SKKN Một số kinh nghiệm bồi dưỡng năng lực thi của học sinh nhằm đạt kết quả cao trong kì thi thpt quốc gia qua dạy phần lịch sử Việt Nam lớp12
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo nêu rõ: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học ”. Để thực hiện tốt mục tiêu về đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT theo Nghị quyết số 29-NQ/TW, cần có nhận thức đúng về bản chất của đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng lực người học.
Môn lịch sử ở trường phổ thông có vị trí chức năng và nhiệm vụ quan trọng
trong việc đào tạo và giáo dục thế hệ trẻ. Tuy nhiên, Lịch sử là một môn học đặc thù với những chuỗi sự kiện, diễn biến đã diễn ra trong quá khứ. Vì vậy, nhiệm vụ của dạy học lịch sử là khôi phục lại bức tranh quá khứ để từ đó rút ra bài học từ quá khứ, vận dụng nó vào trong cuộc sống hiện tại và tương lai.
Hưởng ứng công cuộc đổi mới trong giáo dục ở nước ta hiện nay mà trọng tâm của đổi mới chương trình và sách giáo khoa giáo dục phổ thông là tập trung đổi mới phương pháp dạy học, chuyển từ nền giáo dục mang tính hàn lâm, kinh viện, xa rời thực tiễn sang một nền giáo dục chú trọng việc hình phát huy tính chủ động, sáng tạo của người học, biết vận dụng kiến thức đã học để giải quyết các tình huống thực tiễn nảy sinh, từ đó phát triển tư duy độc lập, phát triển năng lực, tạo niềm tin và vui thích trong học tập cho học sinh, nhất là đối với học tập môn Lịch sử - môn góp phần dạy chữ và dạy người .
MỤC LỤC Trang 1. MỞ ĐẦU 1 1.1. Lí do chọn đề tài: 1 1.2. Mục đích nghiên cứu: 1 1.3 Đối tượng nghiên cứu: 2 1.4 Phương pháp nghiên cứu: 2 2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM: 3 2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm: 3 2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm: 4 2.3. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề: 5 2.3.1. Một số phương pháp , kĩ năng ôn luyện và làm bài thi: 5 2.3.2. Đề thi có sự đổi mới - giáo viên phải thay đổi cách dạy: 13 2.4. Hiệu quả sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường. 14 2.4.1. Đối tượng kiểm nghiệm: 15 2.4.2. Cơ sở thực nghiệm: 15 2.4.3. Kết quả kiểm nghiệm: 15 3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ: 3.1. Kết luận: 3.2. Đề xuất: 17 Tài liệu tham khảo 18 1. MỞ ĐẦU 1.1. Lí do chọn đề tài: Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo nêu rõ: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học”. Để thực hiện tốt mục tiêu về đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT theo Nghị quyết số 29-NQ/TW, cần có nhận thức đúng về bản chất của đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng phát triển năng lực người học. Môn lịch sử ở trường phổ thông có vị trí chức năng và nhiệm vụ quan trọng trong việc đào tạo và giáo dục thế hệ trẻ. Tuy nhiên, Lịch sử là một môn học đặc thù với những chuỗi sự kiện, diễn biến đã diễn ra trong quá khứ. Vì vậy, nhiệm vụ của dạy học lịch sử là khôi phục lại bức tranh quá khứ để từ đó rút ra bài học từ quá khứ, vận dụng nó vào trong cuộc sống hiện tại và tương lai. Hưởng ứng công cuộc đổi mới trong giáo dục ở nước ta hiện nay mà trọng tâm của đổi mới chương trình và sách giáo khoa giáo dục phổ thông là tập trung đổi mới phương pháp dạy học, chuyển từ nền giáo dục mang tính hàn lâm, kinh viện, xa rời thực tiễn sang một nền giáo dục chú trọng việc hình phát huy tính chủ động, sáng tạo của người học, biết vận dụng kiến thức đã học để giải quyết các tình huống thực tiễn nảy sinh, từ đó phát triển tư duy độc lập, phát triển năng lực, tạo niềm tin và vui thích trong học tập cho học sinh, nhất là đối với học tập môn Lịch sử - môn góp phần dạy chữ và dạy người . Vậy làm thế nào phát triển được năng lực của học sinh trong quá trình học tập môn Lịch sử để học sinh đạt điểm cao trong kì thi THPT quốc gia? Đó là điều bản thân tôi hết sức trăn trở. Trong những năm vừa qua trong quá trình công tác, bản thân tôi đã có nhiều đổi mới trong phương pháp dạy học nhằm phát huy năng lực học tập của học sinh, nhất là phát huy năng lực học sinh trong quá trình làm bài thi ở kì thi trung học phổ thông quốc gia để đạt điểm cao và bước đầu đạt được kết quả khả quan. Với lí do đó tôi mạnh dạn đưa ra Một số kinh nghiệm bồi dưỡng năng lực thi của học sinh nhằm đạt kết quả cao trong kì thi THPT quốc gia qua dạy phần Lịch sử Việt Nam lớp12. 1.2. Mục đích nghiên cứu: Khi tiến hành nghiên cứu, tôi đã đặt ra mục tiêu cho đề tài là: - Phải thay đổi được thực trạng dạy và học môn Lịch sử ở trường Trung học phổ thông hiện nay. - Phải phát triển được tối đa năng lực học sinh trong quá trình làm bài thi ở kì thi trung học phổ thông quốc gia môn Lịch sử để đạt điểm cao. - Nâng cao được kết quả học tập môn Lịch sử ở trường Trung học phổ thông. - Tạo động lực để thúc đảy đổi mới phương pháp dạy và học môn Lịch sử ở trường phổ thông. 1.3 Đối tượng nghiên cứu: - Đối tượng nghiên cứu của đề tài là rút ra một số kinh nghiệm nhằm bồi dưỡng năng lực thi của học sinh trường THPT Triệu Sơn 3, khi tham gia kì thi THPT quốc gia để đạt điểm cao. 1.4 Phương pháp nghiên cứu: Để nghiên cứ đề tài tôi đã sử dụng các phương pháp sau: - Phương pháp phân tích, giải thích, tổng hợp - Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết - Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin - Phương pháp thống kê xử lí số liệu. 2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM: 2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm: Dạy học môn Lịch sử theo định hướng phát triển năng lực học sinh trong nhà trường THPT là mục tiêu đổi mới giáo dục ở nước ta hiện nay. Tuy nhiên để đạt được kết quả như mong muốn, đòi hỏi giáo viên phải tìm tòi, đầu tư nghiên cứu, đặc biệt phải biết lựa chọn và vận dụng phù hợp, sáng tạo các phương pháp, kĩ thuật dạy học với từng nội dung, từng đối tượng học sinh. Làm được việc này sẽ kích thích, thúc đẩy sự tham gia tích cực của nhiều học sinh, sẽ nâng cao được hiệu quả học tập bộ môn, đặc biệt sẽ phát huy được tối đa năng lực . Ngày 09/9/2014, Bộ trưởng Bộ giáo dục và Đào tạo đã ban hành Quyết định 3538/QĐ-BGDĐT phê duyệt phương án thi tốt nghiệp THPT và đại học, cao đẳng ( gọi là kì thi THPT quốc gia). Trong đó môn Lịch sử nằm trong số những môn tự chọn và môn thi theo hình thức tự luận. Việc kiểm tra, đánh giá ở môn Lịch sử tuân theo quy luật nhận thức, đi từ biết đến vận dụng. Cụ thể: Mức độ nhận biết: Kiểm tra kiến thức cơ bản về lịch sử trong chương trình, sách giáo khoa nhưng tránh kiểm tra ghi nhớ máy móc quá nhiều sự kiện, ngày tháng, con số. Mức độ này sẽ tập trung vào những phần trọng tâm cơ bản. Mức độ vận dụng: đòi hỏi học sinh phải hiểu bản chất sự kiện, hiện tượng (phần kiến thức trọng tâm cơ bản đã đề cập ở trên), trên cơ sở đó biết khái quát, xâu chuỗi những sự kiện lịch sử, lí giải được mối quan hệ giữa sự kiện này với sự kiện khác - học sinh không chỉ học một sự kiện đơn lẻ mà là chuỗi các sự kiện có mối quan hệ, ảnh hưởng tác động với nhau. Như vậy, thay vì học thuộc lòng và nhớ sự kiện lịch sử như nguyên nhân, diễn biến, ngày tháng, số liệu cụ thể.đề thi sẽ tập trung vào khả năng hiểu biết lịch sử của học sinh. Thông qua những hiểu biết đó yêu cầu học sinh phát hiện những mối liên hệ của sự kiện lịch sử này đối với các sự kiện lịch sử khác, để từ đó hiểu sâu sắc hơn sự kiện lịch sử được học. Vì vậy, làm thế nào để học sinh có thể đáp ứng được yêu cầu của đề ra? Nên khi tiến hành nghiên cứu đề tài, tôi đã đặt ra giả thuyết: Đề tài có thay đổi được thực trạng dạy và học môn Lịch sử ở trường THPT hiện nay hay không? Đề tài có phát triển được năng lực học sinh khi làm bài thi để đạt điểm cao hay không?... Câu trả lời là: Khi đề tài được áp dụng sẽ thay đổi được thực trạng dạy và học môn Lịch sử, thay đổi được năng lực làm bài thi của học sinh khi tham gia kì thi THPT quốc gia hiện nay để đạt điểm cao. Vậy sự thay đổi đó thể hiện như thế nào? Sự thay đổi đó là: Trước hết giáo viên từ chỗ là người chủ động truyền tải cho học sinh tất cả những tri thức đã được chuẩn bị sẵn, còn học sinh thì chăm chú để tiếp thu những tri thức mà thầy đã truyền cho; sang chỗ giáo viên là người đóng vai trò chỉ đạo, định hướng nội dung học tập cho học sinh, còn học sinh là người được chủ động khám phá, chiếm lĩnh nguồn tri thức và vận dụng tri thức tiếp thu được vào giải quyết các vấn đề thực tiễn hiện nay. Tiếp theo là sự thay đổi về cách thức làm bài thi của học sinh: từ chỗ học sinh phải học thuộc, nhớ máy móc các năm tháng sự kiện sang chỗ học sinh nắm được bản chất các sự kiện, vấn đề, hiểu được mối quan hệ lôgíc giữa các vấn đề, sự kiện lịch sử, hiểu được quy luật phát triển của lịch sử... Rồi từ đó, rút ra các bài học vận dụng giải quyết các vấn đề thực tiễn hiện nay. Tóm lại, đề tài sẽ thay đổi hai vấn đề trọng tâm đó là: Thứ nhất là thay đổi từ chỗ Thầy dạy cái gì? Học trò nắm được gì? sang việc Thầy tổ chức cho học sinh học tập như thế nào? Học trò phải và sẽ làm gì? Thứ hai là thay đổi được cách làm bài thi nhằm phát triển năng lực học sinh để học sinh đạt kết quả cao trong kì thi Trung học phổ thông quốc gia. Từ việc thay đổi được cách dạy và học, cách làm bài thi như trên có thể khẳng định học sinh không chỉ nắm vững hơn kiến thức, kĩ năng mà quan trọng nhất là đã tạo điều kiện cho học sinh phát huy được tối đa những năng lực của bản thân, qua đó sẽ thay đổi được tư duy để giải quyết tốt hơn các tình huống trong thực tiễn cuộc sống. 2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm: Làm thế nào để làm tốt bài thi môn Lịch sử? Đó là câu hỏi thường được đặt ra đối với mỗi học sinh, nhất là khi học sinh tham gia kì thi THPT quốc gia để làm căn cứ vừa công nhận tốt nghiệp bậc THPT, vừa xét tuyển vào các trường đại học, cao đẳng. Tuy nhiên thực tiễn làm công tác hướng dẫn học sinh ôn luyện để tham gia các kì thi quốc gia nhiều năm, đặc biệt là kì thi THPT quốc gia tôi thấy có một thực tiễn đó là: mặc dù vẫn có nhiều học sinh dù yêu thích môn lịch sử, lựa chọn môn học này để thi nhưng lại khó khăn trong việc tìm ra phương pháp học tập và kĩ năng làm bài thi. Không ít học sinh dù rất tự tin với kiến thức của mình, nhưng lại lúng túng trong việc xác định các dạng câu hỏi trong đề thi. Kết quả là, dù bài làm được hai ba tờ giấy thi , thậm chí dài hơn nhưng điểm thi của bài không được cao và thậm chí là thấp, không tỉ lệ thuận với những kiến thức lịch sử đã ôn luyện. Vậy nguyên nhân vì sao? Các em cần phải điều chỉnh những gì khi ôn luyện để khắc phục hạn chế trên và đạt được kết quả cao trong kì thi THPT quốc gia? Làm thế nào để có tâm thế tốt nhất trước mỗi kì thi THPT quốc gia đang đến gần? Từ thực trạng nêu trên, cho thấy: Vấn đề đặt ra đối với giáo viên nói chung và giáo viên dạy học môn Lịch sử ở trường Trung học phổ thông cần phải làm gì? Làm thế nào để thay đổi cách học, định hướng, bồi dưỡng cho học sinh có thể làm bài thi một cách tốt nhất, đáp ứng được yêu cầu của đề thi, phát huy được năng lực của học sinh khi làm bài thi? Việc áp dụng đề tài “Một số kinh nghiệm bồi dưỡng năng lực thi của học sinh nhằm đạt kết quả cao trong kì thi THPT quốc gia qua dạy phần Lịch sử Việt Nam lớp12. ” vào thực tiễn dạy học sẽ thay đổi cách dạy của Thầy và cách học của Trò. Trong đó Thầy là người tổ chức, định hướng các hoạt động học tập cho học sinh, Trò là người được tự lực, chủ động trong việc tìm kiếm, chiếm lĩnh nguồn tri thức; nguồn tri thức không còn bị gò bó chỉ là SGK. Từ thay đổi trên học sinh sẽ phát huy được tối đa năng lực của bản thân trong học tập và phát huy được năng lực của học sinh khi làm bài thi để đạt được hiệu quả cao nhất. 2.3. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề: 2.3.1. Một số phương pháp , kĩ năng ôn luyện và làm bài thi: 1. Vận dụng công thức “5W - 1How” - Viết tắt các từ khóa trong Tiếng anh: Để có thể hiểu được lịch sử, vận dụng được kiến thức lịch sử để giải quyết các vấn đề thực tiễn nảy sinh, thì trước tiên học sinh cần phải nắm được kiến thức cơ bản của lịch sử hay nói cách khác phải nắm được phần thông sử tức làm nắm được các sự kiện lịch sử đã diễn ra theo tiến trình của thời gian, qua từng giai đoạn lịch sử. Để giúp học sinh nắm được phần thông sử, tôi đã hướng dẫn các em vận dụng công thức “5W - 1 How”. Công thức đó có nghĩa là: - What - Cái gì: Xác định được sự kiện lịch sử gì xảy ra và diễn ra như thế nào? Ví dụ: khi học phần quá trình tìm đường cứu nước của Nguỹen Ái Quốc tôi đưa ra câu hỏi: Em hãy xác định mốc thời gian kết thúc hành trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc. Quá trình đó đã diễn ra như thế nào? Với câu hỏi này tôi yêu cầu học sinh xác định được sự kiện xảy ra là sự kiện gì? Sự kiện đó diễn ra như thế nào? Học sinh trả lời được hai câu hỏi của tôi đưa ra đồng nghĩa với việc em đã nắm được quá trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc. - When - Khi nào: xác định được sự kiện lịch sử xảy ra thời gian nào? Ví dụ: Khi dạy phong trào công nhân 1919 - 1929 , tôi đặt ra câu hỏi: Sự kiện nào đánh dấu bước phát triển của phong trào công nhân chuyển dần từ đấu tranh tự phát sang đấu tranh tự giác? Với câu hỏi này, tôi yêu cầu học sinh xác định được sự kiện đấu tranh của công nhân nhà máy đóng tàu Ba Son vào thời gian tháng 8/1925. - Who - Người nào: xác định sự kiện lịch sử xảy ra gắn liền với ai - tên nhân vật, gai cấp, tầng lớp nào? Ví dụ: khi dạy về hoạt động của tư sản dân tộc thời kì 1919 - 1929, tôi đặt câu hỏi: Cuộc khởi nghĩa nào diễn ra đầu năm 30 của thế kỉ XX với tinh thần “ hoặc thành công nếu không thành nhân”? Với câu hỏi này, tôi yêu cầu học sinh phải nắm được cuộc khởi nghĩa Yến Bái diễn ra là một trong những hoạt động tiêu biểu gắn liền với bộ phận tư sản dân tộc trong trào lưu dân tộc dân chủ trước khi có Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. - Where - ở đâu, nơi nào: Xác đinh sự kiện xảy ra gắn với địa điểm, không gian nào? Ví dụ: Khi học về chiến dịch Điện Biên Phủ, tôi đặt câu hỏi: Vì sao Pháp - Mĩ chọn Điện Biên Phủ để xây dựng tập đòan cứ điểm mạnh nhất Đông Dương? Với câu hỏi này, tôi yêu cầu học sinh phải nắm được địa điểm, không gian của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. - Why - Tai sao: giải thích được vì sao sự kiện lại xảy ra như vậy? Nghĩa là phải bình luận, nhận xét, đánh giá, chứng minh, giải thích, lí giải về sự kiện. Ví dụ: khi học về cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp bùng nổ tôi yêu cầu học sinh trả lời câu hỏi: Vì sao ta quyết định phát động cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp ngày 19/12/1946? Với câu hỏi này, học sinh phải vận dụng kiến thức phần tình hình nước ta sau Hiệp định “Sơ bộ 6/3/1946” và “ Tạm ước 14/9/1946” để giải thích lí do vì sao ta phải phát động toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược lần 2. - How - như thế nào - Vận dụng được kiến thức đã học như thế nào? Nội dụng này tôi thường hướng dẫn học sinh sử dụng khi bài học có nội dung có thể vận dụng, liên hệ để giải quyết vấn đề thực tiễn hiện nay. Ví dụ: khi dạy về “Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên”, tôi đặt ra vấn đề với học sinh như: Đối tượng đầu tiên Nguyên Ái Quốc muốn hướng tới nhằm giác ngộ, giáo dục lí tưởng cách mạng khi Người về Quảng Châu - Trung Quốc là ai? Ví sao? Học sinh sẽ trả lời đối tượng Nguyễn Ái Quốc muốn hướng tới để giác ngộ, giáo dục lí tưởng cách mạng là những thanh niên tiểu tư sản Việt Nam đang hoạt động ở Quảng Châu - Trung Quốc. Vì thanh niên tiểu tư sản là là lực lượng trẻ, khỏe, năng động có trình độ hiểu biết, dễ tiếp thu được lí tưởng cách mạng, điều này chứng tỏ tầm nhìn xa trông rộng, cách sử dụng con người của Nguyễn Ái Quốc. Tiếp đó tôi đặt câu hỏi vận dụng nhằm phát triển năng lực của học sinh: Vậy em hãy cho biết thanh niên hiện nay có trách nhiệm gì trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc? Với câu hỏi này học sinh vừa vận dụng được kiến thức đã học, vừa thể hiện được vai trò trách nhiệm của bản thân đối với quê hương đất nước. Tuy nhiên trong quá trình hướng dẫn học sinh vận dụng công thức “5W - 1How” để học tập lịch sử thì tôi cũng lưu ý các em không nên máy móc. Vì trong nhiều trường hợp lịch sử không cần phải chi tiết, cụ thể về ngày / tháng / năm mà mang tính “ tương đối”: thời gian của sự kiện lịch sử rất đa dạng, có thể được tính bằng phút (10giờ 45 phút ngày 30/4/1975, quân ta tiến vào Dinh Độc Lập, bắt sống toàn bộ nội các Sài Gòn); có khi theo mùa Thu - Đông 1947 diễn ra chiến dịch Việt Bắc; hoặc thập kỉ, thế kỉ; đôi khi dùng cụm từ này chỉ tương đối “ trong những năm” ( trong những năm 20 của thế kỉ XX , phong trào yêu nước Việt Nam có hai khuynh hướng chính trị cùng tồn tại là tư sản và vô sản) Việc vận dụng công thức “ 5W - 1How” mục đích của tôi muốn định hướng cho học sinh cách học lịch sử, để học sinh hiểu rằng kiến thức lịch sử bao gồm 2 phần : phần “sử” là những sự kiện và hiện tượng lịch sử xảy ra trong quá khứ, vì vậy dù muốn hay không chúng ta không thể thay đổi được, và yêu cầu các em cần phải nắm vững phần “ sử” - kiến thức thông sử. Bên cạnh đó khi hướng dẫn các em học phần “sử”, tôi luôn nhắc các em không thể thay đổi kiến thức phần này được hoặc không được hiện đại hóa, xuyên tạc đối với phần “sử” ( gồm 4W đầu). Còn phần “luận” - Why, How đây mới là phần quan trọng đối với người học lịch sử, điểm thi của các em cao hay thấp phụ thuộc vào phân luận, thường chiếm 40% điểm số bài thi. Ví dụ: Khi dạy về cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp bùng nổ, tôi đặt ra câu hỏi: Nguyên nhân Đảng phát động cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp vào ngày 19/12/1946? Sao không phải là ngày 20 hoặc sớm hơn? Đối với câu hỏi này, để “luận” được phần “sử”, các em cần ghi nhớ, xác định được quá trình diễn ra của 4W ở trên (khác với học thuộc lòng, thuộc vẹt). Trên thực tế không ít học sinh tuy biết được phần “sử”, nhưng lại không thể giải thích, nhận xét, bình luận được sự kiện. Nhiều em tuy nhớ được chiến thắng Điện Biên Phủ kết thúc ngày 7/5/1954, nhưng không lí giải được vì sao lại gọi đây là chiến thắng lớn nhất của quân dân ta trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954). Như vậy, các quan niệm, suy nghĩ lâu nay về học môn lịch sử rằng là chỉ cần học thuộc lòng kiến thức trong sách giáo khoa, chỉ cần nhớ ngày / tháng / năm lịch sử là sẽ được điểm cao không còn đúng, phù hợp với xu thế đổi mới kiểm tra đánh giá theo xu hướng đánh giá và đề cao phát huy năng lực của học sinh hiện này mà ngành giáo dục đang hướng tới. 2. Hướng dẫn học sinh vận dụng phương pháp học theo sơ đồ tư duy, kết hợp với từ khóa. Như chúng ta đã biết, độ dài bài thi không tỉ lệ thuận với điểm số của bài thi, không nhất thiết các em cứ viết dài là bài sẽ được điểm cao, mà vấn đề cốt lõi là các em phải xác định được nội dung câu hỏi trong bài thi để xác định đúng kiến thức cần trả lời trong câu hỏi, việc viết đúng, viết đủ ý mới là yếu tố quyết định đến điểm số cao hay thấp của bài thi. Vì vậy, tôi hướng dẫn các em sử dụng sơ đồ tư duy cả trong quá trình học và quá trình đọc, phân tích đề trước khi làm bài, phải phác thảo ra ý chính cần giải quyết, tránh bị thiếu ý, sót ý. Ví dụ: Khi nêu nội dung cơ bản của Hiệp định Sơ bộ ngày 6/3/2946, các em phải có đủ 3 ý chính cùng các “từ khóa”: “Pháp công nhận” ta là một quốc gia “tự do”; Ta đồng ý cho Pháp; Hai bên đồng ý nếu học sinh viết nhầm từ tự do thành độc lập thì sai nghĩa của câu, sẽ không có điểm. 3. Hướng dẫn học sinh xác định, liên hệ những sự kiện lớn của lịch sử thế giới có tác động trực tiếp đến lịch sử Việt Nam ở cùng thời kì: Lịch sử Việt Nam là một bộ phận cấu thành lịch sử thế giới, nên sẽ chịu ảnh hưởng trước những tác động lớn từ bên ngoài. Vì vậy quá trình hướng dẫn các em học lịch sử Việt Nam tôi luôn luôn yêu cầu các em phải tìm ra sự liên hệ giữa lịch sử Việt Nam với phần lịch sử thế giới đã học để từ đó các em thấy được mối liên hệ tác động của tình hình thế giới đến cách mạng Việt Nam Ví dụ: Trình bày những thắng lợi của quân Đồng minh từ cuối năm 1944 đến giữa tháng 8/1945 và cho biết những tác động của thắng lợi đó đối với cách mạng Việt Nam. Với câu hỏi này yêu cầu học sinh cần hải nhớ lại phần lịch sử thế giới thời kì Chiến tranh thế giới thứ 2 (1939 - 1945), nhất là diễn biến của chiến tranh trong giai đoạn cuối 1944 - 1945. Từ đó học sinh liện hệ với lịch sử Việt Nam giai đoạn này và thấy được sự tác động của lịch sử thế giới đến tình hình Việt Nam. Ví dụ 2: Hãy nhận diện các thế lực đế quốc đang có mặt trên đất nước ta sau ngày các mạng tháng 8/1945 thành công. Đế quốc nào là kẻ thù chính? Vì sao? Với câu hỏi này, yêu cầu học sinh phải nắm được những thế lực đế quốc nào vào nước ta và vào làm nhiệm vụ gì sau cách mạng tháng 8/1945. Muốn biết được điều đó học sinh cần phải liên hệ với nội dung Hội nghị Ianta, nhất là phần phân chia phạm vi chiếm đóng và phạm vi ảnh hưởng giữa các nước thắng trận với những nước bại trận sau Chiến tranh thế giới thứ 2. 4. Hướng dẫn học sinh vận dụng “ công thức” về đường lối, chủ trương đấu tranh của Đảng khi học giai đoạn 1939-1945: Thực tiến cho thấy, học sinh hay bị nhầm lẫn và rối rắm khi học về các chủ trương đấu tranh của Đảng nhất là trong giai đoanh 1939-1945. Để khắc phục hạn chế đó tôi hướng dẫn học sinh c
Tài liệu đính kèm:
- skkn_mot_so_kinh_nghiem_boi_duong_nang_luc_thi_cua_hoc_sinh.doc