SKKN Một số phương pháp dạy - Học nhằm phát huy năng lực học sinh qua bài “tình hình xã hội ở nữa đầu thế kỷ XIX và phong trào đấu tranh của nhân dân”

SKKN Một số phương pháp dạy - Học nhằm phát huy năng lực học sinh qua bài “tình hình xã hội ở nữa đầu thế kỷ XIX và phong trào đấu tranh của nhân dân”

 Học tập Lịch sử theo quan niệm hiện đại không phải là sự học thuộc, nạp vào trí nhớ của người học theo lối thầy đọc trò chép, thầy giảng trò nghe, học sinh học thuộc lòng theo thầy, theo sách giáo khoa mà là: học sinh thông qua quá trình làm việc với nguồn tư liệu, ca dao, đồ dùng trực quan để tự tạo cho mình các hình ảnh lịch sử, tự hình dung về lịch sử đã diễn ra trong quá khứ.

 "Phát triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục chủ yếu từ trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học; học đi đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn. Phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc với tiến bộ khoa học - công nghệ, phát triển nguồn nhân lực và thị trường lao động."[1].

 Lịch sử là những sự việc đã diễn ra, có thật và tồn tại khách quan trong quá khứ, không thể phán đoán, suy luận hay tưởng tượng để nhận thức lịch sử mà cần phải thông qua những dấu tích của quá khứ, những chứng cứ về sự tồn tại của các sự việc đã diễn ra.

 Ca dao là một bộ phận của văn học. Nó không chỉ là một sản phẩm nghệ thuật dân gian mà còn tâm thức của dân gian về những hiện tượng lịch sử, xã hội nhất định. Ca dao phản ánh lịch sử trực tiếp hoặc gián tiếp, ở những góc độ, những cung bậc khác nhau. Kí ức dân gian về các sự kiện, hiện tượng lịch sử trong ca dao thì thường không được ghi rõ về mốc thời gian, nhưng nó rất dễ nhớ bởi nó thường được diễn đạt bởi thể thơ lục bát, bằng những hình ảnh sinh động và phản ánh rất chân thực cái nhìn của dân gian về các sự kiện, hiện tượng lịch sử mà nhân dân quan tâm. Vì vậy, ca dao như là một nguồn tư liệu bổ ích phục vụ cho các bài giảng lịch sử.

 

doc 28 trang thuychi01 4594
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số phương pháp dạy - Học nhằm phát huy năng lực học sinh qua bài “tình hình xã hội ở nữa đầu thế kỷ XIX và phong trào đấu tranh của nhân dân”", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
TRƯỜNG THPT THỌ XUÂN 5
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP DẠY-HỌC NHẰM PHÁT HUY 
NĂNG LỰC HỌC SINH QUA BÀI “TÌNH HÌNH XÃ HỘI Ở 
NỮA ĐẦU THẾ KỶ XIX VÀ PHONG TRÀO ĐẤU TRANH
 CỦA NHÂN DÂN”
Lịch 	Sử 10- Chương trình cơ bản.
 Người thực hiện: Lê Thị Xuân
 Chức vụ: Giáo viên
 SKKN thuộc môn: Lịch sử
THANH HÓA NĂM 2018
Mục lục
I. Mở đầu 
Trang 1
1. Lý do chọn đề tài
Trang 1
2. Mục đích nghiên cứu. 
Trang 2
3. Đối tượng nghiên cứu
Trang 2
4. Phương pháp nghiên cứu
Trang 2
II. Nội dung
Trang 3
1. Cơ sở lí luận của vấn đề
Trang 3
2. Thực trạng của vấn đề
Trang 3
3. Một số phương pháp dạy-học nhằm phát huy năng lực học sinh qua dạy-học lịch sử bài “Tình hình xã hội ở nữa đầu thế kỷ XIX và phong trào đấu tranh của nhân dân”
Trang 4
3.1. Sử dụng tranh ảnh tạo sự chú ý, hứng thú và khám phá bài học mới cho học sinh.
Trang 4
3.2. Sử dụng ca dao, đồ dùng trực quan và kỹ thuật dạy học mảnh ghép vào mục 1. “Tình hình xã hội và đời sống nhân dân” nhằm hình thành năng lực cho học sinh.
Trang 6
3.3. Sử dụng ca dao, đồ dùng trực quan và kỹ thuật đặt câu hỏi vào dạy-học mục 2 “Phong trào đấu tranh của nông dân và binh lính” và mục 3 “Đấu tranh của các dân tộc ít người” nhằm phát huy tính tích cực, sáng tạo, chủ động chiếm lĩnh tri thức của học sinh.
Trang 9
3.4. Phần hoạt động luyện tập, giáo viên sử dụng sơ đồ nhằm hệ thống hóa kiến thức.
Trang 12
3.5. Phần vận dụng kiến thức, sử dụng câu hỏi mở để phát huy năng lực vận dụng kiến thức vào thực tiễn đời sống, giải quyết tình huống thực tiễn. 
Trang 14
4. Hiệu quả của phương pháp sử dụng
Trang 14
III. Kết luận, kiến nghị
Trang 17
Tài liệu tham khảo
Trang 18
I. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
  Học tập Lịch sử theo quan niệm hiện đại không phải là sự học thuộc, nạp vào trí nhớ của người học theo lối thầy đọc trò chép, thầy giảng trò nghe, học sinh học thuộc lòng theo thầy, theo sách giáo khoa mà là: học sinh thông qua quá trình làm việc với nguồn tư liệu, ca dao, đồ dùng trực quan để tự tạo cho mình các hình ảnh lịch sử, tự hình dung về lịch sử đã diễn ra trong quá khứ.
 "Phát triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục chủ yếu từ trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học; học đi đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn. Phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc với tiến bộ khoa học - công nghệ, phát triển nguồn nhân lực và thị trường lao động."[1]. 
 Lịch sử là những sự việc đã diễn ra, có thật và tồn tại khách quan trong quá khứ, không thể phán đoán, suy luận hay tưởng tượng để nhận thức lịch sử mà cần phải thông qua những dấu tích của quá khứ, những chứng cứ về sự tồn tại của các sự việc đã diễn ra. 
 Ca dao là một bộ phận của văn học. Nó không chỉ là một sản phẩm nghệ thuật dân gian mà còn tâm thức của dân gian về những hiện tượng lịch sử, xã hội nhất định. Ca dao phản ánh lịch sử trực tiếp hoặc gián tiếp, ở những góc độ, những cung bậc khác nhau. Kí ức dân gian về các sự kiện, hiện tượng lịch sử trong ca dao thì thường không được ghi rõ về mốc thời gian, nhưng nó rất dễ nhớ bởi nó thường được diễn đạt bởi thể thơ lục bát, bằng những hình ảnh sinh động và phản ánh rất chân thực cái nhìn của dân gian về các sự kiện, hiện tượng lịch sử mà nhân dân quan tâm. Vì vậy, ca dao như là một nguồn tư liệu bổ ích phục vụ cho các bài giảng lịch sử.
 Đồ dùng trực quan huy động được sự tham gia của nhiều giác quan của người học, tạo điều kiện cho học sinh dễ hiểu, dễ nhớ, nhớ lâu, phát triển năng lực chú ý, quan sát, góp phần tạo biểu tượng cho học sinh, cụ thể hóa các sự kiện lịch sử, hiện tượng lịch sử, qua đó phát huy được tính tích cực chủ động học tập cho học sinh và nâng cao được hiệu quả bài học.
 Tại trường THPT Thọ Xuân 5 chất lượng đầu vào của học sinh đang còn thấp, năng lực tiếp thu tri thức lịch sử, năng lực sáng tạo, hoạt động tích cực, tự chủ, năng lực thực hành bộ môn, năng lực hoạt động nhóm rất hạn chế.
 Phương pháp dạy-học ca dao kết hợp với sử dụng đồ dùng trực quan vào dạy- học lịch sử bài “Tình hình xã hội ở nữa đầu thế kỷ XIX và phong trào đấu tranh của nhân dân", Lịch sử lớp 10-chương trình cơ bản nhằm thu hút sự chú ý, tạo sự yêu thích, sự đam mê, đặc biệt tạo ra năng lực chủ động khám phá, làm chủ tri thức lịch sử của các em học sinh và hiệu quả bài học sẽ được nâng cao. Sử dụng ca dao và đồ dùng trực quan vào dạy- học sẽ góp phần làm cụ thể hóa sự kiện lịch sử, gây hứng thú học tập, sáng tạo, tìm tòi, hợp tác nhóm tích cực, phát huy các 
năng lực học sinh và nâng cao hiệu quả bài học, làm cho học sinh giống như
I.1. Đoạn trích "Giáo dục...thị trường lao động" trích nguyên văn TLTK số 1. 
đang “chứng kiến” các sự kiện, hiện tượng lịch sử xảy ra trước mắt, đánh giá chính xác bản chất sự kiện lịch sử.
 Xuất phát từ những lí do trên, tôi chọn đề tài này làm sáng kiến kinh nghiệm của mình.
2. Mục đích nghiên cứu:
- Phát huy năng lực làm việc nhóm đạt hiệu quả cao, tăng khả năng giao tiếp, tính mạnh dạn học sinh trong giải quyết các tình huống gắn liền với đời sống hằng ngày. Giúp học sinh có khả năng tái hiện, cảm nhận được tri thức lịch sử.
- Qua đồ dùng trực quan phát huy hình thành năng lực đọc tranh ảnh, bản đồ, vẽ sơ đồ tư duy, phân tích, khái quát, tổng hợp, đánh giá sự kiện. Biết so sánh, đối chiếu, sâu chuỗi các sự kiện, hiện tượng lịch sử.
- Phát huy năng khiếu hội họa, thẫm mĩ cho học sinh thông qua tranh ảnh. Hình thành, bồi dưỡng năng lực nghề nghiệp.
- Phát huy tính tích cực, chủ động, óc quan sát, sáng tạo của học sinh.
- Góp phần đổi mới phương pháp dạy học lịch sử, phát huy năng lực toàn diện cho học sinh.
3. Đối tượng nghiên cứu:
- Tập trung vào bài: “Tình hình xã hội ở nữa đầu thế kỷ XIX và phong trào đấu tranh của nhân dân", Lịch sử lớp 10-chương trình cơ bản nhằm phát huy Năng lực giải quyết vấn đề; Năng lực tư duy sáng tạo; Năng lực hợp tác; Năng lực giao tiếp; Năng lực cảm thụ thẩm mĩ, trong đó chủ yếu là: Năng lực tư duy sáng tạo và Năng lực giải quyết vấn đề. Chỉ ra những nội dung cụ thể của kiến thức hai bài học liên quan đến đề thi Quốc gia khối THPT cho học sinh nắm vững trọng tâm.
- Là giáo viên và các em học sinh lớp 10.
4. Phương pháp nghiên cứu:
4.1. Nghiên cứu lý thuyết:
- Các tài liệu về tâm lí học, giáo dục học. Sách giáo khoa lịch sử lớp 10, sách giáo viên lịch sử 10. Sách văn học lớp 10, ca dao, tục ngữ Việt Nam.
- Sách hướng dẫn sử dụng đồ dùng trực quan, kênh hình dạy học lịch sử trong trường THPT. 
4.2. Nghiên cứu thực tiễn:
- Dự giờ, quan sát, kiểm tra, phát phiếu thăm dò ý kiến, tổng kết đánh giá rút ra kinh nghiệm sư phạm cho bản thân.
- Tiến hành dạy đối chứng và thực nghiệm tại trường THPT Thọ Xuân 5.
4.3. Phương pháp sử dụng dạy-học:
- Phương pháp liên môn, sử dụng ca dao của văn học.
- Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan( kênh hình).
- Kỹ thuật dạy học phát huy tính tích cực: Kỹ thuậ mảnh ghép, kỹ thuật đặt câu hỏi, kỹ thuật dạy học nêu vấn đề.
- Phương pháp theo hướng nghiên cứu bài học.
II. NỘI DUNG.
1. Cơ sở lí luận của vấn đề:
 Giáo dục định hướng năng lực nhằm đảm bảo chất lượng đầu ra của việc dạy học, thực hiện mục tiêu phát triển toàn diện các phẩm chất nhân cách, chú trọng năng lực vận dụng tri thức trong những tình huống thực tiễn nhằm chuẩn bị cho con người năng lực giải quyết các tình huống của cuộc sống và nghề nghiệp, nhấn mạnh vai trò của người học với tư cách chủ thể của quá trình nhận thức. Dạy học định hướng phát triển năng lực tập trung vào việc mô tả chất lượng đầu ra, có thể coi là ”sản phẩm cuối cùng” của quá trình dạy học. 
 Đồ dùng trực gồm có bản đồ, lược đồ, tranh ảnh, bảng thống kê (bảng niên biểu), phòng trưng bày hiện vật, bảo tàng...góp phần tạo hình ảnh, biểu tượng, làm cụ thể hóa về sự kiện, hiện tượng lịch sử, giúp học sinh nhớ kỹ, nhớ lâu về sự kiện, hiện tượng lịch sử. K.Đ.U.Sin-xki đã nhận xét “Hình ảnh được giữ lại đặc biệt vững chắc trong trí nhớ chúng ta, là hình ảnh mà chúng ta thu nhận được bằng trực quan và những hình ảnh nào khắc sâu vào trí nhớ chúng ta, thì cũng được chúng ta nhớ kỹ, hiểu sâu những tư tưởng của nó”. [3]
 Ca dao (tiếng Pháp: chanson populaire), hay còn gọi là phong dao, đây là một thuật ngữ được dùng với nhiều nghĩa rộng hẹp khác nhau. Theo nghĩa gốc thì ca là bài hát có khúc điệu, dao là bài hát không có khúc điệu. Ca dao là danh từ ghép chỉ toàn bộ những bài hát lưu hành phổ biến trong dân gian có hoặc không có khúc điệu. [7]
 Ca dao kết hợp với sử dụng đồ dùng trực quan vào dạy- học lịch sử bài “Tình hình xã hội ở nữa đầu thế kỷ XIX và phong trào đấu tranh của nhân dân” không chỉ làm cho học sinh nắm vững, hiểu sâu kiến thức lịch sử của bài học mà còn tác động đến tư tưởng, tình cảm, lối sống, thái độ của học sinh về sự kiện, hiện tượng lịch sử cụ thể, góp phần hình thành cho học sinh những phẩm chất đạo đức cần thiết như yêu mến lao động, quý trọng người lao động, lên án sâu sắc đối với bọn áp bức, bóc lột vua quan của nhà Nguyễn, đồng tình với những cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân lao động, có lòng yêu quê hương đất nước, có trách nhiệm, nghĩa vụ đối với tổ quốc. Từ đó dạy-học lịch sử sẽ đạt được hiệu quả cao.
2. Thực trạng vấn đề dạy-học lịch sử ở trường THPT hiện nay.
 Qua điều tra thực tế dạy- học lịch sử ở trường THPT bằng các hình thức: Dự giờ, quan sát, kiểm tra, phát phiếu thăm dò ý kiến, tôi nhận thấy trong dạy-học lịch sử bài “Tình hình xã hội ở nữa đầu thế kỷ XIX và phong trào đấu tranh của nhân dân” còn nhiều bất cập. Chẳng hạn, giáo viên dạy bài này chủ yếu kể chuyện đời tư các vua chúa, quan lại nhà Nguyễn cho học sinh nghe 
hoặc chủ yếu kể chuyện tiếu lâm, truyện cười ở thời kỳ này mà không có hoạt động học gì hay có giáo viên nặng về phương pháp thuyết trình các chính sách 
II.1. Đoạn " Hình ảnh...tư tưởng của nó" trích nguyên văn TLTK số 3. Đoạn " Ca dao...có khúc điệu" trích tham khảo TLTK số 7.
chính trị cai trị hà khắc, bóc lột, vơ vét tàn bạo của vua quan mà quên mất dạy-học phần đấu tranh của nông dân, binh lính, các đồng bào dân tộc thiểu số. 
 Với cách dạy-học này làm cho học sinh chỉ ngồi nghe mà không hiểu bài, không nắm được kiến thức trọng tâm của bài học, học xong học sinh không hiểu gì, không nhớ gì, không biết vận dụng kiến thức bài học vào thực tiễn.
 Sự bùng nổ cách mạng khoa học kỹ thuật, công nghệ đã góp phần thay đổi phương pháp dạy học như ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy-học lịch sử, ứng dụng đa dạng, hiệu quả các phương pháp dạy-học, nâng cao hiệu quả bài học. Song không phải giáo viên nào cũng biết sử dụng công nghệ thông tin trên tinh thần phát huy ưu điểm của nó, mà ngược lại có giáo viên dùng cả bài giảng điện tử bao gồm bản đồ, lược đồ, tranh ảnh, bảng biểu, nội dung bài học, câu hỏi, trình chiếu cho học sinh xem, học sinh chỉ làm một việc là nhìn lên máy chiếu chép nội dung bài học.
3. Một số phương pháp dạy-học nhằm phát huy năng lực học sinh qua dạy-học lịch sử bài “Tình hình xã hội ở nữa đầu thế kỷ XIX và phong trào đấu tranh của nhân dân”
3.1. Sử dụng tranh ảnh tạo sự chú ý, hứng thú và khám phá bài học mới cho học sinh.
Về phương thức giáo viên sử dụng tranh ảnh sau.
 Hình 1 Hình 2
 Hình 3 Hình 4
 Hình 5
Giáo viên chuyển giao nhiệm vụ cho học sinh: Nhìn vào tranh ảnh trên cho cô biết: 
- Hình 1, 2, 3, 4, 5. là những mức tranh nói về địa danh nào, khu lăng mộ các vua nào? Em có nhận xét gì về các công trình kiến trúc, lăng tẩm đó?
- Đây là triều đại nào? Em nêu hiểu biết gì về triều đại đó?
Giáo viên gợi ý sản phẩm: 
Hình 1: Toàn cảnh Đại Nội trong kinh thành Huế. 
Hình 2: Cửu Đỉnh và Thế Miếu 1835 – 1837.
Hình 3: Lăng Minh Mạng 1840 – 1843. 
Hình 4: Lăng Tự Đức 1864 – 1867.
Hình 5: Lăng Khảỉ Định.
- Đây là những công trình kiến trúc, lăng tẩm độc đáo, được UNESCO công nhận là di sản văn hóa vật thể của thế giới. Tuy nhiên, để xây dựng được công trình kiến trúc này nhà Nguyễn đã ra sức vơ vét, bóc lột của cải nhân dân. Đây chính là nguyên nhân làm bùng nổ các cuộc đấu tranh của nhân dân.
- Triều đại nhà Nguyễn. Đây là triều đại phong kiến cuối cùng của Việt Nam.
Giáo viên chuyển ý: Như vậy xã hội thời Nguyễn như thế nào, được phân chia mấy giai cấp, đời sống nhân dân ra sao? Những người nông dân đã làm gì để giành quyền sống dưới thời Nguyễn? Các cuộc đấu tranh đó mang đặc điểm gì, kết quả ra sao? So với các triều đại trước các cuộc đấu tranh có gì khác, ý nghĩa lịch sử của các cuộc đấu tranh? Đó chính là nội dung bài học hôm nay của chúng ta.
 Phương pháp này kích thích sự chú ý ngay từ đầu bài học cho học sinh, lôi cuốn các em vào nội dung bài học. Với sự thích khám phá, thích tìm cái mới, thích chiếm lĩnh toàn bộ tri thức lịch sử trong bài học nên các em đã bị hấp dẫn bởi câu hỏi về xã hội, về đời sống các giai cấp, tầng lớp và các cuộc đấu tranh của nhân dân, do đó các em rất hăng say, nhiệt tình tham gia vào hoạt động học của mình.
3.2. Sử dụng ca dao, đồ dùng trực quan và kỹ thuật dạy học mảnh ghép vào mục 1. “Tình hình xã hội và đời sống nhân dân” nhằm hình thành năng lực cho học sinh.
 Về phương thức ở mục này giáo viên sử dụng ca dao, tranh ảnh, sử dụng máy chiếu cho học sinh đọc những câu ca dao, nội dung trong bảng thống kê, giới thiệu tranh ảnh và chia hoạt động học theo kỹ thuật dạy học mảnh ghép.
“Từ ngày Tự Đức lên ngôi
Cơm chẳng đầy nồi trẻ khóc như ri."...
“Con ơi nhớ lấy câu này
Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan.”
 “Bộ Binh, bộ Hộ, bộ Hình
Ba bộ đồng tình cướp gạo con tôi.”
Cho bảng so sánh đời sống người dân Việt Nam: Thời Lê sơ ở thế kỷ XV và Thời Nguyễn ở nữa đầu thế kỷ XIX.
Thời Lê sơ ở thế kỷ XV
Thời Nguyễn ở nữa đầu thế kỷ XIX
 “Đứng mãi nào hay ngày đã tận
 Khắp đồng lúa tốt tựa mây xanh”
“Đời vua Thái Tổ, Thái Tông
Thóc lúa đầy đồng trâu chẳng thèm ăn”
 “Bắt dân đào kênh
Đo đất đếm người
Một suất đinh hai thước
.Chồng lại phải phu phen”
“Cơm thì chẳng có
Rau cháo cũng không
Đất trắng xóa ngoài đồng
Nhà giàu niêm kín cổng
Xác đầy nghĩa địa
Thây thối bên cầu
Trời ảm đạm u sầu
 Cảnh hoang tàn đói rét..”
Giáo viên sử dụng hình ảnh bên dưới.
 Hình ảnh địa chủ, cường hào. Hình ảnh người nông dân.
 Giáo viên chuyển giao nhiệm vụ cho học sinh: 
Vòng 1: Hoạt động 1 chia làm 4 nhóm.
Nhóm 1: Xã hội Việt Nam thời Nguyễn ở nữa đầu thế kỷ XIX được chia làm mấy giai cấp? Đó là những giai cấp nào? Nêu đời sống của từng giai cấp?
Nhóm 2: Hoàn thiện bảng thống kê so sánh đời sống nông dân ở thời Nguyễn nữa đầu thế kỷ XIX với đời sống nông dân thời Lê sơ ở thế kỷ XV theo các tiêu chí: Ruộng đất; Nộp tô thuế; Đi lính, đi phu, đi lao dịch; Hậu quả. 
Tiêu chí
Đời sống nông dân ở thời Nguyễn nữa đầu thế kỷ XIX
Đời sống nông dân thời Lê sơ 
ở thế kỷ XV
Ruộng đất
Nộp tô thuế
Đi lính, đi phu, đi lao dịch
Hậu quả.
Nhóm 3: Nguyên nhân gây nên tình trạng khổ cực của nông dân? 
Nhóm 4: Mâu thuẫn chủ yếu của xã hội thời Nguyễn lúc bấy giờ? Theo em để giải quyết mâu thuẫn đó, nông dân đã làm gì? 
 Vòng 2: Trộn các nhóm vòng 1 lại với nhau theo công thức 1, 2, 3, 4 thành 1 nhóm mới. 5, 6, 7, 8 thành 1 nhóm mới và như vậy nhóm mới làm việc chung với một câu hỏi sau. 
Em có nhận xét gì về đời sống nông dân dưới thời Nguyễn? 
Giáo viên gợi ý sản phẩm: 
Vòng 1:
 Nhóm 1: Xã hội Việt Nam thời Nguyễn nữa đầu thế kỷ XIX chia làm thành 2 giai cấp:
+ Thống trị: vua, quan, địa chủ, cường hào. Sống sung sướng, hưởng bổng lộc, không phải làm các nghĩa vụ nhà nước, nắm quyền lực, bóc lột nông dân nặng nề bằng tô thuế, sở hữu ruộng đất trong tay.
+ Bị trị: nhân dân lao động (chủ yếu là nông dân), bị bóc lột, phải làm nghĩa vụ nhà nước nặng nề như nộp thuế, đi lính, đi phu, đi lao dịch.
+ Học sinh bổ sung thêm dẫn chứng trong sách giáo khoa về đời sống của người dân thông qua tư liệu:
“Cái hại quan lại là một, hai phần, còn cái hại cường hào đến 8, 9 phần. Cái hại cường hào nó làm con cái người ta thành mồ côi, vợ người ta thành góa bụa, giết cả tính mạng người ta cứ công nhiên mà không sợ gì.”
 “Trong một cuộc tuần du ra Bắc Kì của Thiệu Trị năm 1842 số quân lính và người theo hầu lên đến 17.500 người với 44 con voi, 172 con ngựa. Nhân dân dọc đường phải xây dựng 44 hành cung cho vua nghỉ.” 
 “Thời Minh Mạng, Thanh Hoá đói to, Lê Đăng Doanh được vua sai đến phát chẩn đến nơi, dân đói đến lãnh chẩn ngày càng nhiềucó người chưa đến nơi đã chết, có nơi tranh nhau sang đò chết đuối đến 600 người, có người phơi nắng dầm sương, ngồi chờ mà chết.”
Nhóm 2: lập bảng so sánh với các tiêu chí rõ ràng.
Tiêu chí
Đời sống nông dân ở thời Nguyễn nữa đầu thế kỷ XIX
Đời sống nông dân thời Lê sơ 
ở thế kỷ XV
Ruộng đất
Thực hiện chính sách quân điền nhưng chỉ chiếm 20% duện tích. Ruộng đất ngày càng tập trung trong tay địa chủ, cường hào.
Đặt phép quân điền, chia ruộng 
công làng xã cho nông dân cày cấy.
Nộp tô thuế
Sưu cao, thuế nặng, chia vùng đánh thuế
Nộp tô thuế theo nghĩa vụ nhà nước, khuyến khích nhân dân cày cấy, khai hoang.
Đi lính, đi phu, đi lao dịch
Tập trung sức dân, của cải xây dựng kinh thành. Mỗi năm người dân đinh phải chịu 60 ngày lao dịch
Tập trung sức dân phát triển kinh tế nông nghiệp, thủ công nghiệp, đặc biệt làng nghề, mở mang thương nghiệp thúc đẩy kinh tế phát triển.
Hậu quả.
Thiên tai mất mùa, đói kém, đời sống nông dân khổ cực, dẫn tới bùng nổ các cuộc đấu tranh.
Đời sống nhân dân ấm no, trật tự xã hội ổn định, đất nước cường thịnh.
Nhóm 3: chỉ ra nguyên nhân gây nên tình trạng khổ cực của nông dân, không ai khác đó là giai cấp thống trị, gồm có vua, quan, địa chủ, cường hào chỉ lo xây dựng lăng tẩm, thành quách, ăn chơi xa xỉ, bóc lột nhân dân tàn bạo với sưu cao thuế nặng, nạn tham ô, tham nhũng phát triển.
Nhóm 4: Mâu thuẫn chủ yếu xã hội lúc bấy giờ là mâu thuẫn giữa vua, quan, địa chủ, cường hào với nông dân. Để giải quyết mâu thuẫn đó nông dân đã nổi dạy đấu tranh giành lấy quyền sống của mình.
Vòng 2: Nhận xét về đời sống nông dân dưới thời Nguyễn:
 - Đời sống nhân dân là phải chịu sưu cao thuế nặng, chế độ lao dịch nặng nề. Thiên tai, mất mùa, đói kém thường xuyên xảy ra. Đời sống nhân dân cực khổ. Quan lại từ trung ương đến địa phương ra sức bóc lột nhân dân. Chế độ phong kiến thời Nguyễn thể hiện đặc điểm với bộ máy chính quyền gia tăng tính chuyên chế, độc đoán, rơi vào sự khủng hoảng, bất ổn, loạn lạc không còn kỷ cương phép nước.
 Phương pháp dạy-học này sẽ phát huy năng lực nhận thức, thực hành bộ môn, sáng tạo như xác định, làm rõ thông tin, phân tích các kiến thức lịch sử độc lập, phát hiện các hạn chế trong ‎ tri thức lịch sử của các bạn khác đưa ra còn sai lệch, hoặc thiếu thông tin so với bạn trong nhóm. Đây chính là yếu tố kết dính các thành viên trong nhóm hoạt động hợp tác hiệu quả cao nhất, loại bỏ ý kiến chủ quan không hiệu quả của cá nhân, tạo cho các em môi trường làm việc nhóm, hợp tác nhóm chuyên nghiệp nhất, xử lý tình huống thực tiễn nhanh nhất và tính ứng dụng cao nhất và đáp ứng yêu cầu đào tạo nguồn thị trường nhân lực hiện nay cho đất nước, xuất khẩu lao động, bởi vì môi trường làm việc của các doanh nghiệp, các công ty là môi trường làm việc nhóm chuyên nghiệp. 
3.3. Sử dụng ca dao, đồ dùng trực quan và kỹ thuật đặt câu hỏi vào dạy-học mục 2 “Phong trào đấu tranh của nông dân và binh lính” và mục 3 “Đấu tranh của các dân tộc ít người” nhằm phát huy tính tích cực, sáng tạo, chủ động chiếm lĩnh tri thức của học sinh.
 Trong sách giáo khoa tách làm hai mục, tuy nhiên để tránh lặp lại hoạt động 
dạy- học nhàm nhán, giáo viên kết hợp mục 2 và mục 3 vào một hoạt động dạy-học chung. 
Về phương thức giáo viên sử dụng ca dao.
"Khi nào dân nổi can qua
Con vua thất thế lại ra quét chùa.”...
“ Mười lăm năm đức chính có chi !
Kho hình luật vẽ nên hùm có cánh
Ba mươi tỉnh nhân dân đều oán
Tiếng oan hào kêu dậy đất không lung.”
“ Trên trời có ông sao Tua
Ở làng Nguyệt (Minh) Giám có vua Ba Vành
Phương Đông quật lũ hung tinh
Làm cho bảy viện tan tành ra tro.”
 Giáo viên sử dụng lược đồ. 
Lược đồ những nơi bùng nổ cuộc nổi dậy của nhân dân chống triều
 Nguyễn nửa đầu thế kỷ XIX.
Giá

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_phuong_phap_day_hoc_nham_phat_huy_nang_luc_hoc_s.doc