SKKN Một số cách thức khởi động tạo hứng thú cho học sinh theo định hướng phát triển năng lực môn Tiếng Việt 1 bộ sách cánh diều

SKKN Một số cách thức khởi động tạo hứng thú cho học sinh theo định hướng phát triển năng lực môn Tiếng Việt 1 bộ sách cánh diều

Hệ xương  trong thời kỳ phát triển nên dễ bị cong vẹo, gẫy dập,...Vì thế mà trong các hoạt động tổ chức giáo viên cần phải chú ý quan tâm, hướng các em tới các hoạt động vui chơi lành mạnh, an toàn.

Hệ cơ đang trong thời kỳ phát triển mạnh nên các em rất thích các trò chơi vận động như chạy, nhảy, nô đùa,...Vì vậy giáo viên nên đưa các em vào các trò chơi vận động từ mức độ đơn giản đến phức tạp và đảm bảo sự an toàn cho các em.

Hệ thần kinh cấp cao đang hoàn thiện về mặt chức năng, do vậy tư duy của các em chuyển dần từ trực quan hành động sang tư duy hình tượng, trừu tượng. Do đó, các em rất hứng thú với các trò chơi trí tuệ như đố vui trí tuệ, các cuộc thi trí tuệ,... Dựa vào cơ sinh lý này, giáo viên nên cuốn hút các em với các câu hỏi nhằm phát triển tư duy.

doc 28 trang Phúc Hảo 22/03/2024 8267
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số cách thức khởi động tạo hứng thú cho học sinh theo định hướng phát triển năng lực môn Tiếng Việt 1 bộ sách cánh diều", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU	Trang 	
	I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 	1
	II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU	2
III. PHẠM VI VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU	2
IV. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU	2
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU	2
B. PHẦN NỘI DUNG
	I. CƠ SỞ LÍ LUẬN	3
	II. THỰC TRẠNG 	11
	1.Thuận lợi 	11	
	2. Khó khăn	11	
	3. Nguyên nhân	12	
	III. CÁC CÁCH THỨC THỰC HIỆN 	 1. Cách thức 1	13	
	 2. Cách thức 2	31	
	 3. Cách thức 3	32
	IV. KẾT QUẢ	33
	V. BÀI HỌC KINH NGHIỆM	35
C. PHẦN KẾT LUẬN	36	
D. KHUYẾN NGHỊ	37	
A. PHẦN MỞ ĐẦU
	I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 
 Theo quan điểm xây dựng Chương trình giáo dục phổ thông 2018, trên cơ sở định hướng vừa hình thành kiến thức vừa phát triển năng lực, phẩm chất của học sinh, dạy học không những cung cấp kiến thức mà phải phát triển hài hòa cả phẩm chất và năng lực.
 Năm học 2022 -2023 là năm thứ 3 áp dụng Chương trình giáo dục phổ thông 2018, đối với lớp 1 môn Tiếng Việt chiếm thời lượng nhiều nhất (12 tiết/tuần ) để thấy được tầm quan trọng của môn Tiếng Việt mà Bộ giáo dục và đào tạo đặt ra.
Ngôn ngữ là công cụ của lời nói và tư duy. Dạy Tiếng Việt ở Tiểu học là dạy cho học sinh có khả năng sử dụng công cụ ấy một cách hiệu quả nhất trong học tập và đời sống. Vậy nên người giáo viên cần có biện pháp gì để giúp học sinh yêu và thích học tốt môn Tiếng Việt bởi khi trẻ bắt đầu bước vào lớp 1 thì sự thay đổi đột ngột từ hoạt động chơi của mầm non, sang hoạt động học có chủ đích của lớp 1 là một rào cản lớn đối với học sinh lớp 1. Các em thường khó tập trung trong thời gian dài, học theo cảm hứng nên kết quả học tập của các em chưa cao. Về đặc điểm tâm lí của học sinh ở lứa tuổi này là thích chơi hơn là học một cách gò bó. Vì thế, việc khởi động tạo hứng thú trước khi vào bài trong dạy học Tiếng Việt cho HS lớp 1 là hết sức cần thiết. Nó không chỉ mang lại hiệu quả trong quá trình lĩnh hội kiến thức của trẻ mà nó còn hình thành nhân cách và những kĩ năng, năng lực cần thiết cho trẻ sau này.
 Hoạt động khởi động đóng vai trò quan trọng trong tất cả các giờ học nói chung và dạy học môn Tiếng Việt nói riêng. Nó là hoạt động khởi đầu, đặt nền móng và là hoạt động xâu chuỗi các hoạt động tiếp theo, nên có tác động đến cảm xúc, trí tuệ của người học trong toàn tiết học. Nếu tổ chức tốt hoạt động này tốt sẽ tạo ra một tâm lý hưng phấn, tự nhiên để lôi kéo học sinh vào giờ học. Hơn nữa, nếu càng đa dạng thì sẽ luôn tạo nên những bất ngờ thú vị cho học sinh. Các em sẽ được thoải mái tham gia vào hoạt động học tập mà không hề hay biết. Giờ học cũng bớt sự căng thẳng khô khan.
Nhưng thực tế dạy học lại cho thấy rất nhiều giáo viên khó kiếm được các cách khởi động để cho tiết học sinh động, hấp dẫn hoặc có tổ chức nhưng hiệu quả không cao do hình thức tổ chức nhàm chán, rời rạc, nặng về kiến thức...
Từ những lý do trên, tôi đã mạnh dạn áp dụng một số cách thức khởi động mới trong môn Tiếng Việt nhằm tạo hứng thú cho học sinh theo định hướng phát triển năng lực. Trong quá trình thực hiện đã đem lại kết quả khá khả quan. Tôi xin được trình bày dưới đề tài: “Một số cách thức khởi động tạo hứng thú cho học sinh theo định hướng phát triển năng lực môn Tiếng Việt 1 bộ sách cánh diều” .
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
	Nhằm đề xuất một số biện pháp giúp nâng cao chất lượng dạy học Tiếng Việt cho học sinh lớp 1 .
III. PHẠM VI VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Tổ chức các hoạt động Khởi động trong môn Tiếng Việt cho học sinh lớp 1
IV. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu một số cách thức khởi động bài học trong môn Tiếng Việt 1, nghiên cứu về thực trạng của công tác giảng dạy để từ đó đưa ra những hình thức phù hợp giúp học sinh “ vào bài” đầy hứng thú và hiệu quả.
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phương pháp đọc tài liệu: 
Đọc và tìm hiểu các tài liệu liên quan đến các hình thức khởi động bài học cho học sinh lớp 1
Phương pháp điều tra:
Tiến hành thực nghiệm , thống kê, phân loại, phân tích, so sánh và tổng hợp kết quả đánh giá học sinh qua từng giai đoạn để kiểm chứng các hình thức đã nghiên cứu có phù hợp chưa và có mang lại hiệu quả tốt không.
 Phương pháp đàm thoại: 
Thường xuyên trao đổi các kinh nghiệm hay từ các đồng nghiệm trong tổ để tìm ra các cách thức khởi động bài học hay. 
B. PHẦN NỘI DUNG
	I. CƠ SỞ LÍ LUẬN
	MỘT SỐ VẤN ĐỀ CẦN LÀM RÕ
	1. Đặc điểm tâm sinh lý học sinh lớp 1
	a) Sự phát triển về mặt cơ thể
+ Hệ xương  trong thời kỳ phát triển nên dễ bị cong vẹo, gẫy dập,...Vì thế mà trong các hoạt động tổ chức giáo viên cần phải chú ý quan tâm, hướng các em tới các hoạt động vui chơi lành mạnh, an toàn.
+ Hệ cơ đang trong thời kỳ phát triển mạnh nên các em rất thích các trò chơi vận động như chạy, nhảy, nô đùa,...Vì vậy giáo viên nên đưa các em vào các trò chơi vận động từ mức độ đơn giản đến phức tạp và đảm bảo sự an toàn cho các em.
+ Hệ thần kinh cấp cao đang hoàn thiện về mặt chức năng, do vậy tư duy của các em chuyển dần từ trực quan hành động sang tư duy hình tượng, trừu tượng. Do đó, các em rất hứng thú với các trò chơi trí tuệ như đố vui trí tuệ, các cuộc thi trí tuệ,... Dựa vào cơ sinh lý này, giáo viên nên cuốn hút các em với các câu hỏi nhằm phát triển tư duy.
	b) Sự phát triển của quá trình nhận thức (sự phát triển trí tuệ)
	Nhận thức cảm tính:	
+ Các cơ quan cảm giác: Thị giác, thính giác, khứu giác, vị giác, xúc giác đều phát triển và đang trong quá trình hoàn thiện.
+ Tri giác: Ở đầu tuổi tiểu học tri giác thường gắn với hành động trực quan, các em thích quan sát các sự vật hiện tượng có màu sắc sặc sỡ, hấp dẫn, tri giác của các em đã mang tính mục đích, có phương hướng rõ. Nhận thấy điều này chúng ta cần phải thu hút các em bằng các hoạt động mới, mang màu sắc, tích chất đặc biệt khác lạ so với bình thường, khi đó sẽ kích thích trẻ cảm nhận, tri giác tích cực và chính xác.
	Nhận thức lý tính:
+ Tư duy
Tư duy mang đậm màu sắc xúc cảm và chiếm ưu thế ở tư duy trực quan hành động.Tuy nhiên, hoạt động phân tích, tổng hợp kiến thức còn sơ đẳng ở phần đông học sinh tiểu học.
+ Tưởng tượng
Tưởng tượng của học sinh tiểu học đã phát triển phong phú hơn so với trẻ mầm non nhờ có bộ não phát triển và vốn kinh nghiệm ngày càng dày dặn. Tuy nhiên ở đầu tuổi tiểu học thì hình ảnh tưởng tượng còn đơn giản, chưa bền vững và dễ thay đổi. Đặc biệt, tưởng tượng của các em trong giai đoạn này bị chi phối mạnh mẽ bởi các xúc cảm, gắn với các rung động tình cảm của các em.
Qua đây, giáo viên phải phát triển tư duy và trí tưởng tượng của các em bằng cách biến các kiến thức "khô khan" thành những hình ảnh có cảm xúc, đặt ra cho các em những câu hỏi mang tính gợi mở, thu hút các em vào các hoạt động nhóm, hoạt động tập thể để các em có cơ hội phát triển quá trình nhận thức lý tính của mình một cách toàn diện.
+ Ngôn ngữ và sự phát triển nhận thức của học sinh tiểu học
Hầu hết học sinh tiểu học có ngôn ngữ nói thành thạo. Khi trẻ vào lớp 1 bắt đầu xuất hiện ngôn ngữ viết. Ngôn ngữ có vai trò hết sức quan trọng đối với quá trình nhận thức cảm tính và lý tính của trẻ, nhờ có ngôn ngữ mà cảm giác, tri giác, tư duy, tưởng tượng của trẻ phát triển dễ dàng và được biểu hiện cụ thể thông qua ngôn ngữ nói và viết của trẻ. Mặt khác, thông qua khả năng ngôn ngữ của trẻ ta có thể đánh giá được sự phát triển trí tuệ của trẻ.
+ Chú ý và sự phát triển nhận thức của học sinh tiểu học
Ở đầu tuổi tiểu học chú ý có chủ định của trẻ còn yếu, khả năng kiểm soát, điều khiển chú ý còn hạn chế. Ở giai đoạn này chú ý không chủ định chiếm ưu thế hơn chú ý có chủ định. Trẻ lúc này chỉ quan tâm chú ý đến những môn học, giờ học có đồ dùng trực quan sinh động, hấp dẫn có nhiều tranh ảnh, trò chơi ,Sự tập trung chú ý của trẻ còn yếu và thiếu tính bền vững, chưa thể tập trung lâu dài và dễ bị phân tán trong quá trình học tập.
Biết được điều này, giáo viên nên giao cho trẻ những công việc đòi hỏi sự chú ý của trẻ và nên giới hạn về mặt thời gian. Chú ý áp dụng linh động tính đến từng cá thể của trẻ, điều này là vô cùng quan trọng và ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả giáo dục trẻ.
+ Trí nhớ và sự phát triển nhận thức của học sinh tiểu học
Loại trí nhớ trực quan hình tượng chiếm ưu thế hơn trí nhớ từ ngữ - logic
Giai đoạn lớp 1 ghi nhớ máy móc phát triển tương đối tốt và chiếm ưu thế hơn so với ghi nhớ có ý nghĩa. Nhiều học sinh chưa biết tổ chức việc ghi nhớ có ý nghĩa, chưa biết dựa vào các điểm tựa để ghi nhớ, chưa biết cách khái quát hóa hay xây dựng dàn bài để ghi nhớ tài liệu.
Nắm được điều này, giáo viên phải giúp các em biết cách khái quát hóa và đơn giản mọi vấn đề, giúp các em xác định đâu là nội dung quan trọng cần ghi nhớ, các từ ngữ dùng để diễn đạt nội dung cần ghi nhớ phải đơn giản dễ hiểu, dễ nắm bắt, dễ thuộc và đặc biệt phải hình thành ở các em tâm lý hứng thú và vui vẻ khi ghi nhớ kiến thức.
Nói tóm lại, sáu tuổi vào lớp 1 là bước ngoặt lớn của trẻ thơ. Môi trường thay đổi: đòi hỏi trẻ phải tập trung chú ý thời gian liên tục từ 30 - 35 phút. Chuyển từ hiếu kỳ, tò mò sang tính ham hiểu biết, hứng thú khám phá. Bước đầu kiềm chế dần tính hiếu động, bột phát để chuyển thành tính kỷ luật, nền nếp, chấp hành nội quy học tập. Phát triển độ tinh nhạy và sức bền vững của các thao tác khéo léo của đôi bàn tay để tập viết...Tất cả đều là thử thách của trẻ, muốn trẻ vượt qua được tốt những điều này thì phải cần có sự quan tâm giúp đỡ của gia đình, nhà trường và xã hội dựa trên sự hiểu biết về tri thức khoa học.
	c) Sự phát triển tình cảm của học sinh Tiểu học
Tình cảm của học sinh tiểu học mang tính cụ thể trực tiếp và luôn gắn liền với các sự vật hiện tượng sinh động, rực rỡ, Lúc này khả năng kiềm chế cảm xúc của trẻ còn non nớt, trẻ dễ xúc động và cũng dễ nổi giận, biểu hiện cụ thể là trẻ dễ khóc mà cũng nhanh cười, rất hồn nhiên vô tư...
Vì thế có thể nói tình cảm của trẻ chưa bền vững, dễ thay đổi .
Chính vì thế, việc giáo dục tình cảm cho học sinh tiểu học cần ở nhà giáo dục sự khéo léo, tế nhị khi tác động đến các em; nên dẫn dắt các em đi từ hình ảnh trực quan sinh động, hấp dẫn và đặc biệt phải luôn chú ý củng cố tình cảm cho các em thông qua các hoạt động cụ thể như trò chơi nhập vai, đóng các tình huống cụ thể, các hoạt động tập thể ở trường lớp, 
	d) Sự phát triển nhân cách của học sinh Tiểu học
Nét tính cách của trẻ đang dần được hình thành, đặc biệt trong môi trường nhà trường còn mới lạ, trẻ có thể nhút nhát, rụt rè, cũng có thể sôi nổi, mạnh dạn...Sau 5 năm học, "tính cách học đường" mới dần ổn định và bền vững ở trẻ.
Hiểu được những điều này mà cha mẹ hay thầy cô giáo tuyệt đối không được "chụp mũ" nhân cách của trẻ, trái lại phải dùng những lời lẽ nhẹ nhàng mang tính gợi mở và chờ đợi, phải hướng trẻ đến với những hình mẫu nhân cách tốt đẹp mà không đâu xa, chính cha mẹ và thầy cô là những hình mẫu nhân cách ấy.
	2. Dạy học theo định hướng phát triển năng lực.
	Dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh đối với các môn học nói chung và môn Tiếng Việt nói riêng đó là:
 	Một, dạy học thông qua tổ chức liên tiếp các hoạt động học tập, giúp học sinh tự khám phá những điều chưa biết chứ không thụ động tiếp thu những tri thức được sắp đặt sẵn. Giáo viên là người tổ chức và chỉ đạo học sinh tiến hành các hoạt động học tập phát hiện kiến thức mới, vận dụng sáng tạo kiến thức đã biết vào các tình huống học tập hoặc tình huống thực tiễn.
	Hai, quá trình dạy học giáo viên chú trọng rèn luyện cho học sinh biết khai thác sách giáo khoa và các tài liệu học tập, biết cách tự tìm lại những kiến thức đã có, suy luận để tìm tòi và phát hiện kiến thức mới.
 	Ba, tăng cường phối hợp học tập cá nhân với học tập hợp tác, lớp học trở thành môi trường giao tiếp GV - HS và HS - HS nhằm vận dụng sự hiểu biết và kinh nghiệm của từng cá nhân, của nhóm trong giải quyết các nhiệm vụ học tập chung.
 	Bốn, chú trọng đánh giá kết quả học tập theo mục tiêu bài học trong suốt tiến trình dạy học thông qua hệ thống câu hỏi, bài tập. Tạo điều kiện để học sinh tự bộc lộ, tự thể hiện, tự đánh giá để có thể phê phán, tìm được nguyên nhân và nêu cách sửa chữa các sai sót.
 	Như vậy, phương pháp dạy học theo quan điểm phát triển năng lực không chỉ chú ý tích cực hoá học sinh về hoạt động trí tuệ mà còn chú ý rèn luyện năng lực giải quyết vấn đề gắn với những tình huống của cuộc sống, đồng thời gắn hoạt động trí tuệ với hoạt động thực hành. Trong đó, không thể thiếu vai trò của giáo viên là người dẫn dắt học sinh giải quyết các vấn đề trong thực tiễn; đặc biệt trong xây dựng câu hỏi định hướng cho từng nhóm đối tượng học sinh .
	3. Vài nét về môn Tiếng Việt 1 
	(Theo tài liệu tập huấn giáo viên sách Cánh Diều)
Mục tiêu giáo dục của môn học này ở lớp 1 :
	Góp phần thực hiện mục tiêu chung của môn học là hình thành, phát triển năng lực ngôn ngữ và văn học cho học sinh , cụ thể là hình thành, phát triển cho HS các kĩ năng đọc, viết, nghe và nói với mức độ căn bản để làm công cụ học các môn học khác và tự học
Thông qua các hoạt động đọc, viết, nói và nghe, môn Tiếng Việt 1 bước đầu hình thành cho HS năng lực văn học, giúp HS cảm nhận được cái hay cái đẹp của tác phẩm, nhân vật, hình ảnh, bồi dưỡng cảm xúc thẩm mĩ cho các em.
Yêu cầu cần đạt về nằng lực chung của môn Tiếng Việt 1:
Môn Tiếng Việt ở lớp 1 góp phần phát triển các năng lực chung theo quy định của chương trình, đó là:
- Năng lực tự chủ và tự học: Bước đầu biết cách đọc, cách phát biểu ý kiến trong nhóm, trong lớp; tự chuẩn bị đồ dùng học tập, sử dụng và giữ gìn đồ dùng học; tự thực hiện nhiệm vụ học tập và sưu tầm tài liệu học tập.
- Năng lực giao tiếp và hợp tác: Bước đầu biết làm việc theo nhóm; giao tiếp thân thiện, hợp tác với bạn cùng nhóm, cùng lớp, cùng lứa tuổi trong học tập, lao động, vui chơi; biết chia sẻ nhứng điều đã học với người thân.
- Năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo: Bước đầu biết vận dụng những điều đã học để giao tiếp hằng ngày ở trường học, gia đình và cộng đồng.
Cấu trúc chung của các bài học
SGK Tiếng Việt 1 gồm 4 nội dung lớn: Chuẩn bị, Học chữ, Học vần và Luyện tập tổng hợp. 
Mỗi bài học trong SGK Tiếng Việt 1 đều được tổ chức theo một quy trình gồm các hoạt động sau: Khởi động, Khám phá, Luyện tập, Ứng dụng.
Phần Khởi động (các tên gọi khác: Chia sẻ, Trải nghiệm, Cùng vui chơi,) tổ chức cho HS chia sẻ những điều đã trải nghiệm liên quan đến bài học để chuẩn bị cho bài học. Bên cạnh đó, phần Khởi động còn nhằm tạo hứng thú cho HS với bài học, cung cấp những trải nghiệm, mở rộng vốn hiểu biết, vốn từ về chủ đề.
Phần Khám phá đặt HS vào tình huống mới để giúp các em có những hiểu biết và kinh nghiệm mới. Trong phần này, HS sẽ được cung cấp một số ngữ liệu để phục vụ việc hình thành kiến thức về tiếng Việt. Các ngữ liệu được lựa chọn theo nguyên tắc tiết kiệm, điển hình, để với một dung lượng nhỏ nhất có thể khái quát được tương đối đầy đủ kiến thức. 
Phần Luyện tập đặt HS vào những tình huống tương tự tình huống trong phần Khám phá để giúp các em củng cố kiến thức, rèn luyện kĩ năng thực hành. Tùy theo giai đoạn học tập và kiểu bài học, nội dung luyện tập có thể là: tập đọc, tập viết, tập chép, nghe viết, thảo luận, kể chuyện, viết đoạn văn, Các câu hỏi, bài tập luôn gắn với thực tế và yêu cầu của đời sống.
Phần Ứng dụng (Vận dụng) giúp học sinh ứng dụng những điều đã học để nhận thức, phát hiện và giải quyết những tình huống có thực trong đời sống. Nội dung hoạt động ứng dụng là hướng dẫn HS thực hành giao tiếp tốt ở trường và ở nhà, đọc sách báo và những thông tin cần thiết, quan sát và học hỏi thêm trong cuộc sống, sưu tầm và giới thiệu các tài liệu đã sưu tầm được, tạo ra các sản phẩm đa phương thức (bưu thiếp, đồ thủ công có lời văn),
	4. Những lưu ý khi tổ chức hoạt động Khởi động.
	a. Khởi động: là hoạt động đầu tiên trong tiết học nhằm củng cố lại kiến thức đã học và nối tiếp chuỗi kiến thức mới. Hoạt động khởi động sẽ kích thích tính tò mò, sự hứng thú, tâm thế của học sinh ngay từ đầu tiết học.
Hoạt động khởi động thường được tổ chức thông qua hoạt động cá nhân hoặc hoạt động nhóm sẽ kích thích sự sáng tạo, giúp học sinh hình thành năng lực hợp tác, tinh thần học hỏi, giúp đỡ nhau khi thưc hiện nhiệm vụ. Chuẩn bị phần khởi động như thế nào cho hiệu quả phải dựa vào nội dung bài, đối tượng học sinh và cả điều kiện của giáo viên.
Như vậy có thể hiểu, hoạt động này chưa đòi hỏi sự tư duy cao, không quá coi trọng về vấn đề kiến thức mà chủ yếu là tạo tâm thế tốt nhất cho các em nhập cuộc, lôi kéo các em có hứng thú với các hoạt động phía sau đó.
	b.Xác định mục tiêu khởi động
Việc thay đổi hình thức khởi động từ việc chỉ dùng một vài câu để dẫn dắt vào bài thay bằng việc tổ chức khởi động thành một hoạt động để học sinh được tham gia trực tiếp giải quyết vấn đề khởi động; Người giáo viên phải xác định rõ mục tiêu cần đạt, phương pháp và kỹ thuật tổ chức, phương tiện cần dùng; chuyển giao nhiệm vụ cho học sinh một cách rõ ràng. Nhiệm vụ khi chuyển giao cho học sinh trong hoạt động khởi động cần kiểm kê lại kiến thức của học sinh (xem học sinh đã có được kiến thức gì liên quan đến bài học), tạo hứng thú cho học sinh, tạo ra tình huống có vấn đề để dẫn dắt HS vào phần hình thành kiến thức mới.
c. Kỹ thuật cơ bản khi xây dựng hoạt động khởi động
Với phương pháp dạy học truyền thống, khởi động chỉ bằng một vài câu dẫn nhập nên không mất nhiều thời gian. Với hình thức đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh, do đó khởi động cần tổ chức thành hoạt động để học sinh trực tiếp tham gia nên sẽ cần lượng thời gian nhiều hơn. Vì vậy, khi xây dựng kịch bản cho hoạt động khởi động giáo viên cần lưu ý không lấy những nội dung không thiết thực với bài học, những nội dung cần cụ thể: sử dụng nội dung bài học để khởi động, sao cho trong khởi động sẽ bao quát được nội dung bài học, qua đó giúp giáo viên biết được học sinh đã có kiến thức gì trong bài mới và chưa biết gì để khai thác sâu vào những nội dung học sinh chưa biết. 
Hoạt động khởi động là bước “thực hiện các động tác nhẹ trước khi thực hiện công việc” nên việc khởi động cũng cần nhẹ và sinh động để tạo sự hấp dẫn cho học sinh. Việc đặt câu hỏi hay tình huống khởi động cần chú ý tạo được hứng thú cho học sinh: để học sinh được thực hiện nhiệm vụ, được tham gia trả lời câu hỏi hoặc tham gia vào các tình huống khởi động. 
Câu hỏi/tình huống đưa ra ở phần này cũng cần có nhiều mức độ trong đó nhất thiết phải có câu dễ học sinh nào cũng có thể trả lời được. Khi các em trả lời được sẽ phần nào sẽ cảm thấy vui vẻ, thích thú để tạo tâm lý tốt khi vào bài học. Ở mỗi hoạt động khởi động đều xuất phát từ nội dung bài học, nhưng nếu tình huống nào đưa ra học sinh cũng giải quyết được thì các em sẽ không có hứng thú tìm hiểu kiến thức mới, không kích thích được trí tò mò và nhu cầu học tập một cách chủ động và tích cực của các em.
Khi áp dụng tổ chức hoạt động khởi động cho tất cả các tiết học ở các lớp thì giáo viên nên lưu ý: Kế hoạch hoạt động đã xây dựng cần có sự điều chỉnh cho phù hợp với đặc điểm học sinh của từng lớp; tránh việc xây dựng một tình huống cố định dùng chung cho tất cả các em trong một lớp hay các lớp trong cùng một khối. Phương án xây dựng tình huống khởi động giữa các tiết, các bài học nên có sự đổi mới về hình thức, phương pháp; tránh sự nhàm chán cho học sinh khi tiết học nào cũng tổ chức hoạt động khởi động theo kiểu “đến hẹn lại lên” với các bước tuần tự như nhau.
	II. THỰC TRẠNG 
	1. Thuận lợi:
	a. Đối với học sinh : 
- Các em có đầy đủ sách giáo khoa . 
- 100% học sinh học 2 buổi/ ngày nên có thời gian . 
- Được sự quan tâm của ban giám hiệu, cha mẹ học sinh. 
	b. Đối với giáo viên : 
- Được sự quan tâm chỉ đạo của phòng giáo dục và nhà trường. 
- Có đầy đủ sách giáo khoa, sách giáo viên và tài liệu tham khảo, đồ dùng dạy học, máy tính, ti vi .
	2. Khó khăn:
	a. Đối với học sinh :
- Trong một lớp học khả năng tiếp thu của mỗi em học sinh là khác nhau. Những bạn học sinh học tốt của lớp rất năng động sáng tạo, tích cực vào các hình thức khởi động bài học. Ngược lại những bạn học chậm lại rất lười , tiếp thu bài một cách thụ động, chưa có khả năng tham gia khở

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_cach_thuc_khoi_dong_tao_hung_thu_cho_hoc_sinh_th.doc