SKKN Một số biện pháp tăng cường Tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số 5 tuổi tại lớp Lá 4 trường Mầm non Cư Pang

SKKN Một số biện pháp tăng cường Tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số 5 tuổi tại lớp Lá 4 trường Mầm non Cư Pang

Thực hiện công văn số 56/ KH- BGDĐT về việc triển khai chuyên đề “Xây dựng trường mầm non lấy trẻ làm trung tâm” giai đoạn 2016- 2020 với mục tiêu: Xây dựng trường mầm non đảm bảo yêu cầu về môi trường giáo dục (GD), công tác quản lí, chỉ đạo, hoạt động chăm sóc, giáo dục (CSGD) theo quan điểm giáo dục lấy trẻ làm trung tâm.

Mô đum 3 với nội dụng : Đặc điểm phát triển ngôn ngữ, những mục tiêu và kết quả mong đợi ở trẻ mầm non về ngôn ngữ. Module 7: Môi trường giáo dục cho trẻ Mầm non. Đặt ra nhiệm vụ cấp thiết cho bậc học mầm non cho trẻ tắm trong môi trường Tiếng Việt.

 Về mặt cơ bản đối với trẻ mẫu giáo dân tộc thiểu số Tiếng Việt là ngôn ngữ thứ hai. Việc học Tiếng Việt của trẻ mẫu giáo dân tộc thiểu số chịu ảnh hưởng của ngôn ngữ thứ nhất và sự giao thoa giữa ngôn ngữ mẹ đẻ với Tiếng Việt. Theo sách “Hướng dẫn tổ chức hoạt động giáo dục chuẩn bị Tiếng Việt cho trẻ mẫu giáo vùng dân tộc thiểu số” trong thực hiện chương trình giáo dục mầm non (mẫu giáo 5-6 tuổi) nhà xuất bản giáo dục Việt Nam. Về mặt cơ bản đối với trẻ mẫu giáo dân tộc thiểu số Tiếng Việt là ngôn ngữ thứ hai. Trẻ mẫu giáo dân tộc thiểu số khi học Tiếng Việt có một số đặc điểm sau: Trẻ mẫu giáo dân tộc thiểu số bắt đầu học Tiếng Việt trên cơ sở kinh nghiệm tiếng mẹ đẻ. Môi trường giao tiếp Tiếng Việt của trẻ mẫu giáo dân tộc thiểu số thu hẹp cả về mặt không gian lẫn thời gian (trong phạm vi trường mầm non). Việc cho trẻ mẫu giáo làm quen Tiếng Việt, phần lớn trẻ chịu ảnh hưởng của ngôn ngữ mẹ đẻ và sự giao thoa giữa ngôn ngữ mẹ đẻ với Tiếng Việt. Sự khác biệt văn hóa giữa các dân tộc. Sự khác biệt về điều kiện sống của các nhóm dân tộc thiểu số có tác động nhất định với việc làm quen Tiếng Việt của trẻ mẫu giáo dân tộc thiểu số, làm cho trẻ gặp phải những trở ngại khi tiếp thu ngôn ngữ Tiếng Việt. Do đó xuất phát từ lòng yêu nghề mến trẻ là một giáo viên mầm non từ những hạn chế trên mà tôi gặp phải trong quá trình chăm sóc và giáo dục trẻ tôi luôn suy nghĩ xem mình phải làm gì và làm như thế nào để nâng cao chất lượng phát triển Tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số ở lớp lá 4 của mình.

 

doc 24 trang hoathepmc36 28/02/2022 11344
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số biện pháp tăng cường Tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số 5 tuổi tại lớp Lá 4 trường Mầm non Cư Pang", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần thứ nhất: MỞ ĐẦU
Đặt vấn đề.
Công tác giáo dục là một chủ trương lớn, quan trọng của ngành giáo dục nói chung và bậc học mầm non nói riêng, là một ngành học cần thiết, một tác nhân quan trọng tác động và hình thành nhân cách con người, hình thành ngôn ngữ Tiếng Việt.
Người Việt Nam ta rất tự hào vì có vốn Tiếng Việt giàu và đẹp. Tiếng Việt giàu đẹp vì nó là sự kết tinh của lịch sử đã bao đời nay cùa cha ông ta. Đó là lịch sử lao động sản xuất và chiến đấu để tồn tại và phát triển, để bảo vệ và dựng xây đất nước. Tiếng Việt giàu đẹp bởi nó là tiếng nói của dân tộc Việt Nam. Từ xưa cho đến nay Tiếng Việt vẫn rất quan trọng đối với mọi người dân Việt Nam nói chung và trẻ em lứa tuổi mầm non dân tộc thiểu số nói riêng. Trong thực tế, trẻ vùng sâu, vùng xa vùng dân tộc thiểu số đa số trẻ giao tiếp chủ yếu bằng tiếng mẹ đẻ, trẻ đồng bào dân tộc thiểu số biết rất ít hoặc thậm chí không biết Tiếng Việt. Nhiệm vụ giáo dục Mầm non là nền móng đầu tiên của hệ thống giáo dục “ Mẫu giáo tốt mở đầu cho một nền giáo dục tốt”, với trách nhiệm và nhiệm vụ vô cùng quan trong đó mỗi giáo viên phải cố gắng nổ lực hết mình làm sao để các cháu Mầm non sau khi học xong chương trình mầm non trẻ sẽ tự tin, mạnh dạn trong giao tiếp cũng như có một tâm thế tốt để chuẩn bị bước vào lớp một.
Qua thực tiễn lớp lá 4 năm học 2017 - 2018 trường Mầm non Cư Pang đơn vị mà tôi công tác nằm trong vùng đặc biệt khó khăn, học sinh là người dân tộc thiểu số chiếm hơn 95%. Để trẻ 5-6 tuổi vùng đồng bào dân tộc thiểu số được thuận lợi trong việc giao tiếp và tham gia vào các hoạt động ở trường lớp nói chung và hoạt động tăng cường Tiếng việt mọi lúc mọi nơi nói riêng, cô giáo cần khắc phục mọi khó khăn giúp trẻ tiếp thu được kiến thức mới, đồng thời tạo hứng thú cho trẻ đến trường mạnh dạn, tự tin và tích cực hoạt động, nâng cao chất lượng giao tiếp với cô và bạn bè . Qua mỗi lần lên lớp tiếp xúc, tôi nhận thấy trẻ tiếp xúc với nhau hoàn toàn bằng tiếng mẹ đẻ, nói câu cụt, không có dấu, không có ý nghĩa. Trong quá trình áp những biện pháp tăng cường Tiếng Việt nhằm giúp trẻ phát âm thành thạo, tự tin khi giao tiếp với cô và chuẩn bị môi trường mới là bậc học Tiểu học năm học 2017 – 2018 còn chưa cao. Trẻ còn thiếu tự tin để biểu đạt ý của mình. 
Việc tăng cường Tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số vừa là mục tiêu, vừa là yêu cầu cấp thiết đặt cho giáo dục nhà trường nhằm đảm bảo nâng cáo chất lượng giáo dục toàn diện. Tôi nhận thấy cần có những biện pháp bổ sung tăng cường Tiếng Việt cho trẻ. Vì vậy năm học 2018 – 2019 tôi tiếp tục thực hiện chọn đề tài: “Một số biện pháp tăng cường Tiếng Việt cho trẻ DTTS 5 tuổi tại lớp lá 4 trường Mầm non Cư Pang” trẻ 5 tuổi lớp lá 4 với tổng số 20 trẻ đồng bào dân tộc thiểu số .
II. Mục đích nghiên cứu:
 Qua một số biện pháp tăng cường Tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số 5 tuổi lớp lá 4 ta thấy được hiệu quả của phương pháp này qua các hoạt động học và vui chơi của trẻ, cũng như giao tiếp tự tin trong cuộc sống và sau khi học xong chương trình mầm non trẻ sẽ tự tin, mạnh dạn trong giao tiếp cũng như có một tâm thế tốt để chuẩn bị bước vào lớp một.
 Tạo điều kiện giúp trẻ nghe và hiểu được lời hướng dẫn các hoạt động 
của giáo viên, thông qua việc tăng cường tiếng Việt dân tộc thiểu số. Phát triển khả năng giao tiếp hàng ngày giữa cô và trẻ, giữa trẻ với trẻ và trẻ với mọi người xung quanh. 
 Giúp cho trẻ hình thành và phát triển nhân cách, đồng thời trẻ mạnh dạn hơn, tự tin hơn, có lối ứng xử văn minh trong cuộc sống hàng ngày.
Phần thứ hai: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Cơ sở lí luận của vấn đề
Thực hiện quyết định số 1008/QĐ-TTG về việc phê duyệt đề án “Tăng cường Tiếng Việt cho trẻ mầm non, học sinh tiểu học vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2016- 2020, định hướng 2025 với mục tiêu: Tập trung tăng cường Tiếng Việt cho trẻ em mầm non, học sinh tiểu học người dân tộc thiểu số, bảo đảm các em có kỹ năng cơ bản trong việc sử dụng Tiếng Việt để hoàn thành chương trình giáo dục mầm non và chương trình giáo dục tiểu học; tạo tiền đề để học tập, lĩnh hội tri thức của các cấp học tiếp theo; góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống và phát triển bền vững các dân tộc thiểu số, đóng góp vào sự tiến bộ, phát triển của đất nước.
Thực hiện chương trình hướng dẫn thực hành áp dụng quan điểm lấy trẻ làm trung tâm trong trường mầm non xuất bản tháng 3 năm 2017 của Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam: Quan điểm giáo dục lấy trẻ làm trung tâm được thể hiện trong tất cả các yếu tố của quá trình giáo dục. Từ xác định mục tiêu, nội dung, phương pháp giáo dục cho đến hoạt động cụ thể của người giáo viên như lập kế hoạch, xây dựng môi trường giáo dục,mọi hoạt động phải hướng tới từng trẻ cũng như từng nhóm trẻ nhỏ và nhóm trẻ lớn để tạo cơ hội cho trẻ được học tập trong điều kiện cụ thể nhằm hỗ trợ trẻ phát triển tở tất cả các lĩnh vực. Vì vậy tôi xây dựng các giải pháp, biện pháp bám sát vào các chỉ số trong từng tiêu chí để đạt hiệu quả cao. Như tiêu chí 7: Kế hoạch giáo dục tuần/ chủ đề nhánh thể hiện được các mục tiêu phù hợp với sự phát triển của trẻ. Tiêu chí 7: chuẩn bị, tổ chức sử dụng môi trường giáo dục đạt hiệu quả nhất. Tiêu chí 8: Hoạt động hỗ trợ trẻ dân tộc thiểu số.
Thực hiện công văn số 56/ KH- BGDĐT về việc triển khai chuyên đề “Xây dựng trường mầm non lấy trẻ làm trung tâm” giai đoạn 2016- 2020 với mục tiêu: Xây dựng trường mầm non đảm bảo yêu cầu về môi trường giáo dục (GD), công tác quản lí, chỉ đạo, hoạt động chăm sóc, giáo dục (CSGD) theo quan điểm giáo dục lấy trẻ làm trung tâm.
Mô đum 3 với nội dụng : Đặc điểm phát triển ngôn ngữ, những mục tiêu và kết quả mong đợi ở trẻ mầm non về ngôn ngữ. Module 7: Môi trường giáo dục cho trẻ Mầm non. Đặt ra nhiệm vụ cấp thiết cho bậc học mầm non cho trẻ tắm trong môi trường Tiếng Việt.
 Về mặt cơ bản đối với trẻ mẫu giáo dân tộc thiểu số Tiếng Việt là ngôn ngữ thứ hai. Việc học Tiếng Việt của trẻ mẫu giáo dân tộc thiểu số chịu ảnh hưởng của ngôn ngữ thứ nhất và sự giao thoa giữa ngôn ngữ mẹ đẻ với Tiếng Việt. Theo sách “Hướng dẫn tổ chức hoạt động giáo dục chuẩn bị Tiếng Việt cho trẻ mẫu giáo vùng dân tộc thiểu số” trong thực hiện chương trình giáo dục mầm non (mẫu giáo 5-6 tuổi) nhà xuất bản giáo dục Việt Nam. Về mặt cơ bản đối với trẻ mẫu giáo dân tộc thiểu số Tiếng Việt là ngôn ngữ thứ hai. Trẻ mẫu giáo dân tộc thiểu số khi học Tiếng Việt có một số đặc điểm sau: Trẻ mẫu giáo dân tộc thiểu số bắt đầu học Tiếng Việt trên cơ sở kinh nghiệm tiếng mẹ đẻ. Môi trường giao tiếp Tiếng Việt của trẻ mẫu giáo dân tộc thiểu số thu hẹp cả về mặt không gian lẫn thời gian (trong phạm vi trường mầm non). Việc cho trẻ mẫu giáo làm quen Tiếng Việt, phần lớn trẻ chịu ảnh hưởng của ngôn ngữ mẹ đẻ và sự giao thoa giữa ngôn ngữ mẹ đẻ với Tiếng Việt. Sự khác biệt văn hóa giữa các dân tộc. Sự khác biệt về điều kiện sống của các nhóm dân tộc thiểu số có tác động nhất định với việc làm quen Tiếng Việt của trẻ mẫu giáo dân tộc thiểu số, làm cho trẻ gặp phải những trở ngại khi tiếp thu ngôn ngữ Tiếng Việt. Do đó xuất phát từ lòng yêu nghề mến trẻ là một giáo viên mầm non từ những hạn chế trên mà tôi gặp phải trong quá trình chăm sóc và giáo dục trẻ tôi luôn suy nghĩ xem mình phải làm gì và làm như thế nào để nâng cao chất lượng phát triển Tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số ở lớp lá 4 của mình.
II. Thực trạng vấn đề:
Lớp lá 4 trường Mầm non Cư pang nằm trên địa bàn buôn Hma thuộc xã EaBông, là xã nằm trong khu vực đặc biệt khó khăn, trường còn có các điểm lẻ nằm ở địa bàn buôn Knul, thôn 10-3. Hơn 95% trẻ là người dân tộc thiểu số, hơn 40% trẻ thuộc hộ nghèo. Riêng lớp lá 4 tôi chủ nhiệm 100% trẻ là người dân tộc thiểu số, đa số trẻ mới ra lớp, chưa học qua chương trình lớp chồi. Một số cháu chưa nói rõ Tiếng Việt, trẻ giao tiếp chủ yếu sử dụng tiếng mẹ đẻ, ngôn ngữ giao tiếp Tiếng Việt còn hạn chế.
Phụ huynh chưa thấy được tầm quan trọng của việc trẻ đến trường đúng độ tuổi, chưa có kiến thức và kĩ năng về chăm sóc giáo dục trẻ đặc biệt là về mặt phát triển ngôn ngữ cho trẻ ở nhà không giao tiếp với trẻ bằng Tiếng Việt mà giao tiếp bằng ngôn ngữ mẹ đẻ. Đời sống kinh tế, điều kiện sống và môi trường sinh hoạt của các cháu hết sức khó khăn, bố mẹ thường xuyên đi làm nương rẫy ở xa bỏ mặc con cái ở nhà hoặc dẫn đi theo.
Vào cuối năm học 2017 - 2018, tôi đã kiểm tra, khảo sát, thống kê trẻ ở lớp lá 4 với tổng số là 20 trẻ đồng bào dân tộc thiểu số, kết quả như sau:
Nội dung 
Số trẻ đạt
Tỉ lệ (%)
Trẻ chưa đạt
Tỉ lệ (%)
Trẻ sử dụng câu đầy đủ
5/20
25
15/20
75
Trẻ nói câu mất dấu
7/20
35
13/20
65
Trẻ dùng từ không đúng về ý nghĩa của câu 
6/20
30
14/20
70
Trẻ nói câu có nghĩa
5/20
25
15/20
75
Thuận lợi : 
 Lớp luôn được sự quan tâm của Nhà trường, hội cha mẹ học sinh về tinh thần cũng như vật chất.
Cơ sở vật chất có sân chơi sạch sẽ, an toàn, phòng học rộng rãi, thoáng mát, đồ dùng đồ chơi cho trẻ học tập và vui chơi tương đối đầy đủ, đồ dùng , đồ chơi tự tạo từ những nguyên vật liệu mở: Như lốp xe, vỏ chai, thùng sơn, tre, nứa sinh động, hấp dẫn, lôi cuốn trẻ tham gia tích cực các hoạt động trong ngày.
Tổ chuyên môn luôn tạo mọi điều kiện cho giáo viên tham dự các buổi chuyên đề do cụm chuyên môn tổ chức, thường xuyên tổ chức các tiết dạy mẫu tại trường để phổ biến những phương pháp hình thức đổi mới trong chương trình mầm non lấy trẻ làm trung tâm.
Khó khăn : 
Đời sống kinh tế của một số phụ huynh còn gặp nhiều khó khăn đa số là làm nông trên 40% là hộ nghèo nên sự quan tâm về chăm sóc giáo dục trẻ chưa cao. Phụ huynh học sinh chưa thực sự hiểu được tầm quan trọng của việc đưa con em mình đến trường đúng độ tuổi.
Trẻ đồng bào dân tộc thiểu số sống tập trung trong buôn và giao tiếp với nhau bằng tiếng mẹ đẻ, vì vậy trẻ dân tộc thiểu số còn hạn chế về ngôn ngữ Tiếng Việt.Khả năng chuyển thể từ các tiết dạy, lồng ghép Tiếng Việt mọi lúc mọi nơi của cô chưa tạo ra được tính kịch, sự kiệncác câu hỏi, lời thoại còn dài dòng, kém hấp dẫn, trẻ chưa thực sự say mê, hào hứng, sử dụng đồ dùng dạy học chưa khoa họcdẫn đến giờ học trẻ ít tập trung chú ý hiệu quả trên tiết học chưa cao.
Để khắc phục những khó khăn trên tôi đã thực hiện những giải pháp tuyên truyền trẻ đi học chuyên cần, vận động cha mẹ trẻ hỗ trợ nguyên liệu để làm đồ dùng, đồ chơi tự tạo, tìm hiểu đặc điểm tâm sinh lí, ngôn ngữ của trẻ, lập kế hoạch chuẩn bị môi trường cho trẻ hoạt động, tăng cường Tiếng Việt cho trẻ thông qua các hoạt động.Trong tất cả các giờ học tôi đều trò chuyện và đặt câu hỏi tôi luôn khuyến khích trẻ nói và trả lời cô bằng tiếng Việt, cung cấp vốn tiếng Việt cho trẻ mọi lúc mọi nơi.
III. Các giải pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề: 
* Giải pháp 1. Tuyên truyền trẻ đi học chuyên cần, vận động cha mẹ trẻ hỗ trợ nguyên liệu để làm đồ dùng, đồ chơi tự tạo.
+ Tuyên truyền trẻ đi học chuyên cần:
 - Môi trường tiếp xúc của trẻ mầm non chủ yếu là gia đình và tiếp theo mới đến nhà trường. Chính vì vậy việc kết hợp giữa gia đình và nhà trường trong quá trình chăm sóc và giáo dục trẻ là một vấn đề quan trọng. Để tuyên truyền với phụ huynh đạt hiệu quả tốt, tôi đã tiến hành các bước như sau:
Trong cuộc họp phụ huynh đầu năm giới thiệu các loại sách phù hợp với trẻ 5 - 6 tuổi tới phụ huynh để phụ huynh có thể dễ dàng tìm mua. Giờ đón trẻ và trả trẻ trao đổi một số tồn tại của trẻ: cách phát âm, kỹ năng giao tiếp để phụ huynh nắm được. Từ đó phụ huynh kết hợp với giáo viên để hướng dẫn, giúp đỡ trẻ.
Tuyên truyền với phụ huynh khi ở nhà thì thường xuyên trao đổi thông tin và giao tiếp với trẻ bằng Tiếng Việt. Và giải thích cho trẻ từ này tiếng ê đê là nói như thế này nhưng Tiếng Việt là nói một cách khác. Như vậy trẻ sẽ học Tiếng Việt qua từng ngày. Trẻ sẽ tiếp thu nhanh nếu phụ huynh có thể phiên âm những từ mà trẻ hỏi ra Tiếng Việt cho trẻ đọc.
Tôi thường xuyên, trao đổi với phụ huynh về kết quả học tập và tình hình học tập, các hoạt động của trẻ trên lớp để về nhà phụ huynh cho trẻ ôn luyện thêm bằng cách hỏi trẻ như: Hôm nay trên lớp cô cho con học từ gì? Con đọc như thế nào? Chơi trò chơi gì?.. và cho con em mình kể lại những hoạt động trẻ làm trên lớp, và ôn luyện lại bài cũ.
 Ví dụ: Khi cho trẻ làm quen với từ mới “ Góc địa phương” ở lớp, thì tôi trao đổi với phụ huynh là hôm nay trên lớp bé được học các từ chỉ đồ dùng ở góc địa phương như cồng chiêng, cái rổ, cái đó.... và gợi ý cho phụ huynh cho trẻ về nhà đọc lại cho cả nhà nghe.
Trên lớp có một bảng tuyên truyền treo ở nơi dễ thấy nhất thường thường là cửa ra vào lớp. Bảng tuyên truyền ghi đầy đủ nội dung học trong tuần, theo dõi sức khỏe từng giai đoạn. Ở góc tuyên truyền phụ huynh theo dõi các hoạt động trên lớp để có thể ôn luyện thêm cho trẻ ở nhà .
 Mời phụ huynh tham dự một số tiết dạy mẫu, chuyên đề và có sự giúp đỡ hỗ trợ phụ huynh. Tổ chức các hội thi có sự tham dự của các bậc phụ huynh như: Bé yêu thơ, Đô rê mi....do lớp tổ chức. Từ đó phụ huynh sẽ có những hiểu biết, khái niệm sơ đẳng về hoạt động mà con em mình được học tập trên lớp. Và họ cũng thấy vui vẻ và phấn khỏi khi con em mình được tham gia các hoạt động thú vị trên lớp. 
Sự quan tâm của cô giáo đối với học trò và kết hợp chặt chẽ nhà trường, giáo viên với phụ huynh từ đó họ nhận thấy tầm quan trọng của Tiếng Việt. Đó cũng là đóng góp một phần không nhỏ từ phía gia đình đến sự phát triển ngôn ngữ của trẻ.
+ Vận động cha mẹ trẻ hỗ trợ nguyên liệu để làm đồ dùng, đồ chơi tự tạo.
Phụ huynh đã có cái nhìn mới hơn về việc cho trẻ đến trường đúng độ tuổi. Phụ huynh đã tin tưởng gửi gắm con em mình đến trường và đồng cảm, chia sẻ những khó khăn cùng, cô giáo hay gần gũi giao tiếp với phụ huynh để hiểu được các hoạt động của chương trình, vận động họ sẵn sàng cung cấp nguyên vật liệu có sẵn ở nhà để cô và trẻ làm đồ dùng, đồ chơi cho trẻ phục vụ cho các hoạt động, phụ huynh cũng đã ủng hộ ngày công dọn vệ sinh và tham gia các hoạt động khác do trường tổ chức. 
 Qua việc áp dụng một số biện pháp trên tôi thấy phụ huynh đã cố gắng đưa con em tới lớp chuyên cần hơn, quan tâm đến con em mình hơn, đưa đón đúng giờ và đồng cảm với giáo viên hơn. Và qua việc cho trẻ sử dụng các đồ dùng, đồ chơi tự tạo một cách trực tiếp trong hoạt động và nhất là với những đồ dùng, đồ chơi cô và trò tự tay làm ra tôi nhận thấy trẻ tập trung chú ý hứng thú hơn, trẻ hoạt động với đồ dùng tích cực hơn, giúp quá trình tăng cường Tiếng Việt của trẻ tốt hơn và đạt hiệu quả cao hơn.
* Giải pháp 2: Tìm hiểu đặc điểm tâm sinh lí, ngôn ngữ của trẻ. Lập kế hoạch chuẩn bị môi trường cho trẻ hoạt động.
 + Nghiên cứu các tài liệu và quan sát về đặc điểm tâm sinh lý của trẻ 5-6 tuổi:
 Để giáo dục trẻ được tốt thì bản thân giáo viên phải hiểu được đặc điểm tâm sinh lý của trẻ để biết được khả năng của trẻ, trẻ cần gì và muốn gì. Vì vậy trong quá trình đi phổ cập, được trực tiếp trao đổi phụ huynh, là cơ hội để giáo viên tìm hiểu về môi trường sống, tính cách của trẻ. Trẻ nhút nhát, rụt rè, phát âm sai, phát âm hay bị mất dấu, nói câu không có nghĩa, ngại giao tiếp với cô giáo khi cô giáo hỏi chỉ cười, không hiểu Tiếng Việt, vốn từ còn hạn chế. 
- Áp dụng tiêu chí 10: Giáo viên có kĩ năng phối hợp với gia đình và cộng đồng trong việc chăm sóc, giáo dục trẻ dân tộc thiểu số và trẻ có hoàn cảnh khó khăn. Chỉ số 21: Phối hợp với gia đình trẻ dân tộc thiểu số. Tôi tiến hành tìm hiểu về hoàn cảnh gia đình nơi trẻ đang sống những thuận lợi khó khăn của từng trẻ để tìm ra biện pháp chăm sóc và giáo dục trẻ một cách tốt nhất. Ngay từ đầu năm học được nhà trường phân công chủ nhiệm lớp mầm 3, học sinh đa số con em đân tộc thiểu số nằm trong buôn đặc biệt khó khăn trình độ nhận thức về việc cho con đi học còn hạn chế. Nên tôi dành thời gian ngoài giờ lên lớp đến nhà từng trẻ để nắm được cuộc sống của trẻ ở gia đình như thế nào? Trao đổi, nói chuyện với phụ huynh về tình hình học tập trên lớp và hỏi phụ huynh về những sở thích, tính cách của trẻ để có biện pháp phù hợp trong thời gian tới. Quan sát về hoàn cảnh gia đình trẻ, môi trường xung quanh trẻ để có kế hoạch, biệp pháp chăm sóc, giáo dục trẻ.
Ví dụ: Tiếp xúc với trẻ, khi trẻ thiếu tự tin khi giáo tiếp với cô, nhút nhát không chơi cùng các bạn.Tôi đến gần trẻ tìm hiểu trẻ xem nguyên nhân vì sao? trẻ có đau ốm hay gia đình trẻ có chuyện gì buồn, thông qua hoạt động trò chuyện cùng trẻ tìm hiểu tâm lý trẻ, hay trao đổi cùng phụ huynh khi trả trẻ xem tình hình trẻ ngày hôm đó như thế nào, và thông qua giao tiếp bạn bè trẻ xem trẻ nguyên nhân gì trẻ có biểu hiện như vậy.
+ Quan sát đặc điểm phát triển ngôn ngữ của trẻ.
Qua quá trình quan sát trẻ học tập và vui chơi ở trên lớp tôi nhận thấy đặc điểm phát triển ngôn ngữ của trẻ: nhút nhát, rụt rè, nói thiếu chủ ngữ vị ngữ, nói đớt, thiếu dấu câu....Thấy rõ được những hạn chế của trẻ với trình độ chuyên môn và kinh nghiệm của bản thân tôi tiến hành khảo sát kĩ năng giao tiếp Tiếng Việt của trẻ.
Đầu năm học, tôi tiến làm một bài tập khảo sát kỹ năng nghe, nói của trẻ ở mức độ đạt, chưa đạt, phân loại trẻ để có kế hoạch bổ sung, rèn luyện cho trẻ thường xuyên trong ngày, trong các hoạt động. Ở những trẻ ở mức độ chưa đạt thì tôi sẽ đưa ra những câu nói ngắn, câu ít và cho trẻ tập luyện nhiều hơn. Với những trẻ ở mức độ đạt tốt, khá tôi đưa ra những giao tiếp, bài học phức tạp hơn tùy vào năng lực của từng trẻ. Mỗi ngày tôi sẽ đánh giá theo mức độ đạt, chưa đạt ghi vào nhật kí giáo viên và tổng hợp cuối chủ đề.
+ Lập kế hoạch chuẩn bị môi trường cho trẻ hoạt động:
 Sau khi nắm được đặc điểm tâm sinh lý của trẻ tôi đầu năm học tôi khảo sát trẻ để năm bắt sự phát triển của từng trẻ, sau đó dựa vào các tiêu chí thực hành áp dụng quan điểm giáo dục lấy trẻ làm trung tâm tôi lên kế hoạch cụ thể cho chủ đề, chủ đề nhánh. Trong kế hoạch giáo dục năm học tôi bám vào các tiêu chí lấy trẻ làm trung tâm gồm 13 tiêu chi và 34 chỉ số. Tôi sử dụng tiêu chí 2 với chỉ số 3, 4 về thực hiện các nội dung giáo dục theo chương trình Giáo dục mầm non và thực hiện các nội dung giáo dục gần gũi, phù hợp với trẻ, phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương. Căn cứ vào Chỉ số 3: Thực hiện các nội dung giáo dục theo Chương trình giáo dục mầm non, tôi chủ động xây dựng kế hoạch tuần và đưa ra đề tài phù hợp và đúng với chương trình giáo dục mầm non, dựa vào hướng xây dựng môi trường lấy trẻ làm trung tâm, cô giáo là người gợi mở sao cho phù hợp hiệu quả, phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của trẻ. Và đánh giá trẻ hằng ngày và cuối chủ đề.
Ví dụ : Áp dụng tiêu chí 2 với chỉ số 3. Tôi lập mạng chủ đề cả năm gồm 9 chủ đề, ở mỗi chủ đề phân ra các chủ đề nhánh. Thường một chủ đề có 2 đến 3 chủ đề nhánh, đối với chủ đề ghép tôi thực hiện 5 chủ đề nhánh như chủ đề “Thế giới thực vật- tết và mùa xuân”. Chủ đề “Trường mầm non” với 3 chủ đề nhánh “Trường mầm non của bé” “Lớp bé yêu thương” “Những hoạt động thú vị”. Tuần đầu của chủ đề tôi chọn những từ tăng cường Tiếng Việt vào thứ hai, thứ ba, thứ tư, thứ năm những từ : Lớp lá 4, chào cô con vào lớp, xích đu... và tăng cường mọi lúc mọi nơi. Vì mới bước vào năm học nên tôi chọn những từ Tiếng Việt ngắn gọn, dễ hiểu. Thứ sáu cho trẻ ôn các từ trong học tuần dưới hình thức trò chơi.Cứ như vậy dựa vào các tiêu chí lấy trẻ làm trung tâm đến tuần hai, tuần ba rồi tới chủ đề Bản thân và đến hết năm tôi và xây dựng môi trường Tiếng Việt cho trẻ .
Để xây dựng kế hoạch tôi tiến hành cùng trẻ xây dựng môi trường Tiếng Việt trong và ngoài lớp học theo hướng xây dựng môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm căn cứ vào tiêu chí xây dựng môi trường tăng cường Tiếng Việt cho trẻ em người dân tộc thiểu số để xây dựng môi trường trong lớp và ngoài lớp học: 
- Môi trường trong lớp học: Các góc, khu vực hoạt động, thiết bị, đồ dùng đồ chơi được dán nhãn bằng Tiếng Việt(theo mẫu chữ in thường).Tôi chú trọng trang trí theo hình thức động nhiều hơn tĩnh trẻ tự thao tác ngay trên các góc và tự trang trí những sản phẩm mà cô và trẻ thực hiện trên lớp. Tranh ở các góc này trẻ đều có từ Tiếng Việt gắn dưới tranh hoặc trong bức tranh cho trẻ phát âm.
Ví dụ: Góc chủ đề Những người thân trong gia đình. Cô trang trí tranh người thân của bé như bố, mẹ, ông, bà, bé...trong hình ảnh bố có từ ô, mẹ có từ m... 

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_bien_phap_tang_cuong_tieng_viet_cho_tre_dan_toc.doc