SKKN Một số kinh nghiệm bồi dưỡng học sinh giỏi môn sinh học ở trường THCS Thọ Dân
Xã hội ngày càng phát triển, sự hội nhập giao lưu quốc tế ngày càng được mở rộng, nền kinh tế tri thức đã và đang hình thành. Việt Nam đang trong giai đoạn công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Để có thể hòa nhập cùng thế giới đòi hỏi phải có nguồn nhân lực đủ tài và chất.[2]
Nhằm tìm ra những con người có đủ yêu cầu trên thì việc phát hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường là một việc làm cần thiết. Hằng năm, thông qua các cuộc thi tuyển chọn học sinh giỏi các cấp của ngành giáo dục, chúng ta chọn lựa ra các học sinh ưu tú để bồi dưỡng, phát triển khả năng tư duy của các em. [2]
Công tác bồi dưỡng học sinh giỏi là một nhiệm vụ hết sức quan trọng trong quá trình dạy học của người giáo viên. Đây không chỉ là nhiệm vụ, là thành tích của cá nhân giáo viên, học sinh mà còn là nhiệm vụ của đơn vị trường, của Phòng giáo dục. Vì thế, người giáo viên phải có ý thức sâu sắc mục tiêu dạy học sao cho kết quả giáo dục mang lại hiệu quả thực tiễn cao, trong đó việc định hướng và đào tạo ra các học sinh giỏi là nhiệm vụ vô cùng quan trọng.
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA PHÒNG GD&ĐT TRIỆU SƠN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ KINH NGHIỆM BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI MÔN SINH HỌC Ở TRƯỜNG THCS THỌ DÂN Người thực hiện: Lê Thị Dung Chức vụ: Giáo viên Đơn vị công tác: Trường THCS Thọ Dân SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Sinh học THANH HÓA, NĂM 2017 Mục lục TT Nội dung Trang 1 1. Mở đầu 2 2 1.1. Lí do chọn đề tài 2 3 1.2. Mục đích nghiên cứu 3 4 1.3. Đối tượng nghiên cứu 3 5 1.4. Phương pháp nghiên cứu 4 6 2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm 4 7 2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm 4 8 2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm 5 9 2.3. Các sáng kiến kinh nghiệm hoặc các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề. 6 10 2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường. 11 11 3. Kết luận, kiến nghị. 12 12 3.1. Kết luận 12 13 3.2. Kiến nghị 12 14 Tài liệu tham khảo 14 1. Mở đầu. 1.1. Lí do chọn đề tài. Xã hội ngày càng phát triển, sự hội nhập giao lưu quốc tế ngày càng được mở rộng, nền kinh tế tri thức đã và đang hình thành. Việt Nam đang trong giai đoạn công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Để có thể hòa nhập cùng thế giới đòi hỏi phải có nguồn nhân lực đủ tài và chất.[2] Nhằm tìm ra những con người có đủ yêu cầu trên thì việc phát hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường là một việc làm cần thiết. Hằng năm, thông qua các cuộc thi tuyển chọn học sinh giỏi các cấp của ngành giáo dục, chúng ta chọn lựa ra các học sinh ưu tú để bồi dưỡng, phát triển khả năng tư duy của các em. [2] Công tác bồi dưỡng học sinh giỏi là một nhiệm vụ hết sức quan trọng trong quá trình dạy học của người giáo viên. Đây không chỉ là nhiệm vụ, là thành tích của cá nhân giáo viên, học sinh mà còn là nhiệm vụ của đơn vị trường, của Phòng giáo dục. Vì thế, người giáo viên phải có ý thức sâu sắc mục tiêu dạy học sao cho kết quả giáo dục mang lại hiệu quả thực tiễn cao, trong đó việc định hướng và đào tạo ra các học sinh giỏi là nhiệm vụ vô cùng quan trọng. Mặc dù công tác bồi dưỡng học sinh giỏi được rất nhiều nhà trường và giáo viên đặc biệt quan tâm nhưng thành tích về mặt này ở nhiều giáo viên là không khả quan, thành tích mang lại chưa cao. Nhà trường thậm chí nhiều năm liền bồi dưỡng cũng không có học sinh đạt giải cấp huyện, cấp tỉnh dẫn đến chưa hoàn thành nhiệm vụ dạy học.Trường chúng tôi mặc dù đã có sự quan tâm và đầu tư nhất định cho việc bồi dưỡng nhưng đáng tiếc tỉ lệ thành công còn khiêm tốn, đặc biệt là số học sinh giỏi môn Sinh học. Kết quả đó có nhiều nguyên nhân, một trong những nguyên nhân mà theo tôi nhiều giáo viên chưa đạt kết quả cao là chưa có nhiều kinh nghiệm trong công tác bồi dưỡng và không có thời gian để tìm tòi kiến thức. Chính vì vậy tôi quyết định chọn đề tài: " Một số kinh nghiệm bồi dưỡng học sinh giỏi môn Sinh học ở trường THCS Thọ Dân" để nghiên cứu nhằm chia sẻ và cùng trao đổi kinh nghiệm với đồng nghiệp để góp phần giúp công tác bồi dưỡng học sinh giỏi ngày càng đạt hiệu quả cao hơn và trên hết là : “Tất cả vì học sinh thân yêu”. 1.2. Mục đích nghiên cứu. Công tác bồi dưỡng học sinh giỏi luôn là vấn đề trăn trở của nhiều giáo viên đứng lớp, trong đó có giáo viên bộ môn Sinh học. Một số giáo viên còn chưa định hướng được sẽ dạy đội tuyển Sinh học như thế nào cho có hiệu quả. Nhận thức vấn đề trên, qua các năm tham gia bồi dưỡng học sinh giỏi, tôi mạnh dạn nghiên cứu đề tài Sáng kiến kinh nghiệm: “Một số kinh nghiệm bồi dưỡng học sinh giỏi môn Sinh học ở trường THCS Thọ Dân" với mong muốn giúp cho giáo viên và học sinh có thêm một số kinh nghiệm trong quá trình dạy và học bồi dưỡng môn Sinh học. 1.3. Đối tượng nghiên cứu. - Các phương pháp vận dụng bồi dưỡng học sinh giỏi. - Kết quả bồi dưỡng học sinh giỏi môn Sinh học qua số học sinh được tôi bồi dưỡng từ năm học 2012-2013 đến nay, gồm các em học sinh sau: + Năm học 2012- 2013: Lê Thị Duyên. + Năm học 2013 – 2014: 1- Lê Văn Sơn 2- Lê Thị Huyền Trang 3- Lê Thị Hiền 4- Lê Thị Ngọc Anh. + Năm học 2014 – 2015: 1- Lê Thị Thương 2- Lê Phan Vân Anh 3- Lê Thị Vân + Năm học 2015 – 2016: 1- Lê Thị Thương 2- Lê Phan Vân Anh 3- Lê Thị Vân 4- Lê Thị Hồng Nhung 5- Lê Thị Hồng Vân 6- Lê Văn Vinh 7- Lê Thị Mỹ Linh 8- Lê Thanh Huyền 9- Lê Thị Thùy Trang. 10- Lê Thị Hiền. + Năm học 2016- 2017: Lê Thị Hồng Nhung Lê Thị Hồng Vân Lê Văn Vinh Lê Thanh Huyền Lê Thị Thùy Trang 1.4. Phương pháp nghiên cứu. - Phương pháp quan sát, điều tra, khảo sát: Trong quá trình giảng dạy trên lớp thông qua các câu trả lời các vấn đề khó để từ đó phát hiện học sinh có năng khiếu môn mình dạy, đồng thời kiểm tra lại chính xác qua bài kiểm tra và khảo sát khi chọn đội tuyển.[1] - Phương pháp thực hành thí nghiệm: Trong quá trình bồi dưỡng để giúp các em học tốt tôi luôn hướng dẫn các em cách học các loại kiến thức, chỉ ra cách đọc sách, tìm hiểu kiến thức từ tài liệu và sưu tầm tài liệu từ internet.[1] - Phương pháp phân tích, tổng hợp tài liệu: Lựa chọn kiến thức truyền đạt, sưu tầm các loại tài liệu liên quan đến kiến thức bồi dưỡng bộ môn.[1] Nội dung sáng kiến kinh nghiệm. 2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm. Trí tuệ không chỉ bộc lộ qua nhận thức mà cả hành động, một người có nhiều tri thức thì càng có điều kiện vận dụng linh hoạt tri thức đó vào thực tiễn. Việc hình thành và phát triển trí tuệ không tách rời với việc rèn luyện và bồi dưỡng năng lực của học sinh thông qua việc cung cấp tri thức, phương thức chiếm lĩnh tri thức cho học sinh nhằm giúp cho học sinh không những biết, hiểu mà còn có thể vận dụng một cách triệt để vào thực tiễn. Chính vì vậy giúp các em có bản lĩnh, niềm tin vững vàng để bước vào kì thi mà không gặp khó khăn về kiến thức và lòng tin, đây là nhân tố quan trọng để các em gặt hái được thành tích cao.[1] Sinh học là môn khoa học thực nghiệm, nhiều kiến thức trừu tượng, nhiều hiện tượng thực tế trong tự nhiên cần được nghiên cứu, khám phá để giúp các em học sinh có được một tư duy logic về sự đa dạng, phong phú của sinh giới, sự thích nghi một cách hợp lí của giới tự nhiên.[1] Đa phần các em cho rằng học môn Sinh học rất trừu tượng, nhiều kiến thức lí thuyết, nhiều bài tập khó, kiến thức đan xen với các bộ môn khác dễ nhầm lẫn nên rất ít em tham gia học đội tuyển môn này. Công tác thi chọn, giao lưu học sinh giỏi môn Sinh học đến lớp 8 mới bắt đầu, trong khi đó các môn Ngữ văn, Toán, Tiếng Anh thi từ lớp 6 nên công tác chọn đội tuyển rất khó khăn. Để đạt được những thành công trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi theo tôi không ai khác chính là mỗi người giáo viên cần phải có ý thức trách nhiệm, năng lực, có bản lĩnh trong việc đổi mới phương pháp trong từng tiết học, trong lúc bồi dưỡng học sinh giỏi, phương pháp phải phù hợp, kích thích học sinh tìm tòi, kiên trì vượt khó, tích cực nỗ lực học tập để đạt được kết quả cao. 2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm. - Tài liệu tham khảo, sách nâng cao giáo viên đều phải tự trang bị và động viên học sinh mua sắm. - Tâm lí học sinh và phụ huynh không muốn học môn Sinh học vì cho là môn phụ, không quan trọng, kiến thức lại khó nhớ nên việc lựa chọn đối tượng tham gia lớp học bồi dưỡng là hạn chế. Cũng bởi vậy, trong nhiều năm trước, môn Sinh học không có học sinh tham gia thi hoặc chỉ có một hoặc hai học sinh, số học sinh thực sự có năng lực đều tham gia học và thi các môn Toán, Ngoại ngữ, Ngữ văn, Vật lí, Hóa học. - Chương trình Sinh học trên lớp thực sự không nhiều, chủ yếu là lí thuyết, chỉ có 1 tiết bài tập chương I- “Các thí nghiệm của Menđen” nên học sinh cho là đơn giản nhưng kiến thức thi học sinh giỏi mở rộng rất nhiều, từ lí thuyết vận dụng đến các dạng bài tập, vì đó chính là nội dung để đánh giá, phân loại học sinh. - Các học sinh được bồi dưỡng những năm học trước kết quả chưa cao, chỉ dừng ở mức độ đạt kì thi giỏi tuyến huyện: + Năm học 2012- 2013: tôi bồi dưỡng 1 học sinh đạt giải nhì huyện lớp 9 là em: Lê Thị Duyên. + Năm học 2013- 2014: Tôi bồi dưỡng 4 học sinh, đạt 3 em như sau: Lê Văn Sơn- giải khuyến khích cấp huyện lớp 9. Lê Thị Huyền Trang- giải khuyến khích cấp huyện lớp 9. Lê Thị Hiền- giải khuyến khích cấp huyện lớp 9. + Năm học 2014- 2015: tôi bồi dưỡng 3 học sinh lớp 8 kết quả: Lê Thị Thương- đạt giải 3 huyện Lê Phan vân Anh- đạt giải khuyến khích huyện Lê Thị Vân- đạt giải khuyến khích huyện 2.3. Các kinh nghiệm hoặc các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề. 2.3.1. Chọn học sinh- khảo sát lấy vào đội tuyển. Việc lựa chọn học sinh có năng lực và yêu thích bộ môn vào đội tuyển để bồi dưỡng là rất quan trọng. Đây là một trong những nhân tố quyết định sự thành công hay thất bại, kết quả cao hay thấp. Đội ngũ học sinh phải say mê, yêu thích môn học của mình, có niềm tin đối với môn học và cả giáo viên bồi dưỡng. Mỗi học sinh bồi dưỡng phải có thành tích học tập đạt khá- giỏi.[1] 2.3.2. Định hướng học tập. Muốn bồi dưỡng có hiệu quả đối với một em học sinh nào thì điều đầu tiên em đó phải say mê và yêu thích bộ môn mà mình đã lựa chọn. Chính vì vậy, bằng cách trò truyện, hướng dẫn và tìm hiểu nguyện vọng của các em, tôi đã định hướng đúng theo năng lực cũng như nguyện vọng cho học sinh của mình. 2.3.3. Hình thức bồi dưỡng. Trong quá trình bồi dưỡng, giáo viên cần phối hợp nhiều hình thức bồi dưỡng như hướng dẫn cách học, cách chuẩn bị bài, cách học tập ở nhà, giúp đỡ riêng,...[1] - Về cách học: Nhiều giáo viên cho rằng kiến thức cơ bản trong Sách giáo khoa chỉ cần lướt qua, chủ yếu chú trọng vào nội dung nâng cao. Riêng tôi ngược lại, kiến thức cơ bản tôi luôn dạy kĩ, yêu cầu các em thuộc và hiểu kiến thức đó trước, sau đó mới tiến hành học nâng cao vì nội dung nâng cao, mở rộng nào cũng cần phải dựa trên nền tảng của kiến thức cơ bản. - Hình thức học ở nhà: là sự tiếp tục một cách logic hình thức lên lớp. Học tập ở nhà rất quan trọng không thể thiếu được trong quá trình lĩnh hội, hoàn thiện hệ thống tri thức mới. Thông qua việc học tập ở nhà mà bồi dưỡng, rèn luyện tinh thần trách nhiệm trong học tập, tinh thần chủ động, tự lực; phát huy tinh thần nỗ lực chủ quan, khắc phục khó khăn hoàn thành nhiệm vụ đề ra trong thời gian quy định. Muốn việc học tập ở nhà đạt kết quả cao giáo viên bồi dưỡng cần chú ý những điểm sau: + Giúp học sinh ý thức rõ mục đích và nhiệm vụ của công việc ở nhà. + Phải giáo dục cho học sinh ý thức trách nhiệm trong việc hoàn thành bài học ở nhà. + Phải làm cho học sinh biết được quy tắc học bài, làm bài ở nhà và hình thành cho họ năng lực và phẩm chất tự học.[1] - Hình thức giúp đỡ riêng: Giúp đỡ riêng phải chú ý đến đặc điểm cá nhân, phải kiên trì, không nôn nóng. Cần từng bước đề ra những yêu cầu vừa sức, tạo cho học sinh đạt được những kết quả cụ thể, qua đó có thể động viên thích hợp tạo cho các em lòng tự tin vào khả năng của mình. Sau đó mở rộng, đào sâu tri thức về những vấn đề trọng tâm, cơ bản của bộ môn.[1] Hướng dẫn cho học sinh tìm tòi những vấn đề liên quan đến kiến thức học của buổi đó để cùng khắc sâu, ghi nhớ kiến thức. Một việc không kém phần quan trọng là hướng dẫn cách trả lời câu hỏi và làm bài của học sinh. Về cách trả lời câu hỏi thì cần yêu cầu học sinh trả lời một cách chính xác, khoa học và mang tính hệ thống. Bài làm cần khoa học, đẹp và theo đúng quy chế. Trong cách trả lời câu hỏi, tôi định hướng khung trả lời cho học sinh cụ thể.[1] Ví dụ câu hỏi so sánh cần trả lời hai phần là giống nhau và khác nhau, trong phần khác nhau cần trình bày các ý khác nhau tương ứng. Câu hỏi phân biệt chỉ cần tìm điểm khác nhau. Loại kiến thức cấu tạo, cơ chế phải trình bày có tính hệ thống. Chẳng hạn khi trình bày cấu tạo bộ xương người thích nghi với tư thế đứng thẳng và đi bằng hai chân cần trình bày từ xương đầu (phần sọ, phần mặt), xương thân (xương cột sống và lồng ngực), xương chi (xương tay và xương chân). Phần này cũng góp phần nâng cao thành tích làm bài của học sinh đáng kể. 2.3.4. Phân chia các loại kiến thức để có phương pháp truyền thụ phù hợp. Trong kiến thức Sinh học THCS có nhiều loại kiến thức, vì vậy việc phân loại kiến thức là rất quan trọng cho học sinh dễ học, dễ hiểu. Đồng thời người giáo viên phải lựa chọn phương pháp thích hợp để truyền thụ kiến thức sao cho người học dễ nhớ và kích thích được trí tuệ của các em. Theo tôi, nội dung bồi dưỡng có những loại kiến thức sau:[1] - Kiến thức về cấu tạo: Cấu tạo xương, cấu tạo cơ, hệ tuần hoàn, hệ hô hấp, hệ bài tiết nước tiểu, hệ thần kinh, ADN, ARN,... - Kiến thức về sinh lí – cơ chế: Tính chất bộ xương, hoạt động của hệ cơ, chức năng của hệ tuần hoàn, hệ thần kinh, nội tiết, quá trình tổng hợp ADN- ARN,... - Kiến thức về giải thích, liên hệ thực tế: Vì sao người già hay bị gãy xương hơn trẻ em? Vì sao nhóm máu O là nhóm máu chuyên cho, còn nhóm máu AB chuyên nhận? Thiếu axit trong dạ dày thì ảnh hưởng đến tiêu hóa như thế nào?...[1] - Kiến thức về câu hỏi so sánh: bao gồm so sánh về cơ quan, các quá trình sinh lí và cơ chế. Ví dụ: so sánh bộ xương người với bộ xương thú; so sánh đặc điểm cấu tạo, chức năng, quá trình tổng hợp của ADN và ARN; so sánh thành phần nước tiểu đầu và nước tiểu chính thức,... - Kiến thức về Sinh thái- môi trường. - Kiến thức về bài tập di truyền,... Bất kì một môn học nào cũng có tính hệ thống và kế thừa, môn Sinh học cũng vậy. Bởi thế khi giảng dạy phải có tính logic thì học sinh dễ tiếp thu, nhận thức sâu và kĩ hơn. Ví dụ: Hình thành khái niệm Biến dị tổ hợp cho học sinh lớp 9. Ở chương I qua học bài “Lai hai cặp tính trạng của Menđen”, học sinh chưa được học cơ chế xuất hiện nên chỉ nêu khái niệm như sau: “Biến dị tổ hợp là sự tổ hợp lại các tính trạng của bố mẹ, làm xuất hiện các kiểu hình khác bố, mẹ”. Nhưng khi học sang chương II- Nhiễm sắc thể, xong bài “Phát sinh giao tử và thụ tinh”, giáo viên phải phát triển khái niệm này mang bản chất hơn: “Biến dị tổ hợp là sự sắp xếp lại các gen (cơ sở vật chất di truyền) quy định các tính trạng trong quá trình sinh sản, làm xuất hiện các kiểu hình ở con lai khác với bố mẹ chúng”. Với mỗi loại kiến thức thì phải lựa chọn một phương pháp dạy học phù hợp nhằm kích thích người học hứng thú hơn, chủ động tìm ra kiến thức và hiểu kiến thức ngay tại lớp. Chẳng hạn, với kiến thức cấu tạo thì dùng phương pháp hỏi đáp kết hợp với giảng giải. Bằng hệ thống câu hỏi người giáo viên lần lượt khai thác các kiến thức từ đơn giản đến phức tạp, từ tổng quát đến cụ thể, chi tiết. Ví dụ: Trình bày đặc điểm cấu tạo phù hợp với chức năng của từng loại mạch máu? Giáo viên đặt ra câu hỏi để khai thác học sinh: - Trong cơ thể có những loại mạch máu nào? - Chức năng của mỗi loại mạch máu đó? - Vậy để đảm nhiệm tốt được chức năng đó, chúng phải có đặc điểm cấu tạo phù hợp như thế nào? Sau đó bằng phương pháp giảng giải giáo viên chốt lại vấn đề. Với cách khai thác như vậy không những học sinh khắc sâu kiến thức mà còn biết cách trình bày nội dung câu trả lời đầy đủ, khoa học. Với kiến thức giải thích, liên hệ thực tế nên sử dụng phương pháp hoạt động nhóm để người học trao đổi tìm ra lời giải thông qua hướng dẫn, gợi ý của giáo viên.Ví dụ: Giải thích vì sao xương người già thường dễ bị gãy và khi gãy thì chậm phục hồi?[3] Giáo viên gợi ý dựa vào tỉ lệ thành phần hóa học của xương theo lứa tuổi để giải thích và để học sinh trao đổi sau đó giáo viên kết luận. Với kiến thức sinh lí, cơ chế nên dùng phương pháp nêu và giải quyết vấn đề. Ví dụ: Vì sao tim hoạt động suốt đời mà không mệt mỏi?[3] Tóm lại để truyền thụ tri thức một cách có hiệu quả, bản thân tôi thiết nghĩ phải cần lựa chọn phương pháp dạy học thích hợp, làm sao để kích thích giúp người học chủ động tìm ra kiến thức. Trong một loại kiến thức ta cũng cần phối hợp nhiều phương pháp dạy học khác nhau, tùy vào đối tượng và tình huống cụ thể. 2.3.5. Giáo viên bồi dưỡng. Để kết quả bồi dưỡng cao, ngoài các yếu tố trên, vai trò của người thầy là rất lớn. Thầy cô là người giúp học sinh mở hệ thống tri thức, hướng dẫn con đường để học sinh tiếp nhận tri thức và là người truyền cảm hứng để học sinh tham gia đội tuyển cố gắng học hỏi và đạt thành tích. Vì vậy, người giáo viên cần phải có tâm huyết thật sự với nghề, sẵn sàng hướng dẫn, giúp đỡ các em say mê, yêu thích môn học nhằm đạt mục tiêu đề ra.[1] Trong quá trình bồi dưỡng, giáo viên cần đặt ra nhiều tình huống có vấn đề, sau đó yêu cầu học sinh tìm ra đáp án khi kết thúc một bài hay một chương. Có như vậy các em sẽ hăng hái chủ động nắm bắt kiến thức để tìm ra đáp án một cách nhanh chóng và chính xác nhất, giáo viên lại không phải mất nhiều thời gian nhắc đi nhắc lại kiến thức nhiều lần, và như thế giáo viên vừa tránh nhàm chán, vừa tiết kiệm được thời gian để truyền thụ kiến thức mới cho học sinh.[1] Ví dụ: Đối với bài “Đông máu và các nguyên tắc truyền máu”, giáo viên có thể đặt ra những vấn đề sau: ? Em có bao giờ bị chảy máu chưa? Em có nhận xét gì về trạng thái của máu trên vết đứt? ? Tại sao máu trong mạch không đông nhưng ra khỏi mạch thì bị đông? ? Là một bác sĩ trước khi truyền máu em cần làm gì? Thời gian bồi dưỡng có hạn nên giáo viên cần hướng dẫn học sinh các dạng câu hỏi gợi ý ngắn gọn nhưng chính xác, sau đó kiểm tra lại quá trình tiếp thu của học sinh bằng các thao tác tư duy để giúp học sinh giải quyết vấn đề một cách linh hoạt.[1] Câu hỏi và vấn đề đưa ra cần có sự đầu tư mới có thể kích thích sự tư duy sáng tạo, hứng thú học tập của các em.[1] Sinh học lớp 9 ngoài lí thuyết ra, phần bài tập rất nhiều dạng khác nhau, giáo viên cần giúp học sinh lần lượt làm quen, nhận dạng và áp dụng giải bài tập từ đơn giản rồi mới đến nâng cao. Đặc biệt, trong quá trình bồi dưỡng, sau khi dạy xong mỗi phần đơn vị kiến thức, giáo viên yêu cầu học sinh học, trao đổi, kiểm tra nhau theo nhóm có sự giám sát của giáo viên. Trong quá trình trao đổi, nếu học sinh còn lúng túng, chưa hiểu đơn vị kiến thức nào thì giáo viên bổ sung ngay cho học sinh. Sau đó, giáo viên sẽ cho làm bài kiểm tra trên giấy để chấm. Cách làm này sẽ kích thích các em đua nhau cùng học. Mặt khác, sau khi chấm bài, qua phần bài làm của các em, giáo viên sẽ chỉnh sửa cho học sinh được cách làm bài, đồng thời phần nhận xét, đánh giá bài của từng học sinh sẽ giúp các em học tập cũng như rút kinh nghiệm cho bản thân từ bài làm của mình, của bạn. Cuối cùng, phần kiến thức nào học sinh làm còn lúng túng, giáo viên tiếp tục giảng lại giúp học sinh hiểu rõ bản chất, bổ sung kiến thức hoàn chỉnh. 2.3.6. Sưu tầm tài liệu bồi dưỡng. Việc sưu tầm tài liệu bồi dưỡng học sinh giỏi là công việc quyết định phần lớn thành công cho việc đạt kết quả cao. Nhận thức được tầm quan trọng đó, bản thân tôi đã sưu tầm nhiều tài liệu liên quan đến kiến thức thi học sinh giỏi môn Sinh. Ngoài sách Bồi dưỡng học sinh giỏi môn Sinh học, Phương pháp giải bài tập Di truyền và Sinh thái, ... mua ở các hiệu sách, tư liệu trên internet, tôi còn sưu tầm các đề thi học sinh giỏi môn Sinh các cấp huyện, tỉnh của huyện, tỉnh nhà và các huyện , tỉnh khác qua các năm. Với học sinh, giáo viên cũng hướng dẫn các em mua tài liệu, cách tìm tài liệu trên internet. 2.3.7. Thời gian bồi dưỡng. Thời gian bồi dưỡng học sinh cần phải phù hợp với hoạt động học tập trên lớp của các em, không làm ảnh hưởng đến học tập các môn khác nhưng nếu ít quá cũng không được. Vì vậy, ngoài thời gian các buổi do nhà trường lên lịch, tôi thường yêu cầu các em sắp xếp thời gian biểu hợp lí để cô trò dạy và học thêm vào buổi tối những hôm các em có ít bài tập về nhà của các môn học khác. 2.3.8. Sự phối hợp của gia đình. Sự quan tâm, khích lệ từ phía phụ huynh rất quan trọng, đó chính là động lực thúc đẩy các em nỗ lực và có niềm tin để phấn đấu đạt được thành tích cao. 2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường. Từ sự nỗ lực của bản thân cùng với các giải pháp trên đã mang lại cho tôi kết quả rõ rệt trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi từ năm học 2015- 2016 đến nay, góp phần nâng cao thành tích cá nhân cũng như của nhà trường. Kết quả cụ thể như sau: - Năm học 2015- 2016: Tôi bồi dưỡng
Tài liệu đính kèm:
- skkn_mot_so_kinh_nghiem_boi_duong_hoc_sinh_gioi_mon_sinh_hoc.doc