SKKN Một số kinh nghiệm dạy đọc thành tiếng cho học sinh lớp 3
Đào tạo thế hệ trẻ trở thành những người năng động, sáng tạo, độc lập tiếp thu tri thức là một vấn đề mà nhiều nhà giáo dục đã và đang quan tâm trong giai đoạn hiện nay. Trong đó bậc tiểu học là bậc học nền móng cho việc hình thành nhân cách, tri thức ở học sinh. Các môn học ở bậc Tiểu học có liên quan mật thiết và cùng hỗ trợ cho nhau. Trong các môn học ở Tiểu học, môn Tiếng Việt là môn vô cùng quan trọng bởi nó là chìa khoá để các em học tốt các môn học khác.
Môn Tiếng Việt ở Trường Tiểu học có nhiệm vụ hình thành năng lực hoạt động ngôn ngữ cho học sinh. Năng lực hoạt động ngôn ngữ thể hiện trong bốn dạng hoạt động, tương ứng với chúng là bốn kĩ năng: nghe, nói, đọc, viết. Môn Tiếng Việt ở Tiểu học gồm nhiều phân môn: Tập đọc, Luyện từ và câu, Chính tả, Kể chuyện, Tập làm văn. Trong đó phân môn Tập đọc là phân môn có vị trí đặc biệt vì nó đảm nhiệm việc hình thành và phát triển cho học sinh kĩ năng đọc – một kĩ năng quan trọng hàng đầu của học sinh bậc tiểu học; nó có nhiệm vụ trau dồi kiến thức tiếng Việt cho học sinh. Bởi phần lớn những tri thức, kinh nghiệm của đời sống, những thành tựu khoa học, tư tưởng tình cảm của các thế hệ trước và của cả những người đương thời phần lớn đã được ghi lại bằng chữ viết. Nếu không biết đọc thì con người không thể tiếp thu được nền văn minh của loài người, không thể làm chủ trong xã hội hiện đại. Hơn nữa, đọc giúp các em chiếm lĩnh được ngôn ngữ dùng trong giao tiếp và học tập. Đọc là một công cụ để học tập các môn học. Đọc tạo ra hứng thú và động cơ học tập, tạo điều kiện để học sinh có khả năng tự học và học suốt đời. Nó là khả năng không thể thiếu của con người thời đại văn minh. Đọc trở thành một đòi hỏi cơ bản đầu tiên của trẻ em. Đầu tiên các em phải học đọc, sau đó phải đọc để học. Chính vì thế, dạy đọc có ý nghĩa to lớn ở Tiểu học.
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ KINH NGHIỆM DẠY ĐỌC THÀNH TIẾNG CHO HỌC SINH LỚP 3 Người thực hiện: Nguyễn Thị Thanh Chức vụ: Giáo viên Đơn vị công tác: Trường TH Nguyễn Bá Ngọc SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Tiếng Việt THANH HÓA NĂM 2017 MỤC LỤC A. Nội dung I. Lí do chọn đề tài Trang 1 II. Mục đích nghiên cứu Trang 2 III. Đối tượng nghiên cứu Trang 2 IV. Phương pháp nghiên cứu Trang 2 B. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm I. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm Trang 3 II. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm Trang 4 III. Giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề Trang 5 IV.Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường Trang 13 C. Kết luận, kiến nghị I. Kết luận Trang 15 II. Kiến nghị Trang 16 A. MỞ ĐẦU. I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI Đào tạo thế hệ trẻ trở thành những người năng động, sáng tạo, độc lập tiếp thu tri thức là một vấn đề mà nhiều nhà giáo dục đã và đang quan tâm trong giai đoạn hiện nay. Trong đó bậc tiểu học là bậc học nền móng cho việc hình thành nhân cách, tri thức ở học sinh. Các môn học ở bậc Tiểu học có liên quan mật thiết và cùng hỗ trợ cho nhau. Trong các môn học ở Tiểu học, môn Tiếng Việt là môn vô cùng quan trọng bởi nó là chìa khoá để các em học tốt các môn học khác. Môn Tiếng Việt ở Trường Tiểu học có nhiệm vụ hình thành năng lực hoạt động ngôn ngữ cho học sinh. Năng lực hoạt động ngôn ngữ thể hiện trong bốn dạng hoạt động, tương ứng với chúng là bốn kĩ năng: nghe, nói, đọc, viết. Môn Tiếng Việt ở Tiểu học gồm nhiều phân môn: Tập đọc, Luyện từ và câu, Chính tả, Kể chuyện, Tập làm văn. Trong đó phân môn Tập đọc là phân môn có vị trí đặc biệt vì nó đảm nhiệm việc hình thành và phát triển cho học sinh kĩ năng đọc – một kĩ năng quan trọng hàng đầu của học sinh bậc tiểu học; nó có nhiệm vụ trau dồi kiến thức tiếng Việt cho học sinh. Bởi phần lớn những tri thức, kinh nghiệm của đời sống, những thành tựu khoa học, tư tưởng tình cảm của các thế hệ trước và của cả những người đương thời phần lớn đã được ghi lại bằng chữ viết. Nếu không biết đọc thì con người không thể tiếp thu được nền văn minh của loài người, không thể làm chủ trong xã hội hiện đại. Hơn nữa, đọc giúp các em chiếm lĩnh được ngôn ngữ dùng trong giao tiếp và học tập. Đọc là một công cụ để học tập các môn học. Đọc tạo ra hứng thú và động cơ học tập, tạo điều kiện để học sinh có khả năng tự học và học suốt đời. Nó là khả năng không thể thiếu của con người thời đại văn minh. Đọc trở thành một đòi hỏi cơ bản đầu tiên của trẻ em. Đầu tiên các em phải học đọc, sau đó phải đọc để học. Chính vì thế, dạy đọc có ý nghĩa to lớn ở Tiểu học. Việc dạy và học Tiếng Việt ở Trường Tiểu học đang đặt ra rất nhiều vấn đề cần giải quyết. Có rất nhiều cán bộ nghiên cứu và nhà giáo tâm huyết đã bỏ công sức đi sâu nghiên cứu, tìm tòi tổng kết kinh nghiệm về việc dạy tiếng mẹ đẻ. Năm học 2016 – 2017, PGD thành phố Thanh Hóa cũng đã triển khai chuyên đề “Nói chuẩn, viết chuẩn tiếng phổ thông” đến các trường học. Vấn đề nóng hổi đang đặt ra là làm thế nào để học sinh biết đọc đúng tiếng phổ thông, biết nói chuẩn, viết chuẩn, sử dụng Tiếng Việt một cách thành thạo, giúp các em biểu đạt tư tưởng, tình cảm của mình bằng tiếng mẹ đẻ ngày càng chính xác, phong phú và sinh động hơn. Chất lượng giáo dục hiện nay nói chung và chất lượng đọc thành tiếng ngày một được nâng lên, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. Song trong thực tế, chúng ta phải thẳng thắn thừa nhận rằng bên cạnh một số học sinh đọc đạt theo yêu cầu nhưng vẫn còn không ít học sinh chưa đọc được theo yêu cầu, mục tiêu của bài học. Kết quả đọc của các em chưa đáp ứng được yêu cầu của việc hình thành kĩ năng đọc. Phần lớn các em đọc bị ảnh hưởng rất nhiều bởi tiếng địa phương. Các em chưa nắm chắc công cụ hữu ích để lĩnh hội tri thức, tư tưởng, tình cảm của tác giả chứa đựng trong văn bản được đọc. Chính sự hạn chế này đã làm ảnh hưởng đến chất lượng học tập các môn học khác nhất là môn Toán. Đây là vấn đề hiện nay luôn được các nhà trường và xã hội quan tâm và tìm giải pháp để khắc phục. Trước thực trạng này tôi rất băn khoăn và lo lắng làm sao để các em đọc đúng, đọc nhanh, đọc hay. Đây chính là vấn đề mà tôi rất quan tâm và nó luôn thôi thúc tôi trong suốt quá trình dạy học. Thật may mắn cho tôi, trong năm học này, tôi được phân công giảng dạy lớp 3A . Đó là điều kiện tốt giúp tôi tìm hiểu rõ về đặc điểm tâm sinh lí của các em, thực trạng của việc đọc và đề ra các biện pháp để rèn kĩ năng đọc cho các em. Bên cạnh đó, trong quá trình công tác tại Trường Tiểu học Nguyễn Bá Ngọc, những khó khăn mà tôi gặp phải luôn được sự quan tâm của Ban giám hiệu nhà trường và tập thể đồng nghiệp chia sẻ. Chính sự chia sẻ nhiệt tình đó đã góp phần tạo nên nhiều kinh nghiệm hữu ích được áp dụng thành công. Trong đó, sáng kiến kinh nghiệm về dạy đọc thành tiếng cho học sinh là vấn đề mà tôi và đồng nghiệp hết sức quan tâm. Với những lí do trên, ngay đầu năm học, tôi đã mạnh dạn áp dụng sáng kiến kinh nghiệm: “Một số kinh nghiệm dạy đọc thành tiếng cho học sinh lớp 3” vào việc dạy đọc thành tiếng cho học sinh ở lớp 3A, Trường Tiểu học Nguyễn Bá Ngọc . II.MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU - Tôi nghiên cứu đề tài này nhằm mục đích nâng cao chất lượng học sinh chưa hoàn thành, giúp học sinh biết đọc đúng tiếng phổ thông, biết nói chuẩn, viết chuẩn, sử dụng Tiếng Việt một cách thành thạo, giúp các em biểu đạt tư tưởng, tình cảm của mình bằng tiếng mẹ đẻ ngày càng chính xác, phong phú và sinh động hơn. Từ đó giúp các em làm giàu kiến thức về ngôn ngữ đời sống và văn học. III.ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU - Tìm hiểu nội dung, phương pháp dạy đọc thành tiếng cho học sinh lớp 3 đúng tiếng phổ thông. - Tiến hành thực nghiệm IV.PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU - Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết - Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin. - Phương pháp thống kê, xử lí số liệu. B. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM I. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM: 1. Cơ sở tâm sinh lí lứa tuổi học sinh Tiểu học: Học sinh lớp 3 – con người với cấu tạo đầy đủ các bộ phận của một cơ thể đang phát triển. Trong đó, cơ quan cấu âm, ngôn ngữ phát triển mạnh phù hợp với sự tiếp nhận dễ dàng các hoạt động mới theo chức năng của chúng. Đó là làm quen với Tập đọc. Sự phát triển tâm sinh lí của học sinh lớp 3 đang ở sự giao thời của lứa tuổi sao nhi đồng và lứa tuổi thiếu niên. Ở lứa tuổi này khả năng nhận thức, tư duy, tưởng tượng, tình cảm, trí nhớ và nhân cách học sinh đang được hình thành, tiềm tàng khả năng phát triển. Song sự phát triển tâm lí, tri thức kinh nghiệm chưa được nhiều, chưa nhận thức đầy đủ, khái quát mà các em thiên về nhận thức trong những trường hợp, hoàn cảnh cụ thể. Các em rất hồn nhiên, ngây thơ, trong sáng, hiếu động, tò mò, thích hoạt động khám phá. Thầy cô là hình tượng mẫu mực nhất được trẻ tôn sùng. Dạy Tập đọc cho học sinh Tiểu học bước đầu đem đến sự vận động khoa học cho bộ não, các cơ quan phát âm và ngôn ngữ; đem đến những tinh hoa văn hoá, văn học nghệ thuật trong tâm hồn trẻ, rèn luyện tình cảm đạo đức, ý chí, ý thức hành động đúng cho trẻ, phát triển khả năng học các môn học khác, là điều kiện phát triển toàn diện cho học sinh tiểu học. Chính vì vậy, dạy đọc cho học sinh Tiểu học phải phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí của học sinh Tiểu học đồng thời phải phù hợp với sự phát triển của khoa học xã hội. 2. Cơ sở ngôn ngữ học: Tiếng Việt là chữ ghi âm, nghĩa là viết như thế nào thì đọc như thế ấy. Đọc là một dạng hoạt động ngôn ngữ, là quá trình chuyển từ hình thức chữ viết sang hình thức nói có âm thanh và thông hiểu nó, là quá trình chuyển trực tiếp từ hình thức chữ viết thành đơn vị nghĩa không có âm thanh (đọc thầm). Đọc là một hoạt động trí tuệ phức tạp, là sự tiếp nhận thông tin bằng chữ viết dựa vào hoạt động của cơ quan thị giác. Đọc bao gồm những yếu tố như: Tiếp nhận bằng mắt, hoạt động của cơ quan phát âm, cơ quan thính giác và thông hiểu những gì đọc được. Nhiệm vụ của sự phát triển kĩ năng đọc là đạt đến sự tổng hợp giữa các mặt riêng lẻ này của quá trình đọc. Phương pháp của dạy Tập đọc phải dựa trên những cơ sở của ngôn ngữ học như: chính âm, chính tả, chữ viết, nghĩa của từ, câu, đoạn, văn bản, ngữ điệu, tình cảm ngôn ngữ. Đây cả là một nghệ thuật, nghệ thuật trong lao động dạy học sáng tạo của người thầy Tiểu học. Dạy Tập đọc sẽ càng tinh tế, càng sáng tạo, càng hiệu quả khi ta nghiên cứu vận dụng tốt những thành tựu của ngôn ngữ học. 3. Cơ sở của phương pháp dạy học Tiểu học: Tập đọc là phân môn thực hành. Nhiệm vụ quan trọng của nó là hình thành năng lực đọc cho học sinh. Năng lực đọc được tạo nên từ bốn kĩ năng: đọc đúng, đọc nhanh, đọc có ý thức và đọc hay. Kĩ năng đọc có nhiều mức độ, tầng bậc khác nhau. Đọc không chỉ là công việc giải quyết bộ mã gồm 2 phần: chữ viết – phát âm. Nó không chỉ là sự “đánh vần” theo đúng các kí hiệu chữ viết. Mức độ kĩ năng được tăng dần, chúng hỗ trợ lẫn nhau và cái đích cuối cùng là kĩ năng đọc hiểu tức là đọc hiểu văn bản. Học sinh có hiểu văn bản thì mới giáo dục được sự ham đọc sách. Từ đó giúp các em làm giàu kiến thức về ngôn ngữ đời sống và văn học. Như vậy ta thấy phương pháp dạy Tập đọc nói chung và dạy Tập đọc ở lớp 3 nói riêng phải dựa trên cơ sở thực hiện các nhiệm vụ giáo dục, giáo dưỡng và phát triển. Đây là việc làm thiết thực mà mỗi giáo viên đứng lớp như chúng ta cần suy nghĩ tìm cách dạy như thế nào để nâng cao hiệu quả các giờ Tập đọc nói chung và dạy đọc thành tiếng cho học sinh lớp 3 nói riêng. II. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ TRƯỚC KHI ÁP DỤNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 1.Về giáo viên: Trong những năm qua, ban giám hiệu và tập thể giáo viên Trường Tiểu học Nguyễn Bá Ngọc rất chú trọng công tác đổi mới phương pháp dạy học và tìm biện pháp nâng cao chất lượng đọc ở từng khối lớp. Đội ngũ giáo viên có trình độ chuyên môn tương đối đồng đều, nhiệt tình, thân thiện, luôn quan tâm đến từng đối tượng học sinh. Hiện nay, việc thực hiện đổi mới công tác dạy và học theo hướng khoán chất lượng cho phép giáo viên chủ động thời lượng trong từng phân môn, từng tiết học để kèm cặp học sinh rất có hiệu quả. Nhìn chung giáo viên đều nắm vững nội dung kiến thức và phương pháp dạy học cũng như phương pháp rèn đọc thành tiếng ở từng khối lớp. Tuy nhiên vấn đề rèn đọc thành tiếng nói chung và rèn đọc thành tiếng khối 3 nói riêng cũng là vấn đề khó khăn với không ít giáo viên. Nguyên nhân học sinh đọc chưa được như yêu cầu mong muốn không phải hoàn toàn là ở học sinh mà một phần ảnh hưởng không nhỏ ở người giáo viên. Qua quá trình công tác, bản thân nhận thấy vẫn còn một bộ phận nhỏ giáo viên chưa chú ý quan sát đến các đối tượng học sinh; chưa tìm tòi nhiều phương pháp dạy học tốt kích thích tính tích cực, chủ động của học sinh; chưa thật sự quan tâm, tìm hiểu đến hoàn cảnh gia đình của từng học sinh. Trong quá trình rèn đọc thành tiếng, cụ thể là khi gặp đối tượng học sinh tiến bộ không được như mong muốn thì tỏ ra buông xuôi, nhụt chí, làm cho quá trình rèn đọc thành tiếng bị bỏ nửa chừng, hiệu quả không cao. Sự buông xuôi đó dẫn đến giáo viên chưa tìm ra phương pháp tối ưu cho từng đối tượng. Bên cạnh đó, một phần cũng là do bản thân mỗi giáo viên có một năng lực, một thế mạnh riêng. Có giáo viên mạnh về các môn tự nhiên nhưng cũng có giáo viên lại mạnh về các môn xã hội. Mà đặc điểm ở cấp tiểu học, mỗi giáo viên đều phải dạy tất cả các môn tự nhiên cũng như xã hội. Đây quả là một khó khăn rất lớn với những giáo viên mạnh về môn tự nhiên đi tìm phương pháp rèn đọc thành tiếng – một phân môn thuộc bên xã hội. Hơn thế, giáo viên Tiểu học hiện nay phải dạy 2 buổi/ ngày, song song với việc phụ đạo học sinh yếu, mỗi giáo viên không thể lơ là công tác phát hiện, bồi dưỡng học sinh giỏi. Chính vì thế, giáo viên không đủ thời gian tự học, tự bồi dưỡng, thời gian gặp gỡ phụ huynh học sinh ít nên khó có sự phối kết hợp rèn đọc cho học sinh giữa giáo viên và gia đình dẫn đến hiệu quả rèn đọc thành tiếng không cao. 2. Về học sinh: Qua nhiều năm làm công tác giảng dạy và dạy lớp 3A năm học 2016 -2017, bản thân tôi đã nhận thấy: - Sự phát triển tâm sinh lí của học sinh lớp 3 đang ở sự giao thời của lứa tuổi sao nhi đồng và lứa tuổi thiếu niên. Ở lứa tuổi này tư duy cụ thể của các em đang chuyển dần sang tư duy trừu tượng, sự ghi nhớ có chủ định ngày một phát triển hơn. Song sự phát triển tâm lí, tri thức, kinh nghiệm chưa được nhiều, chưa nhận thức đầy đủ, khái quát mà các em vẫn thiên về nhận thức trong những trường hợp, hoàn cảnh cụ thể. - Nhìn chung động cơ học tập của các em tương đối tốt. Tuy nhiên, tuy cùng hưởng thụ một nội dung chương trình giáo dục như nhau, nhưng mỗi học sinh lại có sự phát triển về thể chất và trí tuệ, bộ phận cấu âm, sự hoàn thiện bộ phận cấu âm, điều kiện hoàn cảnh sống và sự quan tâm chăm sóc ở gia đình, có động cơ và thái độ học tập, năng lực học tập và khả năng tiếp thu bài khác nhau nên khả năng đọc thành tiếng của các em trong lớp không đồng đều. Nhưng nhìn chung các em đã biết đọc thành tiếng bài văn, bài thơ, đã để ý đến đọc đúng các phụ âm khó. Để nắm vững tình hình đọc thành tiếng ở lớp tôi chủ nhiệm, ngay đầu năm học, tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng đọc của học sinh. Thời gian khảo sát: Ngày 15/ 9/ 2016. Đối tượng khảo sát: Học sinh lớp 3A Trường tiểu học Nguyễn Bá Ngọc . Nội dung khảo sát: Đọc 2 bài: - Ai có lỗi (Tiếng Việt 3 – Tập 1 trang 12). - Khi mẹ vắng nhà. (Tiếng Việt 3 – Tập 1 trang 15). Kết quả khảo sát chất lượng đọc thành tiếng đầu năm ở lớp 3A: Tổng số học sinh Hoàn thành tốt Hoàn thành Chưa hoàn thành SL TL SL TL SL TL 28 em 7 25% 15 53,6% 6 21,4% Qua quá trình khảo sát tôi thấy học sinh còn mắc những lỗi sau: - Đọc sai những tiếng có thanh hỏi, thanh ngã. - Đọc lẫn những tiếng có phụ âm đầu: ch/ tr ; p/b. - Đọc sai do phát âm tiếng địa phương: những tiếng có nguyên âm đôi uô, iê, ươ; một số tiếng chứa vần “ac” thành tiếng có vần “at”. - Ngắt nghỉ ở một số câu văn dài chưa đúng, đọc sai nhịp thơ dẫn đến đọc ê a ngắc ngứ, đọc còn chậm. Bên cạnh đó một số em lại đọc liến thoắng và đọc chưa đúng ngữ điệu. - Một số em đọc quá nhỏ, lại có em đọc quá to, phần luyện đọc lại các em không thể hiện được giọng đọc của bài, khả năng thể hiện tâm tư tình cảm của tác giả qua giọng đọc còn hạn chế. Từ thực trạng trên, để việc rèn đọc thành tiếng đạt kết quả cao hơn tôi mạnh dạn đưa ra một số biện pháp để rèn đọc thành tiếng cho học sinh lớp 3 Trường Tiểu học Nguyễn Bá Ngọc . . III. GIẢI PHÁP ĐÃ SỬ DỤNG ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 1. Luyện đọc đúng(phát âm đúng): Đọc đúng là tái hiện âm thanh của bài học một cách chính xác, không có lỗi. Đọc đúng là không đọc thừa, không sót tiếng. Đọc đúng phải thể hiện được hệ thống ngữ âm chuẩn, tức là đọc đúng chính âm, đọc đúng bao gồm đọc đúng các âm, các thanh, đọc đúng trọng âm, ngắt nghỉ đúng chỗ. Chính vì thế, luyện đọc đúng cho học sinh sẽ khắc phục được những lỗi học sinh thường đọc sai ở mọi khối lớp cũng như những lỗi học sinh thường đọc sai lớp tôi thực nghiệm. Cụ thể luyện đọc đúng sẽ khắc phục được những lỗi học sinh lớp tôi thực nghiệm mắc phải đó là: - Đọc sai những tiếng có thanh hỏi, thanh ngã. - Đọc lẫn những tiếng có phụ âm đầu: ch/ tr ; p/b. - Đọc sai do phát âm tiếng địa phương: những tiếng có nguyên âm đôi uô, iê, ươ; một số tiếng chứa vần “ac” thành tiếng có vần “at”. - Ngắt nghỉ ở một số câu văn dài chưa đúng, đọc sai nhịp thơ dẫn đến đọc ê a ngắc ngứ, đọc còn chậm bên cạnh đó một số em lại đọc liến thoắng và đọc chưa đúng ngữ điệu. 1.1. Luyện đọc đúng chính âm: 1.1.1. Luyện đọc đúng các tiếng có thanh hỏi, thanh ngã. Ở địa phương nơi tôi công tác thì hầu như các em đọc các tiếng có thanh ngã thành các tiếng có thanh hỏi. Ví dụ: “Cũng như tôi, mấy học trò mới bỡ ngỡ đứng nép bên người thân, chỉ dám đi từng bước nhẹ. Họ như con chim nhìn quãng trời rộng muốn bay nhưng còn ngập ngừng e sợ.” Đây là một đoạn trong bài “Nhớ lại buổi đầu đi học” (Tiếng Việt 3 – Tập 1 trang 51) học sinh đã đọc thành: “ Củng như tôi, mấy học trò mới bở ngở đứng nép bên người thân, chỉ dám đi từng bước nhẹ. Họ như con chim nhìn quảng trời rộng muốn bay nhưng còn ngập ngừng e sợ.” Các biện pháp sửa lỗi: Vấn đề đặt ra ở đây là phải rèn cho học sinh đọc đúng các tiếng có thanh ngã trong đoạn văn. Trước tiên, tôi đọc mẫu chính xác để học sinh lắng nghe tìm ra sự khác nhau về âm thanh của từng tiếng có thanh hỏi và tiếng có chứa thanh ngã như: lả/ lã; chả/ chã; lẻo/ lẽo;... Sau đó, hướng dẫn các em cách phát âm để học sinh nhận ra sự khác nhau trong cách phát âm: Những tiếng có thanh ngã phát âm ra nhẹ hơn, âm vang hơn, ngân hơn những tiếng có thanh hỏi. Rồi cho nhiều học sinh phát âm những tiếng có thanh ngã nhiều lần rồi mới luyện đọc cả câu. Ngoài cách sửa lỗi trên ta còn có thể hướng dẫn sửa lỗi cho học sinh bằng cách sau: - Đầu tiên chắp các tiếng có cùng thanh, cùng vần với tên gọi thanh. Ví dụ: Hỏi: mỏi, khỏi, giỏi, sỏi,... Ngã: xã, đã, giã, lã,... - Tiếp theo chắp tiếng cùng thanh, cùng loại âm tiết với tên gọi thanh. Ví dụ: Hỏi: thổi, hảo, phải, đảo,... Ngã: lễ, rễ, cũ,... - Cuối cùng là chắp bất kì âm đầu vào các vần với thanh và cho học sinh đọc lại nhiều lần để trở thành kĩ năng, kĩ xảo. 1.1.2. Sửa lỗi đọc lẫn các tiếng có phụ âm đầu: ch/ tr ; p/b: Trong quá trình dạy tập đọc và đi dự giờ của đồng nghiệp tôi phát hiện học sinh phát âm đang còn lẫn giữa ch/tr; p/b. Ví dụ: “ Pác Bó” đọc thành “ Bác Bó” “ đèn pin” đọc thành “ đèn bin” “ học trò” đọc thành “ học chò” “ trâm bầu” đọc thành “ châm bầu” Các biện pháp sửa lỗi: - Đọc mẫu đúng chuẩn cho học sinh đọc theo. - Luyện phát âm bằng biện pháp cấu âm: + Hai âm ch/ tr khác nhau về mặt âm thanh tính nên cách đọc khác nhau. Khi đọc âm “ch” môi hở hơi hẹp, đẩy lưỡi ra ép sát hai hàm răng, hơi thoát ra ở răng nhẹ nghe như có tiếng gió. Còn khi đọc âm “ tr” cuộn cong và rút ngắn đầu lưỡi đầu lưỡi ép sát lợi, hơi thoát ra mạnh ở điểm đầu lưỡi. + Tôi cũng chỉ ra cho học sinh thấy hai âm “ p” và “ b” khác nhau về mặt âm thanh tính nên cách đọc khác nhau. Khi đọc âm “ b” thì đặt lòng bàn tay trước miệng, một tay đặt tay lên thanh quản và khi phát âm các em cảm nhận được độ rung nhẹ của thanh quản và không thấy luồng hơi phát ra. Còn khi đọc âm “ p” thì bặm hai môi lại và bật hơi qua môi mạnh hơn tạo âm “ p” ta thấy dây thanh rung mạnh và có luồng hơi từ miệng phát ra đập vào lòng bàn tay. Cho các em làm lại như trên nhưng đọc thành tiếng: chim Piêu, bác, bà, Sa Pa,... - Luyện cho học sinh đọc cá nhân nối tiếp nhiều lần, chú ý đến các em đọc yếu hay đọc sai để chỉnh sửa, uốn nắn dần. Tôi lắng nghe để phát hiện những âm nào còn vướng mắc thì tập trung rèn để các em đó đọc đúng hơn. Nếu em nào có tiến bộ thì tôi động viên khen kịp thời để lần sau không mắc sai lầm. 1.1.3. Sửa lỗi phát âm do lỗi tiếng địa phương: Để luyện phát âm đúng cho học sinh trước hết và thực chất phải giải quyết vấn đề phương ngữ. Mục tiêu của chúng ta đặt ra là luyện cho học sinh vươn đến một tiếng nói dân tộc Việt thống nhất, đẹp đẽ về mặt âm thanh. Muốn như vậy chúng ta cần phải luyện cho học sinh đọc đúng, hay trong phạm vi giao tiếp rộng hơn phương ngữ hẹp của mình. Trong lớp tôi chủ nhiệm và đi dự giờ của đồng nghiệp thì nhiều học sinh đọc theo thói quen. Một số em đọc một số tiếng chứa vần “ac” thành tiếng có vần “at”. Cụ thể đọc: “thuần phác” thành “thuần phát” “vịt” thành “vịch” Một số học sinh phát âm sai những tiếng có nguyên âm đôi: ươ. Ví dụ: “rượu” thành “riệu” Các biện pháp sửa lỗi: - Để khắc phục lỗi phát âm trên tôi đã lưu ý học sinh trước khi đọc chú ý nhìn đúng tiếng mình đọc trong bài, không đọc tuỳ tiện những tiếng giống tiếng nói hay dùng sai trong thói quen. Khi phát hiện em nào đọc sai thì chính em đó đọc lại, sửa lại cho đúng nếu trong trường hợp em đọc chưa đúng thì tôi giúp đỡ để em đánh vần lại. Ví dụ: Tiếng “ phác” đánh vần là: phờ – ác – phác – sắc – phác. Tiếng “ vịt” đánh vần là: vờ – ít – vít – nặng – vịt. Tiếng “ rượu” đá
Tài liệu đính kèm:
- skkn_mot_so_kinh_nghiem_day_doc_thanh_tieng_cho_hoc_sinh_lop.doc