SKKN Một số giải pháp quản lý, chỉ đạo và hướng dẫn cuộc thi sáng tạo khoa học kĩ thuật dành cho học sinh trung học ở trường THCS Thành Long – Thạch Thành đạt hiệu quả

SKKN Một số giải pháp quản lý, chỉ đạo và hướng dẫn cuộc thi sáng tạo khoa học kĩ thuật dành cho học sinh trung học ở trường THCS Thành Long – Thạch Thành đạt hiệu quả

 Cuộc cách mạng khoa học, kĩ thuật trong thời kỳ toàn cầu hoá đã và đang diễn ra mạnh mẽ, tác động đến mọi quốc gia, dân tộc. Cách mạng khoa học, kĩ thuật hiện đại là bước nhảy vọt về chất trong sự phát triển của lực lượng sản xuất, phương thức tổ chức, quản lý, phân công lao động xã hội và tăng năng suất lao động dựa trên những tiến bộ của hệ thống tri thức khoa học, công nghệ tiên tiến.

Nhờ những thành tựu to lớn của cuộc cách mạng khoa học, công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin - truyền thông, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu, v.v. xã hội loài người đang trong quá trình chuyển từ nền văn minh công nghiệp sang thời đại thông tin, từ nền kinh tế dựa vào các nguồn lực tự nhiên sang nền kinh tế dựa vào tri thức, mở ra cơ hội mới cho các nước đang phát triển có thể rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

 Đối với một nước đang phát triển như Việt Nam, khoa học công nghệ có vai trò cực kỳ quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Khoa học, công nghệ vừa giữ vai trò then chốt, vừa là nền tảng, động lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển nhanh và bền vững của đất nước. Khoa học, công nghệ góp phần nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài; phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao trình độ quản lý, sử dụng hợp lý tài nguyên, bảo vệ môi trường; xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người xã hội chủ nghĩa, nâng cao chất lượng sống của nhân dân, bảo đảm quốc phòng và an ninh; làm chuyển nền kinh tế lạc hậu, chất lượng hiệu quả thấp dựa vào sản xuất nông nghiệp, thủ công nghiệp là chính sang nền kinh tế có năng suất, chất lượng hiệu quả cao theo phương pháp sản xuất công nghiệp. Chính vì vậy, phát triển khoa học, công nghệ là tất yếu để nước ta thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội.

 Kế thừa và phát triển tư tưởng của Đảng về khoa học, công nghệ trong Văn kiện Đại hội XII, lần đầu tiên Đảng ta khẳng định: “Khoa học và công nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu”, “khoa học và công nghệ là động lực quan trọng nhất để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại.” [1]

 

doc 21 trang thuychi01 8211
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số giải pháp quản lý, chỉ đạo và hướng dẫn cuộc thi sáng tạo khoa học kĩ thuật dành cho học sinh trung học ở trường THCS Thành Long – Thạch Thành đạt hiệu quả", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
Mục
Nội dung
Trang
Mục lục
1
1
Mở đầu
2
1.1
Lí do chọn đề tài
2
1.2
Mục đích nghiên cứu
3
1.3
Đối tượng nghiên cứu
4
1.4
Phương pháp nghiên cứu
4
2
Nội dung
4
2.1
Cơ sở lí luận
4
2.2
Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
5
2.2.1
Những thuận lợi, khó khăn khi áp dụng đề tài
5
2.2.1.1
Thuận lợi
5
2.2.1.2
Khó khăn
5
2.2.2
Thực trạng
6
2.3
Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
6
2.3.1
Giải pháp thứ nhất: Nâng cao nhận thức về vị trí tầm quan trọng của công tác nghiên cứu khoa học kĩ thuật trong trường phổ thông.
6
2.3.2
Giải pháp thứ hai: Người giáo viên phải luôn giữ được ngọn lửa nhiệt tình tâm huyết với nghề nghiệp
7
2.3.3
Giải pháp thứ ba: Xây dựng và chỉ đạo thực hiện kế hoạch
8
2.3.4
Giải pháp thứ tư: Hình thành ý tưởng, phát hiện những ý tưởng tốt , tiến hành tuyển chọn và sàng lọc ý tưởng
9
2.3.5
Giải pháp thứ năm: Thành lập Hội đồng thẩm định khoa học và tổ chức cuộc thi KHKT cấp trường
11
2.3.6
Giải pháp thứ sáu: Nhà trường phối hợp với các cơ sở dạy nghề, những người thợ lành nghề về cơ khí; điện tử, nông lâm nghiệp, khí tượng thủy văn, cha mẹ học sinh
14
2.3.7
Giải pháp thứ bảy: Viết báo cáo nghiên cứu và thiết kế gian trưng bày poster
15
2.3.7.1
Viết báo cáo nghiên cứu
15
2.3.7.2
Thiết kế gian trưng bày poster
16
2.3.8
Giải pháp thứ tám: Làm tốt công tác xã hội hóa giáo dục và thi đua khen thưởng
17
2.3.8.1
Công tác xã hội hóa giáo dục
17
2.3.8.2
Công tác thi đua khen thưởng
19
2.3.9
Giải pháp thứ chín: Gặp gỡ và nhắc nhở học sinh một số lưu ý 
20
2.4
Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
20
3
Kết luận, kiến nghị
21
1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
 Cuộc cách mạng khoa học, kĩ thuật trong thời kỳ toàn cầu hoá đã và đang diễn ra mạnh mẽ, tác động đến mọi quốc gia, dân tộc. Cách mạng khoa học, kĩ thuật hiện đại là bước nhảy vọt về chất trong sự phát triển của lực lượng sản xuất, phương thức tổ chức, quản lý, phân công lao động xã hội và tăng năng suất lao động dựa trên những tiến bộ của hệ thống tri thức khoa học, công nghệ tiên tiến. 
Nhờ những thành tựu to lớn của cuộc cách mạng khoa học, công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin - truyền thông, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu, v.v... xã hội loài người đang trong quá trình chuyển từ nền văn minh công nghiệp sang thời đại thông tin, từ nền kinh tế dựa vào các nguồn lực tự nhiên sang nền kinh tế dựa vào tri thức, mở ra cơ hội mới cho các nước đang phát triển có thể rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
  Đối với một nước đang phát triển như Việt Nam, khoa học công nghệ có vai trò cực kỳ quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Khoa học, công nghệ vừa giữ vai trò then chốt, vừa là nền tảng, động lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển nhanh và bền vững của đất nước. Khoa học, công nghệ góp phần nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài; phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao trình độ quản lý, sử dụng hợp lý tài nguyên, bảo vệ môi trường; xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người xã hội chủ nghĩa, nâng cao chất lượng sống của nhân dân, bảo đảm quốc phòng và an ninh; làm chuyển nền kinh tế lạc hậu, chất lượng hiệu quả thấp dựa vào sản xuất nông nghiệp, thủ công nghiệp là chính sang nền kinh tế có năng suất, chất lượng hiệu quả cao theo phương pháp sản xuất công nghiệp. Chính vì vậy, phát triển khoa học, công nghệ là tất yếu để nước ta thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội.
 Kế thừa và phát triển tư tưởng của Đảng về khoa học, công nghệ trong Văn kiện Đại hội XII, lần đầu tiên Đảng ta khẳng định: “Khoa học và công nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu”,  “khoa học và công nghệ là động lực quan trọng nhất để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại.” [1]
 Nghiên cứu sáng tạo khoa học kỹ thuật là một hoạt động trải nghiệm bổ ích, thiết thực, gắn liền giữa lý thuyết với thực hành và thực tiễn lao động sản xuất. Hoạt động này giúp phát huy, khích lệ, định hướng, tiếp lửa, khơi dậy niềm đam mê nghiên cứu, sáng tạo của các em học sinh. Đặc biệt, hoạt động nghiên cứu khoa học - kỹ thuật còn rèn luyện cho các em kĩ năng tự học, tự nghiên cứu, tự kiểm chứng kết quả bằng thực nghiệm. Mặt khác qua việc định hướng, hướng dẫn cho học sinh nghiên cứu, giáo viên được nâng cao năng lực của bản thân về những kiến thức có liên quan đến các đề tài nghiên cứu khoa học [ 5].
 Tuy nhiên, nghiên cứu khoa học là một hoạt động quá mới mẻ đối với học sinh các trường phổ thông, vì vậy còn nhiều lúng túng trong khâu tổ chức và triển khai thực hiện. Còn thiếu đội ngũ giáo viên có kinh nghiệm, thiếu phương pháp hướng dẫn học sinh nghiên cứu khoa học. Một số bộ phận giáo viên vẫn còn ngại khó và sợ thêm việc vì vậy thiếu sự nhiệt tình.
Bản thân tôi với cương vị là phó hiệu trưởng phụ trách chuyên môn, cũng chính là phụ trách các cuộc thi, trong đó có cuộc thi sáng tạo khoa học kĩ thuật dành cho học sinh trung học. Tôi xác định đây là một cuộc thi khó và luôn trăn trở làm thế nào để kích thích học sinh đưa ra ý tưởng, gắn kết các em có niềm đam mê khoa học - sáng tạo, tìm tòi khám phá, làm sao để học sinh hiểu và tiếp cận được hoạt động nghiên cứu khoa học - kỹ thuật. Làm thế nào để cho ra được sản phẩm dự thi.
Xuất phát từ thực tế nhà trường, là người quản lí chỉ đạo cuộc thi, tôi nhận thấy để công tác chỉ đạo, hướng dẫn học sinh dự thi khoa học kĩ thuật đạt kết quả cao cần phải đầu tư thời gian công sức, tìm tòi để có hướng đi đúng. Bằng kinh nghiệm của mình và những kết quả mà nhà trường đã đạt được trong hai năm học vừa qua tôi mạnh dạn trao đổi “Một số giải pháp quản lý, chỉ đạo và hướng dẫn cuộc thi sáng tạo khoa học kĩ thuật dành cho học sinh trung học ở trường THCS Thành Long – Thạch Thành đạt hiệu quả” để các Thầy, Cô và động nghiệp tham khảo
1.2. Mục đích nghiên cứu
	Ngoài nhiệm vụ đảm bảo chất lượng giáo dục toàn diện cũng như giáo dục đại trà thì nhiệm vụ nâng cao chất lượng mũi nhọn, trong đó có cuộc thi sáng tạo khoa học kĩ thuật là một trong những nhiệm vụ trọng tâm. 
Thông qua cuộc thi khuyến khích các em nghiên cứu, sáng tạo khoa học, công nghệ, kỹ thuật và vận dụng kiến thức đã học vào giải quyết những vấn đề thực tiễn cuộc sống. 
Là một cán bộ quản lí trẻ, được trang bị đầy đủ kiến thức cũng như kỹ năng nghiệp vụ và có khả năng tiếp cận tốt với khoa học công nghệ, trong quá trình công tác tôi thấy bản thân mình cần phải cố gắng và nỗ lực hơn nữa, đặc biệt là phải làm sao góp phần nâng cao chất lượng bồi dưỡng đội tuyển học sinh giỏi do mình phụ trách. 
Góp phần chia sẻ những kinh nghiệm cùng đồng nghiệp để nâng cao hơn nữa chất lượng của cuộc thi, tạo cơ hội để học sinh trung học giới thiệu kết quả nghiên cứu khoa học kỹ thuật.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
	Đề tài tập trung nghiên cứu các biện pháp chỉ đạo, hướng dẫn cuộc thi khoa học kĩ thuật dành cho học sinh trung học đạt hiệu quả cao.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
	Căn cứ vào mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu, tôi sử dụng phương pháp chủ yếu là phương pháp tổng kết kinh nghiệm, được thực hiện theo các bước:
- Xác định đối tượng nghiên cứu 
- Điều tra khảo sát thực tế
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu, thu thập thông tin
- Phân tích, phát triển đề tài và đúc rút kinh nghiệm, viết bài.
2. Nội dung
2.1. Cơ sở lí luận	 
 Ở Việt Nam vấn đề bồi dưỡng người tài được nhiều triều đại Việt Nam coi là công việc hàng đầu của đất nước và đúc rút thành kinh nghiệm quí báu "Hiền tài là nguyên khí quốc gia"[6]. Kế thừa truyền thống hiếu học trọng giáo dục, trọng nhân tài của dân tộc Việt Nam, Đảng và nhà nước ta luôn coi trọng sự nghiệp giáo dục và đào tạo, quan tâm đến nhân tố con người và bồi dưỡng nhân tài. Các văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, lần thứ IX, cũng như văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, XI đều khẳng định: "Cùng với khoa học công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài; Giáo dục đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là nhân tố quyết định tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội, đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư phát triển" [2].
 Cuộc thi Khoa học- kỹ thuật dành cho học sinh trung học được Bộ giáo dục 
và đào tạo chính thức triển khai và tổ chức từ năm học 2012-2013. Thực hiện theo thông tư số 38/2012/TT-BGDĐT, ngày 02 tháng 11 năm 2012 của Bộ trưởng Bộ giáo dục và đào tạo ban hành quy chế thi sáng tạo khoa học- kỹ thuật cấp quốc gia học sinh trung học cơ sở và học sinh trung học phổ thông. 
 Các văn bản chỉ đạo cuộc thi của Bộ giáo dục và đào tạo hàng năm về 
việc hướng dẫn triển khai hoạt động nghiên cứu khoa học và tổ chức cuộc thi khoa học kỹ thuật cấp quốc gia dành cho học sinh trung học. Các văn bản hướng dẫn Số: 1135B /SGDĐT-GDTrH V/v Hướng dẫn triển khai hoạt động NCKH và tổ chức Cuộc thi KHKT dành cho học sinh trung học năm học 2015 -2016; công văn số: 2309 /SGDĐT-GDTrH ngày 14 tháng 11 năm 2016 V/v Tổ chức Cuộc thi KHKT dành cho học sinh trung học cấp tỉnh lần thứ 4, năm học 2016-2017 của Sở giáo dục và đào tạo Thanh Hóa. Các công văn của phòng giáo dục và đào tạo Thạch Thành qua các năm học. Cuộc thi được tiến hành từ cấp trường, cấp huyện, cấp tỉnh đến cấp quốc gia. Đối tượng tham gia cuộc thi là những học sinh đang theo học ở các trường phổ thông từ lớp 8 đến lớp 12. Đây cũng là nội dung được đưa vào nhiệm vụ trọng tâm ngay từ đầu năm học đối với tất cả các trường phổ thông. Việc triển khai, thực hiện khoa học, bài bản đã đạt được nhiều kết quả khả quan và nhận được sự quan tâm sâu sắc của phụ huynh và học sinh, giáo viên và của toàn xã hội. 
 Bồi dưỡng học sinh giỏi, phát huy được tố chất của các em trọng việc vận dụng kiến thức vào thực tiễn tạo ra sản phẩm có ích cho xã hội là một việc làm rất quan trọng, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI nhận định: Nhân tài không phải là sản phẩm tự phát mà phải được phát hiện và bồi dưỡng công phu. Nhiều tài năng có thể bị mai một đi nếu không được phát hiện và sử dụng đúng lúc. [ 3]
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.2.1. Những thuận lợi, khó khăn khi áp dụng đề tài
2.2.1.1 Thuận lợi
- Công tác tập huấn triển khai nghiên cứu khoa học cho cán bộ giáo viên các trường THCS trong huyện được Phòng giáo dục và đào tạo Thạch Thành tổ chức thường xuyên hàng năm để cập nhật những điểm mới của cuộc thi. Sự quan tâm và chỉ đạo quyết liệt của Phòng giáo dục đến tất cả các nhà trường làm cho số lượng học sinh tham gia nghiên cứu khoa học kĩ thuật ngày càng nhiều, thể hiện qua số lượng đơn vị tham gia và số dự án dự thi cấp huyện trong những năm vừa qua: Năm học 2014-2015: 4 dự án, năm học 2015 – 2016: 18 dự án; năm học 2016-2017 là 25 dự án
- Ban giám hiệu nhà trường coi cuộc thi là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong năm học. Cuộc thi đã thu hút được sự quan tâm của đông đảo các bậc phụ huynh, của chính quyền địa phương tham gia giúp đỡ cả về tinh thần lẫn vật chất, tạo động lực mạnh mẽ cho các em học sinh học tập, nghiên cứu, nuôi dưỡng và phát triển, biến các ước mơ, ý tưởng khoa học thành các sản phẩm hiện thực.
2.2.1.2. Khó khăn
 Việc triển khai hoạt động nghiên cứu khoa học của một số nhà trường mới ở mức độ phát động phong trào, còn thiếu kế hoạch triển khai và tổ chức các hoạt động cụ thể để lôi cuốn học sinh tham gia, qua đó phát hiện và bồi dưỡng những ý tưởng khoa học, những học sinh có có lòng say mê và khả năng nghiên cứu khoa học. 
 Năng lực và quy trình hướng dẫn học sinh nghiên cứu khoa học của một số giáo viên còn hạn chế, chưa tạo cơ hội để học sinh phát huy tính tích cực, tự lực và sáng tạo trong việc đề xuất và thực thi ý tưởng sáng tạo khoa học kĩ thuật, thể hiện ở việc chưa hướng dẫn học sinh xây dựng kế hoạch nghiên cứu để phê duyệt trước khi tiến hành nghiên cứu. Một số giáo viên hướng dẫn chưa nắm được những quy định của cuộc thi. Một số dự án còn nặng “bóng dáng” của người hướng dẫn từ ý tưởng đến việc trình bày kết quả nghiên cứu.
 Khả năng tìm tòi và tham khảo các tài liệu khoa học chuyên ngành của cả giáo viên và học sinh còn hạn chế. 
 Điều kiện về cơ sở vật chất, thiết bị dạy học, phòng thí nghiệm phục vụ cho hoạt động nghiên cứu khoa học của học sinh trong trường còn thiếu thốn, chưa đồng bộ.
 Cơ chế, chính sách dành cho hoạt động nghiên cứu khoa học của học sinh như kinh phí, chế độ đãi ngộ cho giáo viên làm công tác hướng dẫn học sinh nghiên cứu khoa học còn chưa đầy đủ và đồng bộ, chưa tạo được động lực bên trong cho cả giáo viên và học sinh trong hoạt động nghiên cứu khoa học kĩ thuật.
2.2.2. Thực trạng về công tác chỉ đạo, hướng dẫn nghiên cứu khoa học, số lượng, chất lượng giải học sinh giỏi trước khi thực hiện các giải pháp của đề tài.
	Cuộc thi Khoa học- kỹ thuật dành cho học sinh trung học được Bộ Giáo dục 
và Đào tào chính thức triển khai và tổ chức từ năm học 2012-2013. Nhưng trong hai năm đầu tiên triển khai cuộc thi cả huyện Thạch Thành gần như không có một sản phẩm nào tham gia dự thi cấp tỉnh.
	Tôi nhận quyết định làm phó hiệu trưởng về công tác tại trường THCS Thành Long từ tháng 8 năm 2013. trong 2 năm đầu công tác tại trường, cùng chung với toàn huyện thì công tác triển khai nghiên cứu khoa học kĩ thuật hầu như chưa được quan tâm đúng mức và trong những năm này nhà trường cũng không có nổi một sản phẩm nào tham gia dự thi.
	Từ năm học 2014-2015 Phòng giáo dục Thạch Thành mới chỉ có một sản phẩm tham gia dự thi cấp tỉnh của trường THCS Thạch Bình và đạt giải ba. Khi được giao nhiệm vụ phụ trách cuộc thi khoa học kĩ thuật từ năm học 2015-2016, với việc áp dụng các giải pháp trong đề tài nghiên cứu thì kết quả có sự thay đổi rõ rệt. Cuộc thi đã tạo được sự phát triển mạnh mẽ, thu hút được sự quan tâm, hưởng ứng của giáo viên và học sinh trong nhà trường. Đến nay, cuộc thi đã trở thành một hoạt động thường niên, sân chơi trí tuệ của học sinh, đây là niềm động viên, khích lệ vô cùng to lớn đối với bản thân tôi và cũng là động lực để tôi cố gắng và nỗ lực hơn nữa. 
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
	2.3.1. Giải pháp thứ nhất: Nâng cao nhận thức về vị trí, tầm quan trọng của công tác nghiên cứu khoa học kĩ thuật trong trường phổ thông
 Để đạt được kết quả cao trong công tác quản lí chỉ đạo bồi dưỡng đội tuyển học sinh giỏi khoa học kĩ thuật, từ cán bộ quản lí đến giáo viên cần phải có nhận thức đầy đủ về ý nghĩa tầm quan trọng của công tác nghiên cứu khoa học. 
 Nghiên cứu khoa học (NCKH) là quá trình nhận thức khoa học, là hoạt động trí tuệ đặc thù bằng những phương pháp nghiên cứu nhất định để tìm ra một cách chính xác và có mục đích những điều mà con người chưa biết đến hoặc biết chưa đầy đủ, tức là tạo ra sản phẩm mới dưới dạng tri thức mới về nhận thức hoặc phương pháp.
 Tầm quan trọng của nghiên cứu khoa học trong giáo dục bậc phổ thông được hội nghị lần thứ 8 của Ban chấp hành trung ương Khóa XI (Nghị quyết số 29-NQ/TW) khẳng định “Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân, tập trung phát triển trí tuệ, thể  chất, hình thành phẩm chất, năng lực công dân, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định hướng nghề  nghiệp cho học sinh”[4]. Vì vậy cán bộ quản lí và giáo viên trong nhà trường cần nắm được tầm quan trọng của việc nghiên cứu khoa học kĩ thuật đối với từng nhà trường.
 Ngay từ khi tổng kết cuộc thi khoa học kĩ thuật cấp tỉnh, thì sở giáo dục và đào tạo Thanh Hóa đã phát động cuộc thi cho năm học tiếp theo. Tôi đã tổ chức hội nghị để triển khai các văn bản, hướng dẫn và quán triệt việc thực hiện nhiệm vụ cho năm học mới tới toàn thể cán bộ giáo viên trong nhà trường. Đồng thời phát động cuộc thi KHKT cấp trường, giao nhiệm vụ cụ thể cho các thành viên trong nhà trường giúp cho các thành viên trong trường nhận thức được nhiệm vụ và trách nhiệm của bản thân để đạt được mục tiêu giáo dục của nhà trường đề ra. 
 Thông qua việc nhà trường tổ chức các hoạt động sân chơi trí tuệ thực tiễn như: Thi rung chuông vàng, đấu trường một trăm; hoạt động ngoại khóa về thí nghiệm hóa học; thi KHKT cấp trườngNhằm chú trọng đẩy mạnh công tác tuyên truyền rộng rãi về mục đích, ý nghĩa, nội dung cuộc thi đến cán bộ, giáo viên, học sinh, phụ huynh học sinh, từ đó nâng cao nhận thức cho từng cá nhân. 
 Tạo điều kiện tốt nhất để giáo viên nhà trường được tham gia đầy đủ các lớp tập huấn do Phòng giáo dục tổ chức, hoặc giáo viên đi tiếp thu chuyên đề truyền đạt lại cho giáo viên trong trường. Thông qua các hoạt động tập huấn bồi dưỡng về phương pháp, kỹ năng NCKH nhằm tạo điều kiện, khuyến khích cho học sinh, giáo viên tham gia hội nghị, và có những ý kiến đóng góp của bản thân mình vào nhiệm vụ chung của nhà trường.
 Tổ chức các chuyên đề về cuộc thi khoa học kĩ thuật trong sinh hoạt chuyên môn như: Cách khai thác ý tưởng của học sinh, cách viết một đề tài nghiên cứu khoa học, hay những điểm cần lưu ý khi hướng dẫn học sinh hoàn thành sản phẩm
 Nhờ những biện pháp trên mà công tác nghiên cứu khoa học đi vào tiềm thức của mỗi cán bộ giáo viên và học sinh trong nhà trường.
2.3.2. Giải pháp thứ hai: Người giáo viên phải luôn giữ được ngọn lửa nhiệt tình, tâm huyết với nghề nghiệp.
	Phụ trách hướng dẫn học sinh nghiên cứu KHKT ở cấp THCS hiện nay gặp rất nhiều khó khăn và rào cản, nguyên nhân xuất phát từ nhiều phía, nhưng cơ bản đây là một lĩnh vực mới và khó. Mặt khác cá nhân học sinh ở khu vực miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số để tìm ra được những cá nhân ưu tú, có những ý tưởng sáng tạo mới, quả thật là một điều khó khăn. Về phía bản thân giáo viên đòi hỏi không chỉ có kiến thức sâu về khoa học cơ bản của bộ môn mà còn phải có kiến thức tổng hợp. 
 Trong công tác hướng dẫn các em, người giáo viên phải thực sự nhiệt tình, xem việc giảng dạy bộ môn của mình là trách nhiệm, là sứ mệnh cao cả và là vinh quang nghề nghiệp. Bởi vì việc thầy cô có yêu nghề, yêu thích bộ môn của mình giảng dạy thì mới tạo được tiền đề tốt nhất để động viên, khơi gợi niềm đam mê học tập bộ môn của các em học sinh. Đây cũng chính là động lực để tôi luôn cố gắng tìm tòi, suy ngẫm, tìm ra những phương pháp hợp lí, phù hợp với công tác nghiên cứu khoa học đạt hiệu quả. Từ đó giúp các em có niềm tin, sự đam mê và hứng thú tìm tòi nghiên cứu sáng tạo.
	Đối với bản thân tôi, từ sự đam mê, tâm huyết nghề nghiệp và ý thức cầu tiến tôi đã từng bước trưởng thành trong lĩnh vực chuyên môn, dần tạo được uy tín trước bạn bè, đồng nghiệp, với phụ huynh học sinh và đặc biệt là đã lôi cuốn được các em học sinh đến với khoa học. Trong những năm gần đây số lượng học sinh tham gia cuộc thi đã tăng lên, các em thực sự say mê khoa học, tự tin với lựa chọn của mình. Tuy kết quả việc hướng dẫn học sinh thi khoa học kĩ thuật còn khiêm tốn, còn chưa theo kịp nhiều huyện ở miền xuôi nhưng đây cũng là động lực giúp tôi tự tin và tiếp tục cố gắng hơn nữa trong những năm tiếp theo. 
2.3.3. Giải pháp thứ ba: Xây dựng và chỉ đạo thực hiện kế hoạch 
 Để thực hiện bất kì một nhiệm vụ nào thành công thì khâu xây dựng kế hoạch và chỉ đạo thực hiện kế hoạch vô cùng quan trọng, nó quyết định sự thành công hay không từ chính việc lập kế hoạch và chỉ đạo thực hiện kế hoạch.
 Chuyên môn nhà trường xây dựng kế hoạch về cuộc thi khoa học kĩ thuật ngay từ khi Sở giáo dục phát động cho năm học mới. Trong kế hoạch phải thực hiện được những nội dung như sau: 
 - Tổ chức tuyên truyền rộng rãi mục đích, ý nghĩa của công tác NCKH đến với học sinh nhà trường và các quy định, hướng dẫn của Bộ GDĐT, Sở giáo dục, Phòng giáo dục về cuộc thi đến giáo viên, học sinh, cha mẹ học sinh. 
 - Trên cơ sở quy chế và các quy định, hướng dẫn về Cuộc thi của từng năm học, nhà trường chỉ đạo các tổ, giáo viên lập kế hoạch, tổ chức triển khai công tác NCKH của học sinh phù hợp với điều kiện thực tế của đơn vị, đặc điểm của địa phương, đối tượng học sinh, chương trình, nội dung dạy học. Trong quá trình triển khai, chúng tôi quan tâm tổ chức một số hoạt động như sau: 
 + Tổng kết, đánh giá các hoạt động NCKH của học sinh; biểu dương, kh

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_giai_phap_quan_ly_chi_dao_va_huong_dan_cuoc_thi.doc