy nghĩ xem câu hỏi của bài toán cần biết gì? Phải thực hiện phép tính gì? Từ các dữ liệu đã cho và điều kiện của bài toán có thể biết gì? Từ đó tìm ra hướng đi tích cực để giải quyết bài toán. Đối với giáo viên phải hướng dẫn các em phân tích tổng hợp đẻ loại bỏ các yếu tố thừa. Chú ý đến vấn đề kinh nghiệm giải toán cho học sinh.[3] - Trước hết học sinh phải nhận ra bài toán thuộc dạng toán nào hoặc có thể biễn đổi về dạng toán nào? - Tìm ra các mối quan hệ giữa các yếu tố, đại lượng trong bài toán thiết lập mối quan hệ đó. - Bài toán đã cho có tương tự bài toán nào đã biết cách giải toán hay giải rồi hay chưa? - Đưa bài toán về dạng đơn giản hơn. Sau khi học sinh làm bài xong, giáo viên đưa ra một vài tình huống để học sinh kiểm tra lại bài làm của mình. Các tình huống đưa ra là: Bài làm sai, bài làm đúng, bài làm còn thiếu hoặc thừa lời giải hoặc đáp số. Học sinh tự xác định được đâu là bài làm đúng để từ đó rút ra kinh nghiệm giải toán cho bản thân. Khi hướng dẫn học sinh giải các bài toán bằng 2 phép tính với các mối quan hệ trực tiếp và đơn giản. Đây là dạng giải toán có lời văn hay gặp ở lớp 3. Với dạng toán này khi hướng dẫn học sinh giáo viên phải hiểu được ở lớp 2 các em mới giải bài toán có một phép tính. Lên lớp 3 các em mới bắt đầu làm quen với bài toán giải bằng 2 phép tính, dựa trên cơ sở cái học sinh đã học, đã biết đó là bài toán có một phép tính để hướng dẫn học sinh giải. Từ cơ sở phân biệt cái đã cho, cái gì là điều kiện, cái gì cần tìm, để tập trung suy nghĩ vào yếu tố cơ bản. Từ đó giúp học sinh bớt được một số câu, chữ làm cho bài toán gọn lại. Nhờ đó mà quan hệ giữa các số đã cho và số phải tìm hiện ra rõ hơn. Đại đa số các bài toán có lời văn ở lớp 3 đều có thể tóm tắt bằng sơ đồ, hoặc minh họa trên trục số.[3] Có nhiều cách tóm tắt một bài toán. Càng biết nhiều cách càng giải toán giỏi. Ví dụ: Bài 2 trong SGK trang 128. [1] Tóm tắt bài toán bằng lời như sau: Có 7 bao: 28 kg gạo 5 bao như vậy: kg? * Cách tóm tắt bằng sơ đồ: - Bài toán: Lan có 5 cái kẹo, Bình có số kẹo gấp Lan
Tài liệu đính kèm:
- skkn_mot_so_kinh_nghiem_giup_hoc_sinh_lop_3_hoc_tot_giai_toa.doc