SKKN Giáo viên chủ nhiệm với công tác giáo dục học sinh cá biệt trong nhà trường

SKKN Giáo viên chủ nhiệm với công tác giáo dục học sinh cá biệt trong nhà trường

Trong nhà trường vai trò của người giáo viên gắn liền với hai nhiệm vụ: Vừa giảng dạy và vừa làm công tác giáo dục. Mục đích là đào tạo ra những học sinh vừa có kiến thức văn hóa,vừa có nhân cách làm người.

Giáo dục là khoa học, nhưng cũng là nghệ thuật và người giáo viên được ví như là nghệ sĩ. Gần đây, trên các phương tiện thông tin báo chí, truyền hình đã đề cập khá nhiều về học sinh cá biệt. Vấn dề này đã trở thành mối quan ngại chung của toàn xã hội nói chung, nhất là với gia đình và nhà trường. Trước những vụ bạo lực học đường liên tiếp xảy ra gần đây đặt giáo viên và các nhà quản lý giáo dục trước thực tế: làm thế nào để cảm hóa và giáo dục học sinh cá biệt có hiệu quả là một vấn đề khá nan giải, phức tạp và hết sức nhạy cảm. Công việc này đã và đang trở thành một thách thức lớn với toàn xã hội nói chung và đặc biệt là ngành giáo dục nói riêng, trong đó chủ yếu là nhiệm vụ của các nhà trường.

Vậy làm sao để giáo dục học sinh cá biệt có hiệu quả?

Với mong muốn góp phần vào việc luận giải những vấn đề nói trên, tôi chọn đề tài: “Giáo viên chủ nhiệm với công tác giáo dục học sinh cá biệt trong nhà trường”, vấn đề mà chắc hẳn không chỉ riêng tôi, mà rất nhiều đồng nghiệp khác quan tâm suy nghĩ là làm sao học sinh của mình trở thành những con người tốt có ích cho xã hội.

 

doc 21 trang thuychi01 5360
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Giáo viên chủ nhiệm với công tác giáo dục học sinh cá biệt trong nhà trường", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
TRƯỜNG THPT LÊ HỒNG PHONG
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
 GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM VỚI CÔNG TÁC GIÁO DỤC HỌC SINH CÁ BIỆT TRONG NHÀ TRƯỜNG
Người thực hiện: Nguyễn Thanh Thủy
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Chủ nhiệm
THANH HÓA, NĂM 2019
MỤC LỤC
TT
Nội dung
Trang
MỤC LỤC
1
PHẦN I: MỞ ĐẦU
2
I.
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
2
1.
Cơ sở lý luận.
2
2.
Cở sở thực tiễn.
5
PHẦN II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
6
I.
HIỂU NHƯ THẾ NÀO LÀ HỌC SINH CÁ BIỆT?
6
II.
NHỮNG BIỂU HIỆN NHÂN CÁCH CỦA HỌC SINH CÁ BIỆT
7
1.
Qua lời nói
7
2.
Qua cử chỉ hành động
7
3.
Qua quan hệ với bạn bè và người khác
8
III.
NHỮNG DẠNG HỌC SINH CÁ BIỆT VÀ BIỆN PHÁP XỬ LÍ
8
1.
Dạng học sinh ương ngạnh do gia đình quá chiều chuộng
8
2.
Dạng học sinh cá biệt do gia đình bỏ rơi thiếu quan tâm
9
3.
Dạng học sinh cá biệt có hoàn cảnh khá đặc biệt
10
IV.
NHỮNG KINH NGHIỆM TRONG VIỆC GIÁO DỤC HỌC SINH CÁ BIỆT
11
1.
Tìm hiểu kỹ từng đối tượng học sinh cá biệt
11
2.
Phân nhóm đối tượng, tìm ra phương pháp giáo dục tối ưu nhất cho từng đối tượng
11
3.
Kết hợp một số yếu tố khác
13
V.
KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC TRONG THỜI GIAN ÁP DỤNG
14
PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
15
I.
KẾT LUẬN
15
II.
KIẾN NGHỊ, ĐỀ SUẤT
15
TÀI LIỆU THAM KHẢO
SÁNG KIẾN ĐÃ ĐƯỢC XẾP LOẠI
PHỤ LỤC
PHẦN I: MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
1.Cơ sở lý luận.
Trong nhà trường vai trò của người giáo viên gắn liền với hai nhiệm vụ: Vừa giảng dạy và vừa làm công tác giáo dục. Mục đích là đào tạo ra những học sinh vừa có kiến thức văn hóa,vừa có nhân cách làm người.
Giáo dục là khoa học, nhưng cũng là nghệ thuật và người giáo viên được ví như là nghệ sĩ. Gần đây, trên các phương tiện thông tin báo chí, truyền hình đã đề cập khá nhiều về học sinh cá biệt. Vấn dề này đã trở thành mối quan ngại chung của toàn xã hội nói chung, nhất là với gia đình và nhà trường. Trước những vụ bạo lực học đường liên tiếp xảy ra gần đây đặt giáo viên và các nhà quản lý giáo dục trước thực tế: làm thế nào để cảm hóa và giáo dục học sinh cá biệt có hiệu quả là một vấn đề khá nan giải, phức tạp và hết sức nhạy cảm. Công việc này đã và đang trở thành một thách thức lớn với toàn xã hội nói chung và đặc biệt là ngành giáo dục nói riêng, trong đó chủ yếu là nhiệm vụ của các nhà trường.
Vậy làm sao để giáo dục học sinh cá biệt có hiệu quả?
Với mong muốn góp phần vào việc luận giải những vấn đề nói trên, tôi chọn đề tài: “Giáo viên chủ nhiệm với công tác giáo dục học sinh cá biệt trong nhà trường”, vấn đề mà chắc hẳn không chỉ riêng tôi, mà rất nhiều đồng nghiệp khác quan tâm suy nghĩ là làm sao học sinh của mình trở thành những con người tốt có ích cho xã hội.
Giáo dục học sinh cá biệt là công việc rất khó đầy gian nan và thử thách, đòi hỏi người giáo viên phải có trái tim yêu nghề, yêu trẻ và đầy lòng nhân ái. Hiện nay do xu thế hội nhập kinh tế thị trường, mặt trái của xã hội len lỏi vào khắp nơi trong mọi ngóc ngách cuộc sống. Nó tác động mạnh mẽ đến tuổi trẻ làm cho các em nhiều lúc mất phương hướng, suy nghĩ lệch lạc, suy thoái phẩm chất đạo đức. Trong đó lứa tuổi học sinh THPT là lứa tuổi dễ bị kích động, bởi lứa tuổi này vừa có cá tính tò mò, khám phá, vừa nhạy cảm, thích làm người lớn... Người làm công tác giáo dục còn thờ ơ, chưa quan tâm sâu sắc đến việc giáo dục nhân cách học sinh. Tình trạng học sinh đánh nhau, hỗn láo, vô lễ với giáo viên, thậm chí còn hành hung với thầy cô trên địa bàn cả nước còn xảy ra đã trở thành vấn đề đau đầu trong ngành giáo dục. Đã đến lúc ngành giáo dục cần phải tập trung quyết liệt việc giáo dục nhân cách cho học sinh. Cổ nhân có câu: “Yếu tri vi thế quả - Kim tri tắc giả thị” nghĩa là: Muốn biết tương lai thế nào hãy nhìn vào hiện tại. Tương lai của ngành giáo dục có phát triển rực rỡ không? Đất nước sau này có hưng thịnh bền lâu không? Phần lớn thể hiện quá trình giáo dục hiện nay.
 Đau lòng biết bao khi nghe đến cảnh vì không có tiền chơi Internet mà cháu đánh bà nội chết đi, hay cảnh bạo lực học sinh đâm chết nhau trong trường học hoặc tình trạng học sinh trong lớp, trong trường “xử” nhau vì những mâu thuẫn rất nhỏ.
 Nói đến học sinh cá biệt có lẽ trường nào cũng có. Các em nếu thiếu sự quan tâm giáo dục chặt chẽ của nhà trường, gia đình, xã hội thì những điều thương tâm trên tránh đâu cho khỏi. Với thời gian 20 năm công tác tại trường THPT Lê Hồng Phong – thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Lĩnh vực chuyên môn là giảng dạy môn Địa lí, đặc thù môn học 1,5 tiết/tuần nên tôi tham gia giảng dạy ở nhiều lớp, nhất là tôi luôn được nhà trường giao cho công tác chủ nhiệm nên bản thân tôi cũng gặp và tiếp xúc với những học sinh cá biệt của nhà trường qua các năm học, các khóa chủ nhiệm. Qua tiếp xúc với các học sinh tôi nhận thấy rằng các học sinh này hầu hết là những học sinh có học lực trung bình, nhiều em học lực xếp loại yếu, phần lớn các em đều có những hoàn cảnh éo le khác nhau, nhiều em do bố (mẹ) đi làm ăn xa, ít được quan tâm chăm sóc, hoặc nhiều gia đình có điều kiện thường cho các em tiền để tiêu sài dẫn đến việc các em có tiền vào quán điện tử chơi hay bỏ học đi chơi, số khác do gia đình không quan tâm đến việc học hành của các em vì gia đình quá nghèo nên cả bố mẹ đều phải đi làm ăn xa, gửi con cho ông, bà, cô bác. Vì vậy các em không được quan tâm chăm sóc và giám sát của gia đình nên dễ bị lôi kéo rủ rê, số còn lại các em không được gia đình kèm cặp và quan tâm nên các em đã bị mất gốc về kiến thức văn hoá dẫn đến tình trạng các em học mà không hiểu bài từ đó các em chán nản và quậy phá trong giờ học làm ảnh hưởng đến việc dạy và học trong lớp.
Học sinh cá biệt trường nào cũng có, nhưng không nhiều, song lại là “lực cản” rất lớn, thậm trí là thế lực “đen” đe dọa, khống chế những nhân tố tích cực dám đấu tranh bảo vệ lẽ phải ở trong lớp, trong trường. Vậy nên tôi luôn trăn trở làm sao để giáo dục học sinh cá biệt có hiệu quả? Nay tôi mạnh dạn chọn đề tài: “Một số biện pháp giáo dục học sinh cá biệt trong nhà trường” với mong muốn trao đổi với đồng nghiệp những tâm tư, những điều áp dụng thành công trong thực tiễn. Đề tài chỉ đi sâu vào nghiên cứu học sinh cá biệt về nhân cách đạo đức, chủ yếu ở học sinh THPT nơi tôi đang công tác. 
Giáo dục là quá trình dạy dỗ, giúp đỡ, giáo dục học sinh đạt đến những điều mình mong muốn. Đó là các em trở thành những người hiểu biết sâu rộng về kiến thức khoa học, về cuộc sống, có đạo đức tốt, có những suy nghĩ và hành động đúng đắn.
Con người vốn hiền lành, Khổng Tử đã dạy: “Nhân chi sơ tánh bổn thiện”. Đúng vậy, không có ai sinh ra là hung dữ ngay nhưng do quá trình sống và lớn lên con người chịu sự tác động của các yếu tố xung quanh như bạn bè, gia đình, xã hội... nên mỗi người hình thành nên mỗi tính cách. Tục ngữ có câu: “Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài”, “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”. Những học sinh cá biệt chắc chắn điều kiện ngoại cảnh Gia đình - Bạn bè - Xã hội đang sống là không tốt. Nhưng làm sao giúp đỡ các em “ Gần mực mà không đen, ở ống mà không dài”. Đó là nhiệm vụ của các nhà giáo dục, của thầy cô của nhà trường chúng ta. Bác Hồ đã dạy : 
“Ngủ thì ai cũng như lương thiện
Thức dậy trông ra kẻ dữ hiền
Lành dữ phải đâu là tính sẵn
Phần nhiều do giáo dục mà nên”
Đúng vậy, giáo dục là nhân tố quyết định sự hình thành nhân cách của học sinh. Đối với học sinh cá biệt thì đòi hỏi cần phải giáo dục các em nhiều hơn, để đưa các em trở về vị trí ban đầu và định hướng giáo dục cho các em trở thành người tốt. Có thế người làm công tác giáo dục mới tự hào, mới hoàn thành vai trò của mình, xã hội mới bớt đi gánh nặng, đất nước mới phồn vinh trong tương lai.
Đảng và nhà nước ta đã đề cao “Giáo dục là quốc sách hàng đầu”, đầu tư cho giáo dục là đầu tư lâu dài trong tương lai. Bác Hồ đã khẳng định “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”. Sự nghiệp trồng người là sự nghiệp vẻ vang cao cả của người giáo viên, không có lí do gì mà chúng ta bất lực hay đầu hàng trước một học sinh cá biệt nào, chỉ có điều chúng ta đã giáo dục đúng chưa? kỹ chưa? Phương pháp giáo dục của ta phù hợp chưa? Chúng ta đã đem hết nhiệt huyết chưa?... 
Con người sinh ra không ai tự nhiên trở thành người tốt. Những lúc các em sa ngã, ngang bướng, sống lệch lạc... là những lúc các em cần sự quan tâm, an ủi, giáo dục và động viên của thầy cô. Nếu buông thả các em lúc này khác nào đẩy các em vào hố sâu tội lỗi mà không có đường thoát, cứu các em lúc này là nhiệm vụ và trách nhiệm của mỗi thầy cô chúng ta.
Điều đáng mừng gần đây trong các kỳ họp Quốc Hội luôn đề cập đến việc tập trung giáo dục nhân cách học sinh trong trường học, nâng cao chất lượng giáo dục 2 mặt trong nhà trường.
Căn cứ quyết định về việc ban hành điều lệ trường THCS, trường THPT và trường Phổ thông có nhiều cấp học của Bộ trưởng Nguyễn Thiện Nhân số 07/ 2007/ QĐ - BGDĐT ban hành vào ngày 02 tháng 04 năm 2007. Trong chương IV, V, VII đã nêu rất rõ nhiệm vụ của giáo viên, nhiệm vụ của học sinh và quan hệ giữa nhà trường, gia đình và xã hội.
2. Cở sở thực tiễn.
Trường THPT Lê Hồng Phong của chúng tôi nằm trên một địa bàn thị xã Bỉm Sơn, thị xã công nghiệp, gần đường quốc lộ 1A, gần chợ Bỉm Sơn, gần ga tàu,... có thể nói là điểm đến của bất cứ các loại hình văn hoá, các thành phần kinh tế, các thành phần lối sống con người trong xã hội... ảnh hưởng rất nhiều đến học sinh.
Số lượng học sinh toàn trường khá đông, mỗi năm gần một nghìn học sinh với 22 lớp học cho 3 khối. Nên việc quản lí học sinh gặp nhiều vất vả, khó khăn. Năm nào cũng có đối tượng học sinh cá biệt.
Thành phần gia đình học sinh phần lớn là gia đình làm nông nghiệp, nội trợ hoặc làm tự do, buôn bán. Một số gia đình học sinh có điều kiện kinh tế cao hơn thì chiều con nên đâm ra hư hỏng, có phụ huynh lo việc buôn bán không quan tâm đến việc học hành con cái nên nhiều em ăn chơi lêu lổng, có nhiều em học sinh gia đình nghèo, hoàn cảnh gia đình quá khó khăn, cộng với sức học yếu nên nhiều em chán học lại bị bạn bè rủ rê lôi kéo....
Các dịch vụ kinh doanh trò chơi giải trí như: Điện tử, Chát, Game, Bida... mọc lên rất nhiều là những điểm thu hút học sinh, làm cho các em đam mê dẫn đến chán học, bỏ học, thậm chí còn nẩy sinh những hành động trộm cắp, bắt nạt học sinh lớp dưới để lấy tiền ăn chơi.
Trong đề tài này tôi chỉ nghiên cứu về thực trạng học sinh cá biệt của trường THPT nơi tôi đang công tác trong những năm qua, đặc biệt là năm học 2017 – 2018, 2108 2019 để áp dụng cho năm học tới. Đối tượng nghiên cứu của đề tài chỉ đề cập đến học sinh cá biệt.
Với sáng kiến nêu trên, bản thân tôi muốn làm thế nào để giúp cho những học sinh cá biệt từng bước thay đổi thái độ của mình trong học tập theo hướng tích cực. Giúp các em biết tự tôn trọng bản thân mình và xác định được việc học sẽ phục vụ chính bản thân các em và tạo điều kiện để giúp đỡ gia đình, góp phần xây dựng quê hương, đất nước. Giúp các em thấy được công lao to lớn của các bậc làm cha, làm mẹ nuôi con ăn học, sự vất vả của các thầy cô trong việc truyền đạt tri thức và giáo dục nhân cách, kỹ năng sống cho các em. Từ đó các em biết mình sẽ làm gì để thay những lời tri ân đầy ý nghĩa.
Bên cạnh phần nào giúp cho các thầy cô quan tâm hơn về vai trò, trách nhiệm của mình đối với nghề nghiệp, đặc biệt là trong công tác chủ nhiệm. Nghề dạy học là một nghề thiêng liêng cao quý, không phải ai cũng làm được như cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói “Nghề dạy học là nghề cao quý nhất trong những nghề cao quý”. Đồng thời giúp cho một số ít thầy cô xóa đi tư tưởng kỳ thị, phân biệt đối với những học sinh không ngoan mà phải xác định “tất cả vì học sinh thân yêu” để góp phần xây dựng môi trường học tập “Trường học thân thiện, học sinh tích cực”
PHẦN II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
I. HIỂU NHƯ THẾ NÀO LÀ HỌC SINH CÁ BIỆT?
Học sinh cá biệt là những học sinh có cá tính khác biệt, không đúng theo qui định chung trong trường học. Các em thường có cá tính mạnh mẽ, hành động và lời nói thái quá, không đúng chuẩn mực,thậm chí vô lễ với thầy cô, hay gây gỗ, đánh nhau với bạn bè, bỏ học vi phạm các nội qui trường - lớp, là những học sinh chậm tiến mặc dù đã được thầy cô quan tâm giáo dục nhiều,. (ở đây chỉ xin đề cập đến học sinh cá biệt về tính cách).
Học sinh cá biệt là những học sinh thường hay vi phạm các nội qui, qui định trong nhà trường, làm ảnh hưởng đến phong trào thi đua nề nếp học tập của lớp, mặc dù thầy cô, tập thể góp ý xây dựng nhiều lần nhưng “chứng nào tật ấy” không thay đổi.
II. NHỮNG BIỂU HIỆN NHÂN CÁCH CỦA HỌC SINH CÁ BIỆT.
1. Qua lời nói.
Thường là các em ăn nói cộc lốc, không có chủ ngữ, thiếu Dạ - Thưa, ngôn ngữ tỏ ra vô lễ với thầy cô và người lớn. Trình bày vấn đề gì thường ấp a ấp úng, hay nói dối và tìm cách chạy tội. Do học yếu nên lời nói, lời viết không rõ ràng... Đối với bạn bè thường sử dụng lời nói tỏ vẻ người bề trên, ra vẻ “Đại ca”, hách dịch, lời nói có tính chất đe doạ, bắt nạt, hù doạ học sinh khác, có khi sử dụng xảo ngôn để lừa đối bạn bè và thầy cô...
2. Qua cử chỉ hành động.
 Học sinh cá biệt thường có những hành động thái quá, vô lễ. Trước mặt thầy cô thường tỏ ra lì lợm, ngang bướng, không biết vâng lời, thậm chí tỏ vẻ thách thức với thầy cô, có khi tỏ ra nghe lời nhưng giả dối. Với bạn bè thường có những hành động gây gỗ, đánh lộn nhau gây mất đoàn kết. Thường hay bắt nạt học sinh khác một cách vô cớ. Nghiêm trọng hơn là có những hành động vi phạm pháp luật như trộm cắp, dùng vật cứng, hung khí để đánh lộn hay bỏ học chơi la cà, lân la vào các quán..
3. Qua quan hệ với bạn bè và người khác.
Học sinh cá biệt có những quan hệ bạn bè và người khác hết sức phức tạp. Đối với bạn bè tốt các em thường ngại tiếp xúc, tìm cách xa lánh... bởi sợ các bạn tố giác và phản ánh đến nhà trường, gia đình những điều mình sai phạm. Học sinh cá biệt thường tìm cách lôi kéo những học sinh hư hỏng khác vào cuộc để thành lập nên băng nhóm, bè phái. Các em thường quan hệ với người xấu hoặc bị những người xấu lôi kéo làm những việc phạm pháp...
III. NHỮNG DẠNG HỌC SINH CÁ BIỆT VÀ BIỆN PHÁP XỬ LÍ.
1. Dạng học sinh ương ngạnh do gia đình quá chiều chuộng.
Trên thực tế có một số gia đình khá giả quá chiều chuộng con cái cả về vật chất lẫn tinh thần. Nghĩa là cho các em tiêu tiền, sử dụng đồng tiền theo ý thích hoặc dễ dàng tha thứ khi các em mắc phải những khuyết điểm. Nên ngay từ nhỏ các em đã có cá tính ương ngạnh, muốn được mọi người chiều theo ý mình. Dạng học sinh cá biệt này thường bỏ bê việc học hành, bị các thành phần khác lợi dụng, thường thể hiện lối sống vương giả, khinh khi bạn bè, thường bảo kê, rủ rê các học sinh khác bỏ học vào quán, vào các dịch vụ vui chơi... nên ít nghe lời thầy cô, tỏ ra cứng đầu, khó bảo chậm tiến bộ.
* Biện pháp xử lí: 
 - Đối với học sinh: Tôi tâm sự, trao đổi thuyết phục, phân tích để các em nhận thấy rằng: Ông bà, cha mẹ nào cũng giàu lòng thương con nhưng tình thương ấy bị các em lạm dụng, đòi hỏi ở cha mẹ quá nhiều thì mình trở thành người có tội và phụ lại tấm lòng yêu thương của cha mẹ, ông bà. Tiền bạc của cha mẹ làm ra xét cho cùng cũng là mồ hôi nước mắt, sự vất vả lăn lộn trong cuộc sống mới có được. Việc tiêu tiền đúng mục đích, phù hợp với công việc thì đồng tiền ấy mới có ý nghĩa, mới là con ngoan trong gia đình. Còn chi phí vào việc ăn chơi đua đòi khác nào chà đạp nên công sức lao động của cha mẹ.
- Đối với phụ huynh: Tôi trực tiếp gặp gỡ trao đổi, phân tích cho họ thấy không nên cho tiền các em một cách thoải mái, không nên nuông chìu các em quá mức, phải theo dõi sự chi tiêu của các em, sự kết bạn vui chơi của các em ở nhà, ở trường... Nếu thoải mái, lỏng lẻo việc cho tiền các em và không nghiêm khắc khi các em mắc phải khuyết điểm khác nào đưa con mình vào vòng tội lỗi...
Qua việc gặp gỡ, trao đổi phân tích với học sinh và phụ huynh, nhiều em đã thay đổi, ngăn chặng được nhiều em có chiều hướng xấu. Một số phụ huynh đã sớm nhận ra những sai lầm của mình. Họ càng lo lắng quan tâm theo dõi các con em mình và phối hợp tốt với nhà trường để giáo dục.
2. Dạng học sinh cá biệt do gia đình bỏ rơi thiếu quan tâm.
Trong cuộc sống có nhiều gia đình chỉ biết lo làm ăn kinh tế thiếu quan tâm, kiểm tra, đôn đốc việc học hành của con cái. Chuyện học của con được chăng hay chớ. Có thể do quá bận công việc làm ăn buôn bán, thường phải đi xa nhà để con tự lập sinh sống năm bảy hôm mới về hoặc buôn bán bận rộn quá không có thời gian quan tâm đến con... Dạng học sinh cá biệt này thực ra do không có người quản lí, quan tâm nên mới hư hỏng (hiện nay dạng học sinh này khá phổ biến). Lúc đầu các em lơ là việc học, học yếu dần rồi chán học, khi bố mẹ phát hiện ra con mình hư hỏng mới quan tâm rồi la mắng, đánh đập trút giận lên con. Nhưng thực ra gây áp lực thêm cho con, bởi ở trường bạn bè, thầy cô rầy la, quở trách vì làm ảnh hưởng thi đua của tập thể lớp, về nhà bố mẹ lại gắt gỏng giận dữ, thậm chí còn trút lên mình con những trận đòn roi vô cớ... cho nên đang hư hỏng trở nên lì lợm, bướm bỉnh, quậy phá....
* Biện pháp xử lí: 
- Đối với học sinh: Bản thân tôi trực tiếp gặp gỡ trao đổi, tâm sự phân tích việc sai trái của các em, chỉ rõ cho các em thấy việc bố mẹ bận rộn lo làm ăn kinh tế để xây dựng gia đình mà mình lơ là việc học tập là sai trái, thiếu trách nhiệm với gia đình, là những người con bất hiếu.... phần lớn các em nhận ra điều đó rồi sửa chữa.
- Đối với phụ huynh: Bản thân tôi gặp gỡ trao đổi phân tích từng cá tính học sinh và chỉ ra cho phụ huynh thấy được việc con mình hư hỏng là hậu quả của việc thờ ơ, thiếu quan tâm chu đáo, khoán trắng việc học hành, giáo dục của các em cho nhà trường. Giúp họ nhận ra việc thiếu sót của mình và định hướng cho họ cần phải phối hợp với nhà trường để theo dõi và giáo dục các em. Cần tránh dùng những biện pháp mạnh thô bạo như đánh đập, chửi mắng mà nên “mền mỏng mà buột chặt”, lấy tình cảm và sự quan tâm để cảm hoá giáo dục các em trở lại người tốt. Chớ vội thất vọng, chán nản mà buông thả các em.
Nhiều phụ huynh đã nhận ra và kết hợp với nhà trường làm rất tốt nên các em tiến bộ rất rõ.
3. Dạng học sinh cá biệt có hoàn cảnh khá đặc biệt.
Nói đến hoàn cảnh đặc biệt ở đây tôi muốn đề cập đến một số em sống và lớn lên trong một gia đình bất hạnh như bố mẹ li dị, bố mẹ mất sớm phải ở với người thân, bố mẹ bất hoà hay đánh đập, chửi mắng hoặc sinh ra không biết bố... Học sinh cá biệt ở dạng này thường tỏ ra lạnh lùng, bất cần, tự ti, mặc cảm không muốn ai quan tâm chia sẻ đến mình, cho rằng sự quan tâm của người khác là sự thương hại, bố thí... Chính vì vậy các em có tâm trạng ấm ức, uất hận... đời sống tinh thần và vật chất của các em gặp nhiều khó khăn. Đây là học sinh có cá tính mạnh, ngoan cố rất đáng lo, nếu không được giáo dục tốt các em sẽ trở thành gánh nặng cho xã hội sau này. Việc cảm hoá được học sinh này là một quá trình gian khổ đầy thử thách.
* Biện pháp xử lí:
 - Đối với học sinh: Đối với dạng học sinh này chúng ta cần lấy tấm lòng chân thật, tìm cách gần gũi để chia sẻ tình cảm với các em. Điều tế nhị không nên động chạm đến tình cảm đau thương của các em. Tránh dùng những hình thức kỉ luật nặng gây tổn thương tình cảm dẫn đến các em dể hiểu nhầm trên đời này không có ai thương mình hoặc mình là thứ bỏ đi... Phải làm sao cho các em tin tưởng ở mình và cảm thấy mình là chỗ dựa tinh thần duy nhất của các em. Cần phân tích, định hướng cho các em phải có nghị lực phấn đấu vượt lên trên số phận. Gieo vào lòng các em suy nghĩ và hành động đúng đắn tránh buông xuôi, chán chường vì hoàn cảnh, yếu hèn nhút nhát là đáng chê trách.
- Đối với phụ huynh (hoặc người đỡ đầu): Tuỳ thuộc vào hoàn cảnh của mỗi em tôi tìm cách tiếp xúc đến phụ huynh. Đối với những phụ huynh là người đỡ đầu (Ông bà, chú, bác....) tôi động viên họ cố gắng quan tâm giáo dục các em thật nhiều, đem hết trái tim yêu thương để quản lí dạy bảo các em, tránh đừng để các em đau lòng qua lời nói vì trong lòng các em đã sẵn nỗi đau rồi. Riêng đối với học sinh chỉ còn cha hoặc mẹ hay vì lí do nào đó cha mẹ không chung sống với nhau thì tôi khuyên phụ huynh nên quan tâm chăm só

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_giao_vien_chu_nhiem_voi_cong_tac_giao_duc_hoc_sinh_ca_b.doc