SKKN Một số biện pháp vận dụng vào dạy học các bài ôn tập, tổng kết trong ngữ văn THPT theo định hướng phát triển năng lực học sinh

SKKN Một số biện pháp vận dụng vào dạy học các bài ôn tập, tổng kết trong ngữ văn THPT theo định hướng phát triển năng lực học sinh

 Trong bối cảnh hiện nay, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ, khi nền kinh tế tri thức đóng vai trò ngày càng quan trọng với mỗi quốc gia, một yêu cầu đặt ra cho giáo dục và đào tạo là phải thay đổi cách dạy và cách học nhằm tạo ra nguồn nhân lực mới có tri thức khoa học cao, kĩ năng vận dụng vào thực tiễn và dễ dàng thích ứng trong môi trường mới đầy năng động, sáng tạo để giải quyết tốt các vấn đề trong cuộc sống. Nghị quyết 29 của Ban chấp hành trung ương Đảng lần thứ 8 (khóa XI) đã nêu rõ yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam. Trong đó, việc đổi mới giáo dục phổ thông được xem là khâu đột phá. Nội dung trọng tâm của việc đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục phổ thông là sự phát triển năng lực của người học, từ đó nâng cao chất lượng của nguồn nhân lực trong chiến lược phát triển đất nước. Đấy cũng chính là vấn đề đặt ra đối với việc đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn ở trường Trung học phổ thông hướng tới mục tiêu phát triển tốt năng lực người học.

doc 22 trang thuychi01 4580
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số biện pháp vận dụng vào dạy học các bài ôn tập, tổng kết trong ngữ văn THPT theo định hướng phát triển năng lực học sinh", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỘT SỐ BIỆN PHÁP VẬN DỤNG VÀO DẠY HỌC CÁC BÀI ÔN TẬP, TỔNG KẾT TRONG NGỮ VĂN THPT THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC HỌC SINH
I. PHẦN MỞ ĐẦU.
I.1. Lý do chọn đề tài.
 Trong bối cảnh hiện nay, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ, khi nền kinh tế tri thức đóng vai trò ngày càng quan trọng với mỗi quốc gia, một yêu cầu đặt ra cho giáo dục và đào tạo là phải thay đổi cách dạy và cách học nhằm tạo ra nguồn nhân lực mới có tri thức khoa học cao, kĩ năng vận dụng vào thực tiễn và dễ dàng thích ứng trong môi trường mới đầy năng động, sáng tạo để giải quyết tốt các vấn đề trong cuộc sống. Nghị quyết 29 của Ban chấp hành trung ương Đảng lần thứ 8 (khóa XI) đã nêu rõ yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam. Trong đó, việc đổi mới giáo dục phổ thông được xem là khâu đột phá. Nội dung trọng tâm của việc đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục phổ thông là sự phát triển năng lực của người học, từ đó nâng cao chất lượng của nguồn nhân lực trong chiến lược phát triển đất nước. Đấy cũng chính là vấn đề đặt ra đối với việc đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn ở trường Trung học phổ thông hướng tới mục tiêu phát triển tốt năng lực người học.
 Bài ôn tập, tổng kết trong môn Ngữ Văn đóng vai trò vô cùng quan trọng. Nó có mục tiêu củng cố, hệ thống hóa những kiến thức cơ bản theo đặc trưng đơn vị kiến thức từng phần, từng giai đoạn, thời kì đồng thời định hướng rèn luyện kĩ năng, phát triển năng lực người học. Tuy nhiên, do bài ôn tập mang tính khái quát, tổng hợp, tính hệ thống logic, tính khoa học với khối lượng tri thức lớn, vấn đề rộng, nên cả giáo viên và người học thường “ngại” học, “ngại” dạy. Phương pháp dạy học kiểu bài này không được chú ý, đầu tư. Đa số còn nặng về hình thức, làm theo kiểu rập khuôn, máy móc. Giờ học vì thế trở nên nhàm chán, không tạo được hứng thú học tập cho học sinh. Mục tiêu phát triển năng lực người học không thể đạt được như mong muốn. Dạy học kiểu bài ôn tập, tổng kết theo định hướng phát triển năng lực người học sẽ giúp cho giờ Văn không khô khan, nhàm chán mà sẽ tạo được hứng khởi cho học sinh, hướng tới mục tiêu đổi mới phương pháp dạy học Ngữ Văn ở trường THPT.
 Thực tiễn dạy học của bản thân cũng như qua dự giờ đồng nghiệp, tôi thấy cần thiết phải đổi mới phương pháp dạy học kiểu bài này. Từ những lí do trên, tôi xin mạnh dạn viết đề tài khoa học: “Một số biện pháp vận dụng vào dạy học bài ôn tập, tổng kết trong Ngữ Văn THPT theo định hướng phát triển năng lực người học”. Tôi tin rằng, khi giáo viên chủ động, linh hoạt vận dụng các phương pháp dạy học tích cực vào dạy học các bài học vốn khô khan, đơn điệu sẽ giảm đi áp lực, tạo hứng thú, niềm say mê đồng thời góp phần phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo tri thức cũng như rèn luyện kĩ năng và giá trị sống cho học sinh. Nhân rộng mô hình dạy học này vào những bài học khác nữa của bộ môn Ngữ Văn sẽ là một hướng đi thiết thực trong đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ phương pháp dạy học Ngữ Văn ở trường THPT.
I.2. Mục đích nghiên cứu:
 Mục đích nghiên cứu đề tài này là góp phần rèn luyện tính sáng tạo, giúp các em chủ động tiếp cận tri thức, tạo sự hứng khởi trong giờ học để đạt kết quả cao nhất. Đồng thời giúp người dạy đỡ nhàm chán vất vả trong các giờ ôn tập, tổng kết.
I.3. Đối tượng nghiên cứu: 
- Các bài ôn tập tổng kết trong chương trình ngữ văn THPT. 
- Các phương pháp dạy học tích cực. 
- Sự tiếp thu, hứng khởi và hiệu quả giờ học theo định hướng phát triển năng lực của học sinh.
I.4. Phương pháp nghiên cứu.
 Để thực hiện hiện đề tài này, tôi sử dụng phương pháp nghiên cứu: phân tích, thống kê, so sánh, đối chiếu, khảo sát, thực nghiệm, tổng hợp là chủ yếu.
I.5. Những điểm mới của SKKN:
 Theo sự tìm hiểu của cá nhân, cho đến nay vẫn chưa thấy công trình khoa học nào nghiên cứu đề tài này. Bởi vậy trong quá trình hoàn thành sáng kiến người viết còn gặp những khó khăn nhất định. Đề tài sẽ mở ra hướng tổ chức dạy học mới trong các giờ dạy ôn tập văn học cho đồng nghiệp ở Ngữ Văn THPT. Hướng khai thác mới này sẽ giúp học sinh tạo hứng thú, niềm đam mê của học sinh với bộ môn. Các em vừa củng cố được tri thức lại phát triển tốt các năng lực cơ bản của mình. 
II. PHẦN NỘI DUNG.
II.1. Cơ sở lí luận của SKKN.
 Phương pháp dạy học theo quan điểm phát triển năng lực không chỉ chú ý tích cực hóa học sinh về mặt trí tuệ mà còn chú ý rèn luyện năng lực giải quyết vấn đề gắn với những tình huống của cuộc sống và nghề nghiệp, đồng thời gắn hoạt động trí tuệ với hoạt động thực hành, thực tiễn. Tăng cường việc học tập trong nhóm, đổi mới quan hệ giáo viên – học sinh theo hướng cộng tác có ý nghĩa quan trọng nhằm phát triển năng lực xã hội. 
 Dạy học Ngữ văn theo hướng phát triển năng lực nghĩa là thông qua bộ môn, học sinh có khả năng kết hợp một cách linh hoạt  kiến thức, kỹ năng với thái độ, tình cảm, động cơ cá nhân nhằm đáp ứng hiệu quả một số yêu cầu phức hợp của hoạt động trong một số hoàn cảnh nhất định.
 Trong định hướng phát triển CT GDPT sau 2015, môn Ngữ  văn được coi là môn học công cụ, theo đó, năng lực giao tiếp tiếng Việt và năng lực thưởng thức văn học/ cảm thụ thẩm mỹ là năng lực mang tính đặc thù của môn học; ngoài ra năng lực tư duy sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề, năng lực hợp tác, năng lực tự quản bản thân cũng đóng vai trò quan trọng trong việc xác định nội dung dạy học của môn học.
Năng lực
Đặc điểm
Thể hiện trong môn Ngữ Văn
Năng lực giải quyết vấn đề.
- Phát hiện vấn đề, đề xuất giải pháp.
- Thực hiện.
- Phát hiện và lí giải những vấn đề nhập nhằng, mơ hồ, đa nghĩa, khó hiểu trong nội dung và nghệ thuật.
- Phát hiện và lí giải những vấn đề trong thực tiễn đời sống được gợi ra từ tác phẩm. Ví dụ: “Đi bộ ngao du” Ngày nay các phương tiện giao thông đa dạng và hiện đại, vậy theo em đi bộ có còn phù hợp không? 
- Phát hiện và đánh giá những khó khăn, thách thức đặt ra trong quá trình tạo lập văn bản nói và viết
Năng lực sáng tạo.
- Phát hiện những ý tưởng mới nảy sinh trong học tập và cuộc sống.
- Đề xuất các giải pháp một cách thiết thực.
- Áp dụng vào tình huống mới.
- Có cách tiếp cận và cắt nghĩa độc đáo về nội dung, giá trị của tác phẩm.
- Phát hiện những nét nghĩa mới, giá trị mới của văn bản.
- Có cách nói và cách viết sáng tạo, độc đáo, hiệu quả.
Năng lực hợp tác
- Phối hợp, tương tác hỗ trợ nhau cùng thực hiện nhiệm vụ để cùng đạt mục tiêu chung (thảo luận nhóm). Thảo luận nhóm là phương pháp có thể áp dụng với nhiều bài học, điều quan trọng ta phải chú ý là đề tài cho học sinh thảo luận phải là đề tài có tính phức hợp, có vấn đề, cần huy động sự suy nghĩ của nhiều người.
- Thể hiện ở việc HS cùng chia sẻ, phối hợp với nhau trong các hoạt động học tập qua việc thực hiện các nhiệm vụ học tập diễn ra trong giờ học. Thông qua các hoạt động nhóm, cặp, học sinh thể hiện những suy nghĩ, cảm nhận của cá nhân về những vấn đề đặt ra, đồng thời lắng nghe những ý kiến trao đổi thảo luận của nhóm để tự điều chỉnh cá nhân mình. Đây là những yếu tố rất quan trọng góp phần hình thành nhân cách của người học sinh trong bối cảnh mới.
Năng lực tự quản bản thân.
- Làm chủ cảm xúc.
- Suy nghĩ và hành động hướng vào mục tiêu phù hợp với hoàn cảnh.
- Tự đánh giá, điều chỉnh hành động phù hợp với những tình huống mới
- Học sinh cần biết xác định các kế hoạch hành động cho cá nhân và chủ động điều chỉnh kế hoạch để đạt được mục tiêu đặt ra, nhận biết những tác động của ngoại cảnh đến việc tiếp thu kiến thức và rèn luyện kĩ năng của cá nhân để khai thác, phát huy những yếu tố tích cực, hạn chế những yếu tố tiêu cực, từ đó xác định được các hành vi đúng đắn, cần thiết trong những tình huống của cuộc sống
Năng lực giao tiếp tiếng Việt.
- Sử dụng tiếng Việt một cách phù hợp và hiệu quả trong tình huống giao tiếp.
- Năng lực giao tiếp bao gồm các thành tố: sự hiểu biết và khả năng sử dụng ngôn ngữ, sự hiểu biết về các tri thức của đời sống xã hội, sự vận dụng phù hợp những hiểu biết trên vào các tình huống phù hợp để đạt được mục đích.
- Hình thành và phát triển cho HS năng lực giao tiếp ngôn ngữ là một mục tiêu quan trọng, cũng là mục tiêu thế mạnh mang tính đặc thù của môn học. 
- Học sinh được hiểu về các quy tắc của hệ thống ngôn ngữ và cách sử dụng phù hợp, hiệu quả trong các tình huống giao tiếp cụ thể.
- HS được luyện tập những tình huống hội thoại theo nghi thức và không nghi thức, các
phương châm hội thoại. 
- Các bài đọc hiểu văn bản cũng tạo môi trường, bối cảnh để HS được giao tiếp cùng tác giả và môi trường sống xung quanh, được hiểu và nâng cao khả năng sử dụng tiếng Việt văn hóa, văn học. 
- Năng lực giao tiếp trong các nội dung dạy học tiếng Việt được thể hiện ở 4 kĩ năng cơ bản: nghe, nói, đọc, viết và khả năng ứng dụng các kiến thức và kĩ năng ấy vào các tình huống giao tiếp khác nhau trong cuộc sống.
Năng lực thưởng thức văn học/cảm thụ thẩm mĩ.
Biết nhận diện, thưởng thức và đánh giá cái đẹp trong văn học và cuộc sống, biết làm chủ cuộc sống, biết làm chủ cảm xúc của bản thân, biết hành động hướng theo cái đẹp, cái thiện
– Cảm nhận vẻ đẹp của ngôn ngữ văn học, biết rung động trước những hình ảnh, hình tượng được khơi gợi trong tác phẩm về thiên nhiên, con người, cuộc sống qua ngôn ngữ nghệ thuật.
– Nhận ra được những giá trị thẩm mĩ được thể hiện trong tác phẩm văn học. Từ đó cảm nhận được những giá trị tư tưởng và cảm hứng nghệ thuật của nhà văn được thể hiện qua tác phẩm.
– Cảm hiểu được những giá trị của bản thân qua việc cảm hiểu tác phẩm văn học; hình thành và nâng cao nhận thức và xúc cảm thẩm mĩ của cá nhân; biết cảm nhận và rung động trước vẻ đẹp của thiên nhiên, con người, cuộc sống; có những hành vi đẹp đối với bản thân và các mối quan hệ xã hội; hình thành thế giới quan thẩm mĩ cho bản thân qua việc tiếp nhận tác phẩm văn chương.
- Từ việc tiếp xúc với các văn bản văn học, HS sẽ biết rung động trước cái đẹp, biết sống và hành động vì cái đẹp, nhận ra cái xấu và phê phán những hình tượng, biểu hiện không đẹp trong cuộc sống, biết đam mê và mơ ước cho cuộc sống tốt đẹp hơn.
 Như vậy, quá trình dạy học Ngữ văn đồng thời giúp HS hình thành và phát triển các năng lực đáp ứng với yêu cầu phát triển của xã hội, thông qua việc rèn luyện và phát triển các kĩ năng đọc, viết, nghe, nói. Trong quá trình hướng dẫn HS tiếp xúc với văn bản, môn Ngữ văn còn giúp HS từng bước hình thành và nâng cao các năng lực học tập của môn học, cụ thể là năng lực tiếp nhận văn bản (gồm kĩ năng nghe và đọc) và năng lực tạo lập văn bản (gồm kĩ năng nói và viết).
II.2. Thực trạng dạy và học các bài ôn tập trong chương trình Ngữ văn THPT.
 Thực trạng dạy học Ngữ Văn ở trường THPT cho thấy, các tiết học kiểu bài ôn tập , tổng kết trong môn Ngữ Văn còn nhiều khó khăn và bất cập. Giáo viên còn ngại, lúng túng trong vận dụng phương pháp dạy học với các bài học này. Giờ học nhiều khi được thực hiện qua quýt. Giờ dạy học nặng về kiến thức mà không chú trọng tới rèn luyện kĩ năng, phát triển năng lực. Hơn nữa, không ít giáo viên quên mất rằng tiết ôn tập không phải là nhắc lại các kiến thức đã học mà là để giúp học sinh tìm ra mạch kiến thức cơ bản của một nội dung đã được học. Rất ít giáo viên tự tin, tâm huyết đầu tư vào bài dạy này để thao giảng hay dự giờ. Về phía học sinh, chuẩn bị ở nhà cho kiểu bài này cũng thực hiện cho có lệ; chuẩn bị các câu trả lời sơ sài, mang tính đối phó. Thậm chí nhiều em soạn bài xong cũng không hiểu, không nắm được nội dung là gì. Trên lớp, học sinh ngại động não, suy nghĩ, chỉ quen nghe giảng, chờ đợi giáo viên thông báo đáp án, ít có hứng thú học tập. Do đó kiến thức hời hợt, khi phải vận dụng vào các trường hợp cụ thể thì lúng túng, sai lầm. Thậm chí các em ngại và sợ phát biểu sai. Do đó nếu không được khích lệ. tạo điều kiện thì thường ngồi ì, không động não.
 Thực trạng như trên, chính bởi GV chưa tạo ra những tình huống gây sự chú ý và kích thích hứng thú của HS, chưa đầu tư thích đáng cho hệ thống câu hỏi hướng dẫn nhằm phát huy tính tích cực, tìm tòi, sáng tạo của HS trong quá trình học tập. GV chưa bám sát mức độ nội dung kiến thức cơ bản mà HS cần nắm vững nên chưa có biện pháp làm nổi bật, khắc sâu những kiến thức đó, nhất là chưa chú trọng đúng mức vào việc rèn luyện, phát triển năng lực người học. Ngoài ra, nguyên nhân còn ở học sinh. Học sinh vẫn còn chịu ảnh hưởng nặng nề của cách học thụ động. Những điều HS có được sau mỗi bài học không phải là kết quả của sự hoạt động tích cực, tự lực để chiếm lĩnh kiến thức. Do đó HS nắm kiến thức hời hợt khi vận dụng dễ mắc sai lầm.
 Bởi vậy, việc tích cực, tự giác, sáng tạo của giáo viên Ngữ văn trong dạy học nói chung và dạy kiểu bài ôn tập, tổng kết nói riêng có vai trò hết sức quan trọng. Vận dụng các phương pháp dạy học tích cực, dạy học theo định hướng phát triển năng lực, từ lấy thầy làm trung tâm sang lấy trò làm trung tâm, GV chỉ là người hướng dẫn, dẫn dắt HS lĩnh hội tri thức mới. Kết hợp với sử dụng phương tiện dạy học hiện đại, nhất là ứng dụng công nghệ thông tin lôi cuốn, hấp dẫn HS; khiến các em hứng thú, say mê trong mỗi giờ văn. Phải coi mục tiêu rèn luyện và phát triển kĩ năng của người học là mục tiêu quan trọng nhất trong mỗi giờ ôn tập.
II.3. Một số giải pháp nhằm phát triển năng lực người học trong dạy học các bài ôn tập văn học trong chương trình Ngữ Văn THPT.
 - Vận dụng các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực vào dạy học các bài ôn tập. Phương pháp dạy học tích cực (PPDH tích cực) là một thuật ngữ rút gọn, được dùng để chỉ những phương pháp giáo dục, dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học. PPDH tích cực hướng tới việc hoạt động hóa, tích cực hóa hoạt động nhận thức của người học chứ không phải là tập trung phát huy tính tích cực của người dạy.
 - Một số phương pháp dạy học tích cực được vận dụng trong dạy học các bài ôn tập:
II.3.1. Vận dụng Phương pháp dạy học nhóm.
 Dạy học nhóm còn được gọi bằng những tên khác nhau như: Dạy học hợp tác, Dạy học theo nhóm nhỏ, trong đó HS của một lớp học được chia thành các nhóm nhỏ, trong khoảng thời gian giới hạn, mỗi nhóm tự lực hoàn thành các nhiệm vụ học tập trên cơ sở phân công và hợp tác làm việc. Kết quả làm việc của nhóm sau đó được trình bày và đánh giá trước toàn lớp. Dạy học nhóm nếu được tổ chức tốt sẽ phát huy được tính tích cực, tính trách nhiệm; phát triển năng lực cộng tác làm việc và năng lực giao tiếp của HS. Đây là phương pháp được sử dụng thường xuyên trong các tiết dạy kiểu bài này khi hệ thống hóa tri thức đã học hay khi thực hiện các bài tập ứng dụng:
 - Dạy bài: “ Ôn tập văn học dân gian Việt Nam (Ngữ Văn 10). Trong khoảng thời gian 5-7 phút, tôi chia lớp thành 4 nhóm thực hiện các nhiệm vụ giáo viên đưa ra, dựa trên sự chuẩn bị bài của mỗi cá nhân ở nhà. Nhóm trưởng có nhiệm vụ phân công nhiệm vụ cụ thể cho mỗi thành viên trong nhóm. Các thành viên trong nhóm giúp đỡ lẫn nhau để hoàn thiện nhiệm vụ chung. Mỗi nhóm cử đại diện lên trình bày. Với nội dung này, tôi thường yêu cầu học sinh hệ thống tri thức theo kiểu sơ đồ tư duy để học sinh dễ thep dõi, cũng như rèn luyện tốt thao tác tư duy so sánh, phát hiện vấn đề. Để tạo hứng thú cho học sinh, cũng như khơi gợi ở các em năng lực sáng tạo, nhiệm vụ giáo viên đưa ra không nên trùng lặp với các câu hỏi có sẵn trong sách giáo khoa. Vấn đề phải bắt buộc học trò động não, trên cơ sở kiến thức đã có, đã chuẩn bị.
+ Nhóm 1: Đặc trưng cơ bản của văn học dân gian.
+ Nhóm 2, 3: Đặc trưng cơ bản của các thể loại: Sử thi, truyền thuyết, truyện cổ tích, truyện cười. (Tự sự dân gian)
+ Nhóm 4: Đặc trưng cơ bản của Ca dao.
 - Cũng thế, với những bài ôn tập phần Tiếng Việt, Làm Văn, phương pháp dạy học nhóm thực sự có tác dụng rất lớn trong việc rèn luyện phát triển các kĩ năng cho học sinh. 
II.3.2. Phương pháp trò chơi.
 Phương pháp trò chơi là phương pháp tổ chức cho HS tìm hiểu một vấn đề hay thể nghiệm những hành động, những thái độ, những việc làm thông qua một trò chơi nào đó. Đây là phương pháp dạy học được tôi sử dụng trong hầu hết các tiết ôn tập, tổng kết. Dĩ nhiên, để không khiến cho giờ học trở nên nhàm chán, đơn điệu, đòi hỏi giáo viên phải đầu tư công phu vào việc thiết kế trò chơi. Đa dạng hóa các kiểu loại trò chơi, đặc biệt ứng dụng các trò chơi đang rất "ăn khách" trên các phương tiện thông tin đại chúng hiện nay. Trên thực tế chúng ta có thể đưa vào những trò chơi quen thuộc như: Tìm ô chữ; Mảnh ghép; Đố nhanh, đoán tài... Hay biến tấu các trò chơi nổi tiếng như: Đuổi hình bắt chữ; Rung chuông vàng; Ai là triệu phú; Đấu trường 100... Với những tiết ôn tập phần văn học, giáo viên nên có thêm phần thi hùng biện để phát triển tốt năng lực cảm thụ thẩm mĩ của học sinh. Để trò chơi thành công, giáo viên cần đầu tư vào hệ thống câu hỏi. Vừa có câu hỏi theo kiểu trả lời trắc nghiệm, vừa có câu hỏi trả lời ngắn; câu hỏi hướng tới các câu trả lời vẫn phải đảm bảo 4 cấp độ: nhận biết – thông hiểu – vận dụng thấp – vận dụng cao.
* Trò chơi được sử dụng trong phần khởi động.
 Khi dạy bài Ôn tập văn học, Ngữ Văn 11, ở phần khởi động, tôi dạy thí điểm ở hai lớp với hai loại trò chơi như sau :
 Tham gia vào trò chơi “Đố nhanh đoán nhanh” về đặc điểm lịch sử, xã hội, văn hóa cùng các tác giả, tác phẩm văn học trong giai đoạn này trên cơ sở kiến thức đã học. Giáo viên có thể là người đưa ra câu hỏi hoặc chia lớp thành 2 đội chơi, bên này hỏi bên kia đáp, dựa theo sự chuẩn bị ở nhà của HS.
Tham gia trò chơi “ Đuổi hình bắt chữ” – giáo viên sử dụng máy chiếu, đưa ra các gợi ý, là những hình ảnh để học sinh tìm ra các tác giả, tác phẩm văn học trong giai đoạn này trên cơ sở kiến thức đã học.
 Hoạt động khởi động có mục đích tạo tâm thế, hứng khởi để các em sẵn sàng bước vào bài học mới. Cũng thông qua đó, giáo viên có thể kiểm tra lại kiến thức mà các em đã tích lũy được trong cuộc sống và quá trình học tập trước đó. Bộ hình ảnh sử dụng trong trò chơi “đuổi hình bắt chữ” có thể như sau:
* Hình ảnh 1: Hình ảnh này gợi em nghĩ đến tác phẩm nào? Tác giả? 
 * Hình ảnh 2: Nhân vật nào trong tác phẩm em đã học? Tác giả? 
- Trò chơi được sử dụng trong phần hệ thống tri thức
 Tổ Ngữ Văn ở trường chúng tôi đã sử dụng tiết 1 bài Ôn tập văn học trung đại Việt Nam, Ngữ Văn 11, dưới hình thức sân chơi “Rung chuông vàng” hoặc “Đường lên đỉnh Olympia” (có sự cách tân), với sự tham gia của 30/40 học sinh, 10/40 học sinh còn lại- là những em có học lực môn Văn khá giỏi đóng vai trò đội tiếp sức, giáo viên là người tham vấn. Để tổ chức sân chơi này, trước giờ học, tôi yêu cầu các nhóm học tập về xây dựng câu hỏi và đáp án theo định hướng của giáo viên và nộp về cho mình. Nội dung câu hỏi làm nổi bật được đặc điểm của văn học trung đại cả về nội dung tư tưởng và đặc sắc nghệ thuật. Câu hỏi có cả hai loại trắc nghiệm và trả lời ngắn. Xen lẫn giữa các phần thi là các tiết mục văn nghệ của HS. 
- Trò chơi được sử dụng khi vận dụng luyện tập.
 Văn học là một bộ môn nghệ thuật. Năng lực cảm thụ thẩm mĩ là năng lực đặc thù mà bộ môn hướng tới. Chúng ta đổi mới mạnh mẽ PPDH nhưng không được tách rời đặc trưng bộ môn. Thực tiễn cho thấy, chúng tôi đã cải tiến phương pháp dạy học truyền thống trong môn Văn như Giảng bình và đem lại hiệu quả rất tốt. Điểm khác biệt so với giảng bình truyền thống là giáo viên làm, thì trong dạy học tích cực học sinh là người làm công việc ấy. Chúng tôi đã lồng ghép vấn đề này vào bài dạy khi kết hợp vận dụng nó với PP trò chơi. Ví dụ khi tổ chức Rung chuông vàng, em cuối cùng nếu không trả lời được câu hỏi cuối để được rung chuông sẽ tham gia vào phần thi thay thế: Văn học và những cảm nhận. Ở đó giáo viên đưa ra một vấn đề đòi hỏi ở học sinh không chỉ thể hiện sự hiểu biết mà còn thể hiện các năng lực như: sáng tạo, cảm thụ thẩm mĩ, năng lực sử dụng tiếng Việt... Hoặc khi cả hai em trở lên còn lại sau khi trả lời câu hỏi cuối cùng của cuộc thi, sẽ phân định qua phần thi năng lực này.
II.3.3. Phương pháp dạy học dự án
 Với những bài như Tổng kết phần văn học, phần tiếng

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_bien_phap_van_dung_vao_day_hoc_cac_bai_on_tap_to.doc