SKKN Một số cách biến đổi đề từ một bài toán gốc chương halogen để giảng dạy học sinh yếu kém môn Hóa học 10 tại trường THPT Lê Lai

SKKN Một số cách biến đổi đề từ một bài toán gốc chương halogen để giảng dạy học sinh yếu kém môn Hóa học 10 tại trường THPT Lê Lai

Hóa học là một môn khoa học vừa lí thuyết vừa thực nghiệm, được xây dựng theo chương trình đồng tâm, kiến thức nọ lồng trong kiến thức kia, chúng đan xen móc nối với nhau. Đây là một môn học lí thú, có mối quan hệ khăng khít giữa lí thuyết với thực tiễn nhằm đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao cho đất nước. Nhưng có rất nhiều học sinh “sợ” môn Hóa học, tại sao lại như vậy ? Câu trả lời là do các em “mất gốc” các kiến thức cơ bản của môn Hóa. Vậy gốc của môn Hóa học bắt đầu từ đâu ?

Từ năm lớp 8 của chương trình THCS, học sinh đã bắt đầu được học Hóa học. Và 2 năm học môn hóa ở THCS đã cung cấp cho các em những kiến thức cơ bản nhất về môn học. Khi chuyển từ cấp 2 lên cấp 3, giai đoạn đầu các em sẽ gặp rất nhiều khó khăn về mặt khách quan do sự thay đổi hoàn toàn về cách học và môi trường học. Với cách học mới, nếu không nắm bắt nhanh các em sẽ khó theo kịp các giai đoạn tiếp theo bởi lượng kiến thức luôn thay đổi.

Mặt khác, Hóa học là một môn học có tính kế thừa liên tục, không nắm chắc kiến thức phần trước sẽ khó theo được các học phần tiếp theo (hay còn gọi là mất gốc). Đối với những học sinh “mất gốc” môn Hóa khi bắt đầu học chương Halogen, các em sẽ thấy rất khó khăn để làm một bài toán Hóa học, dù là đơn giản nhất. Bởi lẽ, để làm được một bài toán Hóa học đơn giản nhất cũng phải qua nhiều bước tư duy và thường phải sử dụng nhiều công thức đã học ở THCS.

Trong khi đó, trường THPT Lê Lai thuộc huyện Ngọc Lặc là một huyện miền núi ở phía Tây tỉnh Thanh Hóa, trình độ đầu vào của học sinh khá thấp. Theo khảo sát đầu năm học, số học sinh nắm được kiến thức cơ bản của môn Hóa đạt yêu cầu chưa đến 20% lượng học sinh. Và môn Hóa trở thành một môn học khó với phần đông học sinh ở trường khi “gốc” không có, mà lượng bài toán Hóa học trong sách giáo khoa lại ít và chưa thực sự phù hợp với trình độ của các em học sinh trong trường đang có.

 

doc 23 trang thuychi01 7024
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số cách biến đổi đề từ một bài toán gốc chương halogen để giảng dạy học sinh yếu kém môn Hóa học 10 tại trường THPT Lê Lai", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ 
TRƯỜNG THPT LÊ LAI
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ CÁCH BIẾN ĐỔI ĐỀ TỪ MỘT BÀI TOÁN GỐC CHƯƠNG HALOGEN ĐỂ GIẢNG DẠY HỌC SINH YẾU KÉM MÔN HÓA HỌC 10 TẠI TRƯỜNG THPT LÊ LAI
Người thực hiện: Lê Thị Lan
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc lĩnh vực: Hóa học
THANH HOÁ NĂM 2016
QUY ƯỚC MỘT SỐ TỪ VIẾT TẮT TRONG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
STT
Cụm từ
Viết tắt
1
Trung học cơ sở
THCS
2
Trung học phổ thông
THPT
3
Giáo viên
GV
4
Sách giáo khoa
SGK
5
Học sinh
HS
6
Chương trình chuẩn
CTC
7
Phương trình hóa học
PTHH
8
Công thức phân tử
CTPT
9
Sách giáo khoa
SGK
10
Điều kiện tiêu chuẩn
đktc
11
Thực nghiệm
TN
12
Đối chứng
ĐC
13
Số liệu
SL
14
Trung bình
TB
MỤC LỤC
1. MỞ ĐẦU
- Lí do chọn đề tài
	Hóa học là một môn khoa học vừa lí thuyết vừa thực nghiệm, được xây dựng theo chương trình đồng tâm, kiến thức nọ lồng trong kiến thức kia, chúng đan xen móc nối với nhau. Đây là một môn học lí thú, có mối quan hệ khăng khít giữa lí thuyết với thực tiễn nhằm đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao cho đất nước. Nhưng có rất nhiều học sinh “sợ” môn Hóa học, tại sao lại như vậy ? Câu trả lời là do các em “mất gốc” các kiến thức cơ bản của môn Hóa. Vậy gốc của môn Hóa học bắt đầu từ đâu ?
Từ năm lớp 8 của chương trình THCS, học sinh đã bắt đầu được học Hóa học. Và 2 năm học môn hóa ở THCS đã cung cấp cho các em những kiến thức cơ bản nhất về môn học. Khi chuyển từ cấp 2 lên cấp 3, giai đoạn đầu các em sẽ gặp rất nhiều khó khăn về mặt khách quan do sự thay đổi hoàn toàn về cách học và môi trường học. Với cách học mới, nếu không nắm bắt nhanh các em sẽ khó theo kịp các giai đoạn tiếp theo bởi lượng kiến thức luôn thay đổi.
Mặt khác, Hóa học là một môn học có tính kế thừa liên tục, không nắm chắc kiến thức phần trước sẽ khó theo được các học phần tiếp theo (hay còn gọi là mất gốc). Đối với những học sinh “mất gốc” môn Hóa khi bắt đầu học chương Halogen, các em sẽ thấy rất khó khăn để làm một bài toán Hóa học, dù là đơn giản nhất. Bởi lẽ, để làm được một bài toán Hóa học đơn giản nhất cũng phải qua nhiều bước tư duy và thường phải sử dụng nhiều công thức đã học ở THCS. 
Trong khi đó, trường THPT Lê Lai thuộc huyện Ngọc Lặc là một huyện miền núi ở phía Tây tỉnh Thanh Hóa, trình độ đầu vào của học sinh khá thấp. Theo khảo sát đầu năm học, số học sinh nắm được kiến thức cơ bản của môn Hóa đạt yêu cầu chưa đến 20% lượng học sinh. Và môn Hóa trở thành một môn học khó với phần đông học sinh ở trường khi “gốc” không có, mà lượng bài toán Hóa học trong sách giáo khoa lại ít và chưa thực sự phù hợp với trình độ của các em học sinh trong trường đang có.
Chính vì lí do trên, tôi đã trăn trở, tìm tòi cách dạy để có thể giúp các em học sinh vừa tiếp thu kiến thức mới, lại vừa củng cố được kiến thức cơ bản đã mất và có thể làm được những bài toán Hóa học. Tôi đã xây dựng hệ thống bài toán Hóa học phù hợp với khả năng tiếp thu của học sinh bằng: “Một số cách biến đổi đề từ một bài toán gốc chương Halogen để giảng dạy học sinh yếu kém môn hóa học 10 tại trường THPT Lê Lai ”. (Để phù hợp với trình độ của học sinh, trường THPT Lê Lai sử dụng sách giáo khoa chương trình chuẩn)
- Mục đích nghiên cứu
	Đề tài này đưa ra một số cách biến đổi đề bài toán Hóa học (bài toán gốc) thuộc chương Halogen, thành nhiều bài toán Hóa học mới ở các mức độ tư duy khác nhau giúp học sinh “mất gốc” kiến thức hóa THCS có thể làm được những bài toán Hóa học cơ bản. 
- Đối tượng nghiên cứu
Một số cách biến đổi đề từ một bài toán Hóa học cơ bản, thường gặp ở chương Halogen:
+ Dạng 1: Kim loại tác dụng với đơn chất Halogen.
+ Dạng 2: Kim loại tác dụng với dung Pdịch axit clohiđric.
- Phương pháp nghiên cứu
+ Phương pháp thu thập và phân tích tổng quan các nguồn tài liệu lý luận.
	+ Quan sát giờ học để tìm ra những khó khăn trong tư duy của học sinh “mất gốc”. Trao đổi, tìm hiểu thực trạng việc giải các bài toán Hóa học của học sinh.
	+ Sử dụng phương pháp thực nghiệm đối chứng để phân tích kết quả đạt được.
+ Dùng phương pháp thống kê toán học trong khoa học giáo dục để xử lí.
2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận
2.1.1. Thế nào là cách biến đổi đề từ một bài toán (Hóa học) gốc ?
	Đó là các cách thức thay đổi dữ kiện từ một bài toán Hóa học ban đầu (gốc) thành nhiều bài toán Hóa học mới. Có thể đơn thuần là thay đổi số liệu dữ kiện bài toán hay đảo dữ kiện bài toán, thay đổi tên chất tham gia phản ứng ở các mức độ khác nhau,
	Việc biến đổi đề từ một bài toán Hóa học gốc sẽ tạo ra được một hệ thống các bài toán Hóa học tương tự nhau, thường được xếp trong cùng một dạng.
2.1.2. Vì sao cần phải biến đổi đề từ một bài toán gốc chương Halogen để giảng dạy học sinh yếu kém ?
Căn cứ Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức kĩ năng môn Hóa học lớp 10 của Bộ giáo dục và đào tạo; Căn cứ Kế hoạch giảng dạy môn Hóa học trường THPT Lê Lai năm học 2015 – 2016, học sinh cần phải làm được bài toán Hóa học cơ bản của chương Halogen. Tuy nhiên, nhiều học sinh bước vào lớp 10, yếu kém môn Hóa học hay thường gọi là mất gốc kiến thức môn Hóa học. Đó là những học sinh không nắm chắc được kiến thức cơ bản của môn học ở THCS, thường có một, nhiều, hay tất cả các biểu hiện sau:
+ Không biết viết CTPT của các chất, PTHH của các phản ứng.
+ Không biết cách tính số mol từ dữ kiện ban đầu.
+ Không biết tính số mol các chất theo tỉ lệ PTHH.
+ Không biết vận dụng các công thức để tính lượng chất theo yêu cầu của bài toán.
Vì vậy học sinh mất gốc kiến thức môn Hóa học không thể làm được bài toán Hóa học như mục tiêu đã đề ra.
Để đáp ứng được mục tiêu môn học cũng như Nguyên tắc đổi mới chương trình giáo dục, SGK phổ thông: Đáp ứng yêu cầu phát triển từng đối tượng học sinh và đảm bảo tính khả thi, cần phải xây dựng hệ thống bài toán Hóa học phù hợp với năng lực và trình độ của học sinh. 
Việc biến đổi đề từ một bài toán gốc sẽ tạo ra được nhiều bài toán mới có những đặc điểm giống bài toán ban đầu để các em vận dụng được phần kiến thức cũ (đã biết ở bài toán gốc), đồng thời có thể nâng mức độ khó dần để tăng khả năng tư duy, sáng tạo của học sinh và phần kiến thức cũng hệ thống hơn.
2.2. Thực trạng của việc dạy – học bài toán Hóa học chương Halogen ở trường THPT Lê Lai
- Thực trạng của việc học bài toán Hóa học 
	Chương Halogen thuộc chương 5, SGK lớp 10 chương trình chuẩn, đây cũng là chương đầu tiên của Hóa học vô cơ chương trình THPT. Và từ chương này bắt đầu có những bài toán Hóa học phải sử dụng nhiều đến các kiến thức Hóa đã học ở chương trình THCS. Nên những học sinh đã “mất gốc” học đến chương này cảm thấy rất khó khăn và bế tắc. Mặt khác, trong sách giáo khoa, chương Halogen lại không có nhiều bài toán Hóa học để các em luyện tập, nội dung các bài tập này cũng khó so với trình độ nhận thức của các em.
	Trước khi dạy chương Halogen, tôi cho các em học sinh ở 2 lớp tôi dạy là 10A6 và 10A8 làm một đề kiểm tra 15 phút để kiểm tra kiến thức và kĩ năng giải toán Hóa học mà các em đã có. Đề bài chỉ gồm một bài toán Hóa học cơ bản, đơn giản mà các em đã học ở chương trình THCS.
Đề bài: Cho 2,4 gam magie tác dụng vừa đủ với 500 ml dung dịch HCl. 
Viết PTHH xảy ra. 
Tính thể tích khí thoát ra ở đktc. 
Tính nồng độ của dung dịch axit đã dùng.
Kết quả bài kiểm tra tôi thu được như sau:
Lớp
Sĩ số
 Giỏi
 Khá
 TB
 Yếu
 Kém
SL
%
SL
 %
SL
 %
SL
 %
SL
 %
10A8
42
0
0
0
0
5
11,90
11
26,19
26
61,91
10A6
38
0
0
0
0
4
10,53
12
31,58
22
57,89
Từ việc chấm bài kiểm tra khảo sát trên, tôi nhận thấy:
	+ Rất nhiều học sinh không viết đúng PTHH: Viết sai CTPT, không biết cân bằng phương trình hóa học.
	+ Chỉ có một số học sinh biết cách tính số mol chất mà đề đã cho (Mg).
	+ Rất ít học sinh biết cách tính số mol chất mà đề bài yêu cầu.
	+ Không có học sinh nào biết cách tính thể tích khí ở đktc.
	+ Không có học sinh nào biết cách tính nồng độ dung dịch.
	Thực trạng trên thật đáng buồn nhưng đó lại là điều bình thường mà tôi đã thu được khi khảo sát các lớp dạy hàng năm. Bởi lẽ, trường THPT Lê Lai là một trường thuộc huyện miền núi, trình độ đầu vào của học sinh còn thấp (Không liệt môn thi nào là đủ điều kiện vào trường !), đa số phụ huynh chưa quan tâm đúng mức đến việc học của con em mình (Vì điều kiện kinh tế còn rất nhiều khó khăn). Hơn nữa, những năm gần đây, môn Hóa học không phải là môn thi vào trường nên không được học sinh chú trọng và nếu có thì các em cũng đã quên kiến thức.
- Thực trạng của việc dạy bài toán Hóa học 
Trong những năm học trước, bản thân tôi và các đồng nghiệp trong tổ bộ môn tuy đã có nhiều năm dạy Hóa học 10 vẫn cảm thấy khó khăn, bế tắc trước việc dạy cho học sinh đại trà có thể vừa nắm được kiến thức lí thuyết của chương Halogen theo chuẩn kiến thức, vừa có thể làm được bài toán Hóa học ở chương này. Nhất là khi bản thân các em cảm thấy mình không thể học Hóa và thường “bỏ rơi” môn học này. Trước khó khăn trên, chúng tôi thường dạy lí thuyết, yêu cầu các em học thuộc và gần như phải bỏ qua phần làm toán Hóa học. Như vậy việc dạy và học Hóa học chưa thật sự đạt được hiệu quả và mục tiêu của môn học.
	Với mong muốn giúp các em có thể lấy lại kiến thức căn bản của môn học, tiếp thu được kiến thức mới hiệu quả, tôi đã trăn trở và tìm cách xây dựng hệ thống bài toán Hóa học đơn giản ở chương Halogen, phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh “mất gốc” bằng : “Một số cách biến đổi đề từ một bài toán gốc” và hướng dẫn các em các bước làm bài toán cơ bản. 
2.3. Một số cách biến đổi đề từ một bài toán gốc thuộc chương Halogen
2.3.1. Kiến thức cần chuẩn bị
	Đầu tiên tôi hướng dẫn các em 4 bước cơ bản để giải một bài toán hóa học đơn giản:
	+ Bước 1: Tính số mol của chất mà đề bài đã cho dữ kiện. (Thường sử dụng một trong các công thức: , , )
+ Bước 2: Viết PTHH của phản ứng xảy ra.
+ Bước 3: Tính số mol của chất mà đề bài yêu cầu theo số mol chất đã biết (Dựa vào tỉ lệ của PTHH) .
+ Bước 4: Từ số mol sử dụng các công thức để tính lượng chất mà đề yêu cầu (Khối lượng: ; thể tích: V = n.22,4; nồng độ )
2.3.2. Một số cách biến đổi đề từ một bài toán hóa học thành các bài toán mới
	Với học sinh “mất gốc” kiến thức cơ bản THCS thật khó khăn để có có thể làm được một bài toán Hóa học dù là đơn giản nhất, bởi lẽ để làm được bài toán hóa học cần phải qua nhiều bước tư duy. Vì vậy để những học sinh này có thể làm được bài toán Hóa học, cần đưa ra một bài toán gốc, giải chi tiết và phân tích kĩ. Sau đó cho học sinh làm những bài toán Hóa học tương tự. Có thể xây dựng hệ thống dạng bài toán mới theo các mức độ tư duy bằng cách biến đổi đề như sau:
	+ Mức độ 1: Thay số dữ kiện bài toán Hóa học đã cho để biến nó thành một bài tập mới. Đây là mức độ đơn giản nhất, ở loại này học sinh chỉ cần thay số dữ kiện trong bài giải mẫu là có thể làm được. Khi đó học sinh chưa thật sự hiểu cách làm, nhưng khi được làm nhiều bài tương tự sẽ tạo ra “lối mòn” cách làm dạng bài tập này trong tư duy học sinh, đồng thời thuộc các công thức và quan trọng nhất là cho các em sự tự tin mình có thể làm được ! 
	+Mức độ 2: Đảo dữ kiện bài toán Hóa học gốc. Ở loại này đặt ra yêu cầu học sinh phải linh hoạt hơn trong cách vận dụng các công thức, yêu cầu các em phải tư duy.
	+ Mức độ 3: Thay tên nguyên tố Hóa học có hóa trị tương tự trong chất tham gia phản ứng. (PTHH tương đuơng với PTHH trong bài toán gốc). Ở loại này yêu cầu các em phải tư duy nhiều hơn nữa: Biết viết PTHH mới, biết thay số linh hoạt hơn.
	+ Mức độ 4: Thay nguyên tố có hóa trị khác với nguyên tố trong bài toán gốc (PTHH có tỉ lệ phản ứng khác với PTHH trong bài toán gốc). Loại này yêu cầu học sinh phải biết vận dụng kiến thức cũ linh hoạt hơn và sau khi làm được loại bài tập này học sinh có thể tự tin rằng mình có thể tự làm được một bài toán hóa học cơ bản.
	+ Mức độ 5: Yêu cầu học sinh tự xây dựng bài toán Hóa học mới. Làm việc này giúp học sinh có khả năng liên kết các dữ kiện bài toán, hiểu được mục đích của dữ kiện và mối quan hệ với yêu cầu bài toán. Biến học sinh từ một “thợ xây” bình thường (thực hiện yêu cầu) thành một “kiến trúc sư” (thiết kế ra sản phẩm), tăng khả năng sáng tạo và nâng tầm tư duy cho học sinh.
2.3.3. Biến đổi đề các dạng bài tập cơ bản ở chương Halogen
	Chương Halogen có nhiều nội dung, song theo tôi nội dung cơ bản và quan trọng nhất là về tính chất của clo và axit clohiđric. Và dạng bài toán cơ bản và đơn giản nên bắt đầu để dạy cho học sinh mất gốc kiến thức môn Hóa học là:
- Kim loại tác dụng với clo: + Tính theo PTHH. 
 + Xác định tên kim loại.
- Kim loại tác dụng với axit clohiđric: + Tính theo PTHH.
 + Xác định tên kim loại.
 + Bài toán có chất dư.
Tôi dùng thời gian còn lại sau khi dạy lí thuyết ở các tiết học của chương Halogen và 2 tiết luyện tập của chương để đưa ra hệ thống bài toán tôi đã xây dựng bằng các cách biến đổi đề bài toán gốc trên, sau cùng là bài kiểm tra tương ứng để đánh giá kết quả dạy và học.
2.3.3.1. Dạng 1: Kim loại + Clo → Muối clorua.
Thông qua dạng bài toán này, củng cố cho học sinh: 
Thuộc PTHH của phản ứng kim loại + Cl2 → Muối clorua
Biết cách tính n, m, V liên quan đến 2 công thức cơ bản đã học ở chương trình hóa học lớp 8: m = n. M và V = n . 22,4.
Bài toán 1: Tính theo PTHH.
Bài toán gốc: Đốt cháy hoàn toàn 2,4 gam Mg trong khí clo dư.
Tính khối lượng sản phẩm thu được.
Tính thể tích (ở đktc) khí Cl2 tối thiểu cần cho phản ứng.
HOẠT ĐỘNG DẠY
HOẠT ĐỘNG HỌC
Hướng dẫn học sinh vận dụng các bước giải bài toán hóa học cơ bản để giải bài tập này, cụ thể các bước:
- Bước 1: Tính số mol của Mg thông qua công thức: (1) .
- Bước 2: Viết PTHH.
- Bước 3: Tính số mol MgCl2 , Cl2 theo Mg.
- Bước 4: Tính khối lượng của MgCl2 theo công thức (1) (Chú ý hướng dẫn học sinh cách tính ) , thể tích của Cl2 theo công thức: 
 V = n . 22,4. 
a) Theo bài ra: mol.
PTHH: Mg + Cl2 MgCl2.
 Theo PTHH: = 0,1 mol.
Þ = 9,5 g .
b) Theo PTHH: = 0,1 mol.
Þ = 2,24 l
Một số cách biến đổi bài toán gốc ra bài toán mới: 
Mức độ 1: Thay khối lượng Mg, giữ nguyên câu hỏi.
Bài 1. Đốt cháy hoàn toàn 4,8 gam Mg trong khí clo dư.
Tính khối lượng sản phẩm thu được.
Tính thể tích (ở đktc) khí Cl2 tối thiểu cần cho phản ứng.
Tùy đối tượng học sinh mà ta có thể đưa ra một số bài dạng này để học sinh thật hiểu mới chuyển sang bài toán mới.
Mục đích: Để học sinh dù chưa thật sự hiểu bài nhưng chỉ cần thay số cũng có thể làm được bài tập và có thêm tự tin để làm các bài tập tiếp theo.
Mức độ 2: Cho thể tích Cl2 (hoặc sản phẩm), yêu cầu tính khối lượng Mg.
Bài 2. Đốt cháy hoàn toàn Mg trong V lít (ở đktc) khí clo vừa đủ đến phản ứng hoàn toàn, thì thu được 14,25 gam sản phẩm.
Tính khối lượng Mg đã tham gia phản ứng.
Tính V.
Có thể tiếp tục thay số liệu ở dạng này để học sinh luyện tập thành thạo.
Bài 3. Đốt cháy hoàn toàn Mg trong 0,672 lít (ở đktc) khí clo vừa đủ đến phản ứng hoàn toàn.
Tính khối lượng Mg đã tham gia phản ứng.
Tính khối lượng sản phẩm.
Có thể tiếp tục thay số liệu ở dạng này để học sinh luyện tập thành thạo.
	Mục đích: Học sinh tiếp tục rèn luyện các thao tác làm một bài toán hóa học cơ bản và biết vận dụng linh hoạt các công thức tính: và . 
Mức độ 3: Thay tên Mg bằng các kim loại có hóa trị tương đương như Zn, Cu
Bài 4. Đốt cháy hoàn toàn 16,25 gam kẽm trong khí clo dư.
Tính khối lượng sản phẩm thu được.
Tính thể tích (ở đktc) khí Cl2 tối thiểu cần cho phản ứng.
Bài 5. Đốt cháy hoàn toàn kẽm trong V lít (ở đktc) khí clo vừa đủ đến phản ứng hoàn toàn, thì thu được 27,2 gam sản phẩm.
Tính khối lượng kẽm đã tham gia phản ứng.
Tính V.
Bài 6. Đốt cháy hoàn toàn kẽm trong 2,24 lít (ở đktc) khí clo vừa đủ đến phản ứng hoàn toàn.
Tính khối lượng kẽm đã tham gia phản ứng.
Tính khối lượng sản phẩm.
Mức độ 4: Thay Mg bằng các kim loại có hóa trị khác như Na, Al, Fe
Bài 7. Đốt cháy hoàn toàn 11,2 gam sắt trong khí clo dư.
Tính khối lượng sản phẩm thu được.
Tính thể tích (ở đktc) khí Cl2 tối thiểu cần cho phản ứng.
HOẠT ĐỘNG DẠY
HOẠT ĐỘNG HỌC
- Giáo viên yêu cầu học sinh làm bài toán theo các bước đã học. 
- Giáo viên lưu ý học sinh:
+ Sắt có 2 hóa trị nhưng do clo có tính oxi hóa mạnh nên sản phẩm tạo thành là muối sắt (III).
 + Khi tính số mol của Cl2 cần chú ý do tỉ lệ phương trình thay đổi.
a) Theo bài ra: mol.
 PTHH: 2Fe + 3Cl2 2FeCl3.
Theo PTHH: = 0,2 mol.
Þ = 32,5 g .
b) Theo PTHH: = 0,3 mol.
Þ = 6,72 l
Bài 8. Đốt cháy hoàn toàn a gam sắt trong V lít (ở đktc) khí clo vừa đủ đến phản ứng hoàn toàn, thì thu được 6,5 gam sản phẩm.
Tính a.
Tính V.
Bài 9. Đốt cháy hoàn toàn nhôm trong 6,72 lít (ở đktc) khí clo vừa đủ đến phản ứng hoàn toàn.
Tính khối lượng nhôm đã tham gia phản ứng.
Tính khối lượng sản phẩm.
Mức độ 5: Yêu cầu học sinh tự xây dựng một số bài toán tương tự.
Bài toán 2: Xác định tên nguyên tố.
Hướng dẫn: Muốn xác định tên một nguyên tố hóa học, ta phải tìm cách tính khối lượng mol của nguyên tố đó. Thường sử dụng công thức: 
Bài toán gốc: Cho 4,6 gam Na tác dụng hoàn toàn với một đơn chất Halogen X thu được 11,7 gam muối halogenua. Xác định tên X.
HOẠT ĐỘNG DẠY
HOẠT ĐỘNG HỌC
- Giáo viên hướng dẫn học sinh: Muốn xác định tên nguyên tố hóa học, cần tính được khối lượng mol của nguyên tố đó. Yêu cầu học sinh đưa ra được các bước giải bài toán này:
+ Bước 1: Tính số mol chất mà đề bài cho dữ kiện (Na).
+ Bước 2: Viết PTHH.
+ Bước 3: Liên hệ số mol chất cần tính (NaX) với chất đã cho (Na).
+ Bước 4: Tính và kết luận.
PTHH: 2Na + X2 2NaX
Theo PTHH: 
 = 0,2 mol
Þ 23 + X = MX = 35,5.
 Vậy X là clo.
Các cách biến đổi bài toán gốc ra một số bài toán mới: 
	Mức độ 1 : Thay đổi số liệu dữ kiện bài toán.
Bài 1. Cho 1,38 gam Na tác dụng hoàn toàn với một đơn chất halogen Y thu được 6,18 gam muối halogenua. Xác định tên Y. (Đáp án : Brom)
Mức độ 2 : Đảo dữ kiện 
Bài 2. Cho 5,06 gam Na tác dụng vừa đủ với 7,81 gam một đơn chất halogen Z. Xác định tên Z. (Đáp án : Clo)
Bài 3. Cho m gam Na tác dụng vừa hết với 1,704 gam một đơn chất halogen A thì thu được 2,808 gam muối halogenua. Xác định m và tên của A. (Đáp án : m =1,104 g ; A là Clo)
 Thông qua bài này còn có thể giới thiệu với các em phương pháp sử dụng định luật bảo toàn khối lượng.
	Mức độ 3 : Thay đổi tên nguyên tố trong dữ kiện bài toán.
Bài 4. Cho 5,4 gam Al tác dụng vừa đủ với 21,3 gam một đơn chất halogen Y. Xác định tên Y. (Đáp án : Clo)
Bài 5. Cho 4,8 gam một kim loại hóa trị 2 tác dụng vừa hết với 4,48 lít khí Cl2 (ở đktc). Xác định tên kim loại. ( Đáp án : Magie)
Bài 6. 5,4 gam một kim loại hóa trị 3 tác dụng vừa đủ với 6,72 lít khí Cl2 (ở đktc). Xác định tên kim loại. (Đáp án : Nhôm)
Bài 7. Cho 2,6 gam một kim loại hóa trị 2 tác dụng vừa đủ với Cl2 thì thu được 5,44 gam muối clorua. Xác định tên kim loại. (Đáp án : Kẽm)
	Mức độ 4: Kim loại không rõ hóa trị.
Bài 8. Cho 6,4 gam một kim loại tác dụng vừa hết với 2,24 lít khí Cl2 (ở đktc). Xác định tên kim loại. 
HOẠT ĐỘNG DẠY
HOẠT ĐỘNG HỌC
- Giáo viên hướng dẫn học sinh: Vì chưa rõ hóa trị nên đặt hóa trị của kim loại là n, liên hệ M với n. Cụ thể hướng dẫn học sinh làm theo các bước đã học:
+ Bước 1: Viết PTHH.
+ Bước 2: Tính số mol chất mà đề bài cho dữ kiện (Cl2) và số mol của kim loại.
+ Bước 3: Liên hệ số mol chất cần tính (M) với chất đã cho.
+ Bước 4: Liên hệ M với n. Hướng dẫn học sinh, hóa trị của kim loại thường từ 1 đến 3 nên n nhận các giá trị từ 1 đến 3 và kết luận.
PTHH: 2M + nCl2 2MCln
Theo bài ra: 0,1 mol
Theo PTHH: 
Vậy kim loại cần tìm là đồng (Cu).
 .
Bài 9. Cho 1,08 gam một kim loại tác dụng vừa hết với 1,344 lít khí Cl2 (ở đktc). Xác định tên kim loại. (Đáp án: Nhôm).
Bài 10. Cho 3,6 gam một kim loại tác dụng vừa hết với khí Cl2 thì thu được 14,25 gam muối clorua. Xác định tên kim loại. (Đáp án : Magie).
Mức độ 5: Yêu cầu học sinh tự xây dựng một số bài toán tương tự.
2.3.3.2. Dạng 2: Kim loại + axit HCl → Muối clorua + H2.
Điều kiện phản ứng: Kim loại đứng trước H trong dãy hoạt động hóa học.
Kim loại trong muối tạo thành có hóa trị thấp.
Thông qua dạng bài toán này, củng cố cho học sinh: 
Thuộc PTHH của phản ứng kim loại + HCl → Muối clorua + H2.
Tiếp tục củng cố các công thức: m = n. M và V = n . 22,4.
Củng cố các công thức tính nồng độ : 

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_cach_bien_doi_de_tu_mot_bai_toan_goc_chuong_halo.doc