SKKN Một số biện pháp sư phạm giúp học sinh yếu kém tiến bộ trong môn Sinh học lớp 10

SKKN Một số biện pháp sư phạm giúp học sinh yếu kém tiến bộ trong môn Sinh học lớp 10

Có thể nói chất lượng giáo dục nước ta đang là một vấn đề mang tính thời sự. Hiện tượng học sinh “ngồi nhầm lớp”, tỷ lệ học sinh yếu kém ở các trường THPT không phải là ít, trong đó phải kể đến tỷ lệ học sinh yếu kém môn Sinh học. Trong khi đó, môn Sinh học có vai trò, vị trí và ý nghĩa hết sức quan trọng trong giáo dục phổ thông. Ngoài mục đích trang bị cho học sinh hệ thống kiến thức cơ bản, bao gồm các kiến thức về sinh học phân tử, sinh học tế bào, sinh học cơ thể, di truyền và biến dị còn rèn cho các em các kỹ năng quan sát, tổng hợp, phân tích đánh giá, suy luận; kỹ năng vận dụng kiến thức làm bài tập, kỹ năng tính toán. Học tốt môn Sinh học giúp các em giải thích được các hiện tượng trong cuộc sống. Việc nắm vững kiến thức cơ bản góp phần nâng cao chất lượng đào tạo ở bậc phổ thông, chuẩn bị cho học sinh tham gia các hoạt động sản xuất và hoạt động sau này.

 Mỗi học sinh là một cá thể riêng biệt, tất nhiên sẽ có sự khác nhau về năng lực học tập. Có học sinh tiếp thu bài học nhanh, nhưng cũng có những em tiếp thu bài rất chậm, thậm chí là không tiếp thu được gì thông qua các hoạt động trên lớp. Đặc biệt, khái niệm Sinh học luôn trừu tượng, khó hiểu . hệ thống lí thuyết nhiều mang tính lôgic rất cao. Nội dung phần bài học sau các em muốn hiểu được cần phải nhớ, hiểu, vận dụng lại kiến thức đã học ở phần trước, lớp trước. Nếu học sinh đã rỗng kiến thức cơ bản thì việc tiếp thu kiến thức ngày càng khó khăn, thiếu hụt dẫn đến ghi nhớ máy móc không hiểu bản chất nên chán học và học yếu, kém bộ môn.

Hiện nay việc dạy học môn Sinh học ở trường THPT nói chung và trường THCS &THPT Thống Nhất nói riêng tuy đã áp dụng nhiều phương pháp dạy học tích cực, song việc phân loại để cung cấp “những lỗ hổng kiến thức” cho các em học sinh yếu kém vẫn chưa được thực hiện một cách thường xuyên, GV chưa có biện pháp tác động đến tình cảm, chưa gây được hứng thú học tập cho học sinh.

 

doc 22 trang thuychi01 8514
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số biện pháp sư phạm giúp học sinh yếu kém tiến bộ trong môn Sinh học lớp 10", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ 
TRƯỜNG THCS & THPT THỐNG NHẤT
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ BIỆN PHÁP SƯ PHẠM GIÚP HỌC SINH YẾU KÉM TIẾN BỘ TRONG MÔN SINH HỌC LỚP 10
 Người thực hiện: Nguyễn Thị Ngọc
 Chức vụ: Giáo viên
 SKKN môn: Sinh học
THANH HOÁ NĂM 2019
MỤC LỤC
Trang
1. PHẦN MỞ ĐẦU
 1
1.1. Lí do chọn đề tài..
 1
1.2. Mục đích nghiên cứu.
 2
1.3. Đối tượng nghiên cứu..
 2
1.4. Phương phấp nghiên cứu
 2
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM..
 3
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
 3
2.1.1. 	Quan điểm của dạy học phân hóa...
 3
2.1.2. Quan điểm dạy học tích cực, một số phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực.
 3
2.1.3. Quan điểm về kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh 
 4
2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
 4
2.3. Một số biện pháp sư phạm giúp học sinh yếu kém tiến bộ trong môn Sinh học lớp 10..
 5
2.3.1. Những biện pháp chung..
 5
2.3.2. Những biện pháp cụ thể..
 7
2.3.3. Tổ chức thực hiện
13
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm 
16
2.4.1. Đánh giá định tính...
16
2.4.2. Đánh giá định lượng
16
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
17
3.1. Kết luận
17
3.2. Kiến nghị.
17
TÀI LIỆU THAM KHẢO
18
CÁC CHỮ VIẾT TẮT
THCS: Trung học cơ sở 
THPT: Trong học phổ thông
GV: Giáo viên
HS: Học sinh
SGK: Sách giáo khoa
CTC: Chương trình chuẩn
MTBT: Máy tính bỏ túi
Nxb: Nhà xuất bản
1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Có thể nói chất lượng giáo dục nước ta đang là một vấn đề mang tính thời sự. Hiện tượng học sinh “ngồi nhầm lớp”, tỷ lệ học sinh yếu kém ở các trường THPT không phải là ít, trong đó phải kể đến tỷ lệ học sinh yếu kém môn Sinh học. Trong khi đó, môn Sinh học có vai trò, vị trí và ý nghĩa hết sức quan trọng trong giáo dục phổ thông. Ngoài mục đích trang bị cho học sinh hệ thống kiến thức cơ bản, bao gồm các kiến thức về sinh học phân tử, sinh học tế bào, sinh học cơ thể, di truyền và biến dị còn rèn cho các em các kỹ năng quan sát, tổng hợp, phân tích đánh giá, suy luận; kỹ năng vận dụng kiến thức làm bài tập, kỹ năng tính toán. Học tốt môn Sinh học giúp các em giải thích được các hiện tượng trong cuộc sống. Việc nắm vững kiến thức cơ bản góp phần nâng cao chất lượng đào tạo ở bậc phổ thông, chuẩn bị cho học sinh tham gia các hoạt động sản xuất và hoạt động sau này.
	Mỗi học sinh là một cá thể riêng biệt, tất nhiên sẽ có sự khác nhau về năng lực học tập. Có học sinh tiếp thu bài học nhanh, nhưng cũng có những em tiếp thu bài rất chậm, thậm chí là không tiếp thu được gì thông qua các hoạt động trên lớp. Đặc biệt, khái niệm Sinh học luôn trừu tượng, khó hiểu ... hệ thống lí thuyết nhiều mang tính lôgic rất cao. Nội dung phần bài học sau các em muốn hiểu được cần phải nhớ, hiểu, vận dụng lại kiến thức đã học ở phần trước, lớp trước. Nếu học sinh đã rỗng kiến thức cơ bản thì việc tiếp thu kiến thức ngày càng khó khăn, thiếu hụt dẫn đến ghi nhớ máy móc không hiểu bản chất nên chán học và học yếu, kém bộ môn. 
Hiện nay việc dạy học môn Sinh học ở trường THPT nói chung và trường THCS &THPT Thống Nhất nói riêng tuy đã áp dụng nhiều phương pháp dạy học tích cực, song việc phân loại để cung cấp “những lỗ hổng kiến thức” cho các em học sinh yếu kém vẫn chưa được thực hiện một cách thường xuyên, GV chưa có biện pháp tác động đến tình cảm, chưa gây được hứng thú học tập cho học sinh.
 Được tiếp xúc hàng ngày với các em, đó là điều kiện thuận lợi giúp tôi tìm hiểu rõ về đặc điểm tâm lí của lứa tuổi và đề ra các biện pháp giáo dục thích hợp nhằm giúp những học sinh yếu kém có thể nắm được bài học và hoà nhập vào hoạt động học trên lớp cùng các bạn. 
Lớp 10 là lớp đầu cấp THPT nên việc lấp “lỗ hổng” kiến thức môn Sinh học để các em có một nền tảng kiến thức vững chắc là cần thiết, tạo điều kiện cho các em học tập tiếp lên các lớp trên và có được sự tự tin trong cuộc sống. Do đó, giáo viên cần có biện pháp dạy học phù hợp giúp các em nắm chắc kiến thức cơ bản, có kĩ năng làm bài tập, tích cực, hứng thú trong giờ học, từ đó thoát khỏi tình trạng yếu kém môn Sinh học. Khi học tốt hơn môn Sinh học thì việc định hướng nghề nghiệp tương lai cho các em sẽ rộng mở hơn, các em sẽ lựa chọn được các trường đại học, cao đẳng khối A02, khối B để thi, hoặc các trường cao đẳng, trung cấp nghề phù hợp với sở thích và năng lực của mình.
Từ những lí do trên, tôi đã chọn đề tài: “Một số biện pháp sư phạm giúp học sinh yếu kém tiến bộ trong môn Sinh học lớp 10” 
1.2. Mục đích nghiên cứu
 Qua đề tài này, tôi mong muốn tìm ra nguyên nhân học sinh học yếu kém môn Sinh học, từ đó có những biện pháp giúp các em yêu thích, hứng thú hơn đối với môn học này cũng như các môn học khác. Tạo cho các em học sinh yếu kém có ý chí vượt qua khó khăn, rèn luyện tính kiên trì, cẩn thận và tự tin vươn lên trong học tập.
 Đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho những ai quan tâm đến vấn đề dạy đối tượng HS yếu kém môn Sinh học.
1.3. Đối tượng nghiên cứu 
Một số biện pháp sư phạm giúp học sinh yếu kém tiến bộ trong môn Sinh học lớp 10.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
 - Nghiên cứu lý luận dạy học
- Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế, thu thập thông tin
- Phương pháp thống kê, xử lý số liệu
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm. 
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
 2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm 
 2.1.1. Quan điểm của dạy học phân hoá
Dạy học phân hoá là cách thức dạy học đòi hỏi phải tổ chức, tiến hành các hoạt động dạy học dựa trên những khác biệt của người học về năng lực, nhu cầu nhận thức, các điều kiện nhận thức, nhằm tạo ra những kết quả học tập và sự phát triển tốt nhất cho từng người học, đảm bảo công bằng giáo dục, tức là đảm bảo quyền bình đẳng về cơ hội học tập cho người học.
 Những cấp độ và hình thức dạy học phân hoá:
Dạy học phân hoá ở cấp độ vĩ mô: là tìm kiếm các phương pháp, kĩ thuật dạy học để mỗi học sinh, nhóm học sinh, với nhịp độ học tập khác nhau trong giờ học đều đạt kết quả mong muốn.
Dạy học phân hoá ở cấp độ vi mô bao gồm dạy học phân hoá nội tại và dạy học phân hoá về tổ chức.
Dạy học phân hoá ở cấp độ vĩ mô là sự tổ chức quá trình dạy học thông qua cách tổ chức các loại trường lớp khác nhau cho các đối tượng học sinh khác nhau, xây dựng các chương trình giáo dục khác nhau.
Một số hình thức dạy học phân hoá ở cấp độ vĩ mô: Phân ban, dạy tự chọn, phân ban kết hợp với dạy học tự chọn, phân luồng.[13] 
 2.1.2. Quan điểm dạy học tích cực, một số phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực. 
 Thuật ngữ “Phương pháp dạy học tích cực” được dùng để chỉ những phương pháp giáo dục, dạy học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học.
 Trong dạy học tích cực hoạt động học tập được thực hiện trên cơ sở hợp tác và giao tiếp ở mức độ cao. Phương pháp dạy học tích cực đem lại cho người học hứng thú, niềm vui trong học tập, nó phù hợp với đặc tính ưa thích hoạt động của trẻ em. Việc học đối với học sinh khi đã trở thành niềm hạnh phúc sẽ giúp các em tự khẳng định mình và nuôi dưỡng lòng khát khao sáng tạo. [1]
 Dạy và học tích cực tập trung trọng tâm vào hoạt động học, tạo ra sự chuyển biến từ học tập thụ động sang học tập chủ động, phát huy khả năng tự học ngay từ những lớp nhỏ ở trường phổ thông, tự học không chỉ trong giờ lên lớp dưới sự hướng dẫn của giáo viên mà cả ở nhà, trong các hoạt động ngoài giờ lên lớp, không có sự hướng dẫn của giáo viên. [1]
 Một số phương pháp dạy học tích cực: Dạy học đặt và giải quyết vấn đề, dạy học hợp tác (dạy học theo nhóm hoặc thảo luận nhóm), học theo hợp đồng, học theo góc, học theo dự án, dạy học vĩ mô
 Một số kĩ thuật dạy học tích cực: kĩ thuật đặt câu hỏi, kĩ thuật khăn phủ bàn, kĩ thuật mảnh ghép, sơ đồ tư duy, kĩ thuật “KWL”, kĩ thuật hơp tác, kĩ thuật lắng nghe và phản hồi tích cực[1]
 2.1.3. Quan điểm về kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh 
 	Khi đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy học, sẽ đặt ra yêu cầu khách quan phải đổi mới kiểm tra, đánh giá, bảo đảm đồng bộ cho quá trình hướng tới nâng cao chất lượng dạy học. Khi đổi mới kiểm tra, đánh giá bảo đảm yêu cầu khách quan, chính xác, công bằng sẽ tạo tiền đề xây dựng môi trường sư phạm thân thiện, tạo động lực mới thúc đẩy đổi mới phương pháp dạy học và đổi mới công tác quản lí.
 	Kiểm tra, đánh giá có vai trò rất to lớn trong việc nâng cao chất lượng đào tạo. Kết quả của kiểm tra, đánh giá là cơ sở điều chỉnh hoạt động dạy, hoạt động học và quản lí giáo dục. Kiểm tra đánh giá đúng thực tế, chính xác và khách quan sẽ giúp người học tự tin, hăng say, nâng cao năng lực sáng tạo trong học tập.
 	 Đổi mới kiểm tra đánh giá chỉ có hiệu quả khi kết hợp đánh giá của GV với tự đánh giá của HS. Sau mỗi kỳ kiểm tra, giáo viên cần bố trí thời gian trả bài, hướng dẫn HS tự đánh giá kết quả bài làm, tự cho điểm bài làm của mình, nhận xét mức độ chính xác trong chấm bài của GV. Trong quá trình dạy học và khi tiến hành kiểm tra, đánh giá GV phải biết “ khai thác lỗi” để giúp HS tự nhận rõ sai sót nhằm rèn luyện phương pháp học tập, phương pháp tư duy.[2]
 	 Để có được một đề kiểm tra phù hợp thì GV phải nắm vững các quy trình ra một đề kiểm tra.
 2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Học sinh Trường THCS &THPT Thống Nhất chủ yếu có hộ khẩu thường trú ở 4 huyện: Yên Định, Ngọc Lặc, Thọ Xuân, Cẩm Thuỷ. Đa số các em phải đi học xa, hoàn cảnh kinh tế lại khó khăn, điều này đã ảnh hưởng rất lớn đến việc học tập. Đặc biệt chất lượng đầu vào rất thấp đã gây không ít khó khăn cho việc dạy học nói chung và dạy học môn Sinh học nói riêng.
Sự thay đổi về môi trường học tập từ THCS lên THPT ảnh hưởng không nhỏ tới việc tiếp thu kiến thức, đặc biệt đối với các HS yếu kém. Bởi thầy cô và bạn bè mới khiến cho những em HS yếu kém vốn đã thiếu tự tin trong học tập càng trở nên xa lạ với những bài học mới.
 	 Khi dạy môn Sinh học ở lớp 10 tôi nhận thấy vẫn còn tồn tại phổ biến tình trạng HS nắm kiến thức cơ bản môn Sinh học ở lớp dưới còn mơ hồ thậm chí không nhớ tế bào là gì, tế bào được cấu tạo cơ bản như thế nào, các quá trình phân bào  Chính vì thế việc tiếp thu kiến thức mới của các em gặp rất nhiều khó khăn. Một số em chán nản không muốn học vì thấy môn học quá khó, số khác tích cực hơn thì ghi chép bài đầy đủ, chú ý nghe giảng thì có thể vẫn tiếp thu kiến thức được ở phần I (Giới thiệu chung về thế giới sống), một số bài trong chương I (thành phần hóa học của tế bào) của phần II (Sinh học tế bào), từ chương tiếp theo của Sinh học lớp 10 các em không thể theo kịp yêu cầu chung của bài họcNhiều em điều kiện học tập thiếu thốn, thiếu: SGK, sách bài tập, máy tính bỏ túi, vở nháp  nên ngại học hoặc muốn học nhưng do điều kiện thiếu thốn đã cản trở việc học tập của các em. Một số em có tâm lí trông chờ, lười suy nghĩ, ngại làm dù là những bài tập vận dụng tương tự chỉ thay số liệu nên khi bắt tay vào làm thì lóng ngóng, kĩ năng tính toán chậm 
Trong một lớp có sự chênh lệch khá lớn về lực học giữa những em khá giỏi và những em yếu kém. Điều này càng làm cho những HS yếu kém thiếu tự tin thường không dám trình bày ý kiến cá nhân, cũng như không dám nêu thắc mắc của mình trước những vấn đề của bài học. 
 2.3. Một số biện pháp sư phạm giúp học sinh yếu kém tiến bộ trong môn Sinh học lớp 10 
 2.3.1. Những biện pháp chung
 2.3.1.1. Tìm hiểu HS nhằm phân loại đối tượng HS yếu kém môn Sinh học
Muốn đánh giá đúng đối tượng để từ đó có phương pháp dạy phù hợp và có những biện pháp cụ thể với từng đối tượng HS yếu kém thì GV cần nắm được đặc điểm HS yếu kém môn Sinh học. GV có thể tìm hiểu thông qua học bạ THCS, qua GV chủ nhiệm và nắm đối tượng ngay ở những tiết học đầu tiên, tìm hiểu nguyên nhân và đưa ra biện pháp giáo dục phù hợp. 
 * Đặc điểm của học sinh yếu kém môn Sinh học
Học sinh yếu kém môn Sinh học là những học sinh có kết quả học tập thường xuyên ở mức độ thấp, điểm kiểm tra thường xuyên dưới trung bình. Sự yếu kém của học sinh trong quá trình học tập được thể hiện như sau: 
- Các em không thể bắt kịp chương trình học hiện tại, không có khả năng tự làm bài tập về nhà. 
- Học sinh lĩnh hội kiến thức chậm, nắm khái niệm, đặc điểm, tính chất của các cấu trúc, quá trình còn hời hợt, hay nhầm lẫn khái niệm này với khái niệm khác, đặc điểm của tế bào này với tế bào khác. Không biết vận dụng lí thuyết vào giải quyết các bài tập cụ thể. 
- Sau nhiều lần gặp khó khăn khi tiếp thu bài và làm bài tập, hứng thú học tập đối với môn học giảm sút nghiêm trọng, khiến các em mất tự tin và rơi vào trạng thái căng thẳng trong các giờ học. 
 - Học sinh không chịu suy nghĩ, không có hứng thú tham gia vào các hoạt động học tập, hoạt động giao lưu giữa thầy và trò, thái độ học tập còn thụ động. 
- Ít có cơ hội tham gia vào các hoạt động học tập trong lớp. Tính tình thì nhút nhát, rụt rè không mấy khi phát biểu ý kiến xây dựng bài. 
- Ở HS có sức học yếu kém hoặc thiếu khả năng học tập thì vốn kiến thức thường nghèo nàn và có thể chưa nắm được các kiến thức, kĩ năng một cách vững chắc và sâu sắc như các bạn khác cùng lớp. 
Sự yếu kém môn Sinh học được biểu hiện ở nhiều hình nhiều vẻ nhưng nhìn chung HS yếu kém môn sinh học thường có các đặc điểm sau: 
 - Có nhiều “lỗ hổng” về kiến thức, kĩ năng.
 - Tiếp thu kiến thức chậm.
 - Phương pháp học tập môn Sinh chưa tốt. 
 - Thờ ơ với giờ học trên lớp, thường xuyên không làm bài tập ở nhà , bỏ tiết.
Giáo viên cần nắm vững những đặc điểm này để có thể giúp đỡ học sinh yếu kém một cách có hiệu quả.
 * Nguyên nhân dẫn đến tình trạng học sinh yếu kém môn Sinh học
Qua thực tế tìm hiểu tôi nhận thấy có các nguyên nhân chủ yếu sau dẫn đến học sinh học yếu kém môn Sinh học đó là: 
 - Nguyên nhân từ học sinh
Là người trực tiếp tiếp thu những kiến thức thì nguyên nhân yếu kém có thể là do:
 + Học sinh không hứng thú học tập bộ môn: Khác với các môn khác, môn Sinh học có nhiều khái niệm trừu tượng, khó, học sinh rỗng kiến thức cơ bản do đó các em tiếp thu kiến thức ngày càng khó khăn và thiếu hụt.
 + Một số em lười học: vào lớp không chịu chú ý chuyên tâm vào việc học, về nhà thì không xem lại bài, không chuẩn bị bài, không làm bài tập, cứ đến giờ học lại cắp sách đến trường. 
 + Một số em thì không xác định được mục đích của việc học. Các em chỉ đợi khi lên lớp nghe giáo viên giảng bài rồi ghi vào những nội dung đã học sau đó về nhà “học vẹt” mà không hiểu được nội dung đó nói lên điều gì. Chưa có phương pháp và động cơ học đúng đắn. 
 + Một số em thiếu tìm tòi, sáng tạo trong học tập, có thói quen chờ đợi lười suy nghĩ hay dựa vào giáo viên, bạn bè hay xem lời giải sẵn trong sách giải một
cách thụ động.
 + Một số học sinh không có thời gian cho việc học: học sinh nhà ở nông thôn, gia đình chủ yếu sống bằng nghề nông, các em ở nhà phải phụ giúp gia đình việc đồng áng, chăn nuôi. Thậm chí có học sinh phải đi làm trái buổi để kiếm tiền ăn học. 
 - Nguyên nhân từ giáo viên
 + Chưa thật sự quan tâm đến tất cả đối tượng học sinh trong cả lớp mà chỉ chú trọng một số em học khá, giỏi; giáo viên chưa thật sự tâm lý, chưa động viên khéo léo kịp thời đối với những những tiến bộ của học sinh dù rất nhỏ.
 + Chưa cân đối giữa việc truyền thụ kiến thức với rèn luyện kỹ năng thực hành Sinh học.
 + Không nắm chắc đối tượng HS dẫn tới chưa có phương pháp giáo dục phù hợp.
 Phương pháp dạy học chậm đổi mới: Nhiều giáo viên chưa chú ý đến phương pháp dạy học đặc trưng của bộ môn, không có thí nghiệm trên lớp, bỏ giờ thực hành thí nghiệm, phương tiện dạy học nghèo nàn, lạc hậu.
 + Việc kiểm tra đánh giá học sinh chưa nghiêm túc, chưa có tác dụng khích lệ học sinh trong học tập, thậm chí còn tạo điều kiện cho học sinh chây lười.
 + Chưa tạo được không khí học tập thân thiện, giáo viên chưa phối hợp tốt với giáo viên chủ nhiệm và phụ huynh học sinh 
 - Nguyên nhân từ phụ huynh học sinh và xã hội 
 + Một số phụ huynh chưa quan tâm đến việc học của con em, thậm chí khoán trắng việc học tập của con em họ cho nhà trường.
 + Gia đình học sinh gặp nhiều khó khăn về kinh tế hoặc đời sống tình cảm khiến học sinh không chú tâm vào việc học.
 + Một số cha mẹ quá nuông chiều con cái, quá tin tưởng vào con mình nên khi học sinh lười học xin nghỉ học để làm việc riêng (đi chơi, giả bệnh) thì cha mẹ cũng đồng ý cho phép nghỉ học, vô tình là đồng phạm góp phần làm học sinh lười học, mất dần kiến thức cơ bản và rồi học yếu kém. 
 + Sự phát triển bùng nổ của công nghệ thông tin cùng với internet và các dịch vụ vui chơi, giải trí hấp dẫn. Điều này cũng là một thuận lợi nếu phụ huynh hướng dẫn con em sử dụng internet cho việc khai thác tài liệu và ôn lại kiến thứcNhưng nó cũng có mặt trái khi phụ huynh không quản được con em mình để cho các em nghiện điện tử, nghiện facebookkhông dành thời gian cho việc học.
 Sau khi nắm bắt đặc điểm HS học yếu, kém môn Sinh học cũng như nắm bắt nguyên nhân gây nên, GV phải đưa ra được các biện pháp phù hợp để giúp những HS này.
 2.3.1.2. Xây dựng môi trường học tập thân thiện, cởi mở	
 Đối với lứa tuổi HS nói chung và HS lớp 10 nói riêng, tình cảm, việc làm, hành động của các em còn mang tính chất cảm tính. Các em có thể không thích học môn Sinh học chỉ vì không thích thầy cô dạy môn sinh học đó. Chính vì vậy, muốn giúp các HS yếu kém môn Sinh học tiến bộ trước hết phải làm cho các em yêu mến, tin tưởng GV. Bởi vậy, sự thân thiện của GV nhằm tạo sự gần gũi, cảm giác an toàn để các em bày tỏ những khó khăn trong học tập, trong cuộc sống của bản thân mình là yếu tố rất quan trọng. Sự khích lệ của thầy cô làm các em tự hào về mình, tự tin vào bản thân và có hứng thú học tập thực sự. Để thực hiện được, GV cần:
 	 - Tạo không khí lớp học thoải mái, nhẹ nhàng, không mắng hoặc dùng lời thiếu tôn trọng với các em, đừng để cho học sinh cảm thấy sợ giáo viên mà hãy làm cho học sinh thương yêu và tôn trọng mình. Ví dụ: HS không ghi bài, đừng vội quát mắng hay trách phạt mà hãy nhắc nhở nhẹ nhàng, hỏi rõ lý do và sẵn sàng cho mượn bút nếu lí do là: “Bút em hết mực”.
- Khen ngợi kịp thời, đúng lúc. Phải tìm ra ưu điểm để khen thành thật kẻo các em bị tổn thương vì nghĩ thầy cô giễu cợt mình. Ví dụ: khen chữ đẹp, trình bày rõ ràng, khen tính cẩn thận, khen tập trung nghe giảng, khen đã biết vẽ đúng hình, ...Không đợi HS làm xong cả bài rồi mới khen tốt. Các em viết được một chút thì khen ngay “Đúng rồi, em làm tiếp đi!”. Theo dõi bài làm của các em, nếu thấy HS bắt đầu làm sai thì phải nhắc ngay và đặt câu hỏi gợi ý để các em không mất công làm hết bài, nếu không các em sẽ nản không tự tin để tự làm lại.
- Chú ý lời phê ở bài kiểm tra, không nên tiết kiệm những lời phê như: “Có tiến bộ nhiều, cần phát huy!”, “ Trình bày bài sạch sẽ, chữ viết đẹp”
 2.3.1.3. Giáo dục ý thức học tập
GV cần giúp HS xác định đúng động cơ, thái độ học tập: học để có kiến thức, để làm người, để chiếm lĩnh tri thức của loài người, biến kiến thức đó thành kiến thức của mình. Học để lập thân lập nghiệp cho cuộc sống tương lai sau này của chính các em, cho gia đình các em sau đó là phục vụ tổ quốc, phục vụ nhân dân.
 Tôi không quên kể cho các em nghe câu chuyện ngụ ngôn: “Ông nông dân mãi nghèo khổ” để các em thấy được muốn học tập tốt thì phải có kế hoạch, ý thức tự giác và kiên trì thì mới thành công.
 2.3.2. Những biện pháp cụ thể
 2.3.2.1. Những biện pháp giúp đỡ các đối tượng HS 
* Đối với những em do hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn
Các em bị thiếu thốn sách vở đồ dùng học tập, ngoài các buổi đến lớp các em phải đi làm thêm để phụ giúp kinh tế gia đình không có thời gian tập trung cho học tập. GV cần:
- Tìm hiểu hoàn cảnh gia đình của các em qua hồ sơ, qua GV chủ nhiệm, qua bạn bè của HS đó.
- Đề xuất lên ban lãnh đạo nhà trường có thể miễn giảm cho các em một phần nào các khoản đóng góp có thể được. 
- Phát động các em học sinh trong lớp quyên góp một phần nào đó để giúp bạn có thể mua một số đồ dùng học tập như sách giáo khoa, bút, vở và nên chủ động cho các em mượn một số sách vở đồ dùng học tập.
- Trao đổi với phụ huynh, động viên gia đình tạo điều kiện cho em học tập, để các phụ huynh này nhận thức rõ quyền lợi của các em bây giờ là được học, có thể các em sẽ không học tiếp cao đẳng, đại học nhưng các em cần đượ

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_bien_phap_su_pham_giup_hoc_sinh_yeu_kem_tien_bo.doc