SKKN Một số biện pháp rèn luyện kỹ năng giao tiếp - ứng xử cho học sinh lớp 3 trong các môn học và hoạt động ngoài giờ lên lớp

SKKN Một số biện pháp rèn luyện kỹ năng giao tiếp - ứng xử cho học sinh lớp 3 trong các môn học và hoạt động ngoài giờ lên lớp

 Trường Tiểu học B Long An được thành lập theo Quyết định số 11/QĐ-UBND ngày 30 tháng 11 năm 2009 của Ủy ban nhân dân thị xã Tân châu. Trường có một điểm do ba điểm trường trước đây hợp thành, nằm ven bờ sông Kênh Xáng. Năm 2000 trường được xây dựng mới trên mặt bằng rộng cặp theo lộ giao thông Long An - Châu Phong, tọa lạc trên tuyến dân cư thuộc ấp Long Hòa, xã Long An, từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh học tập. Dân số thuộc địa bàn trường để phổ cập 4974 người với 1234 hộ dân; năm học 2017 - 2018 toàn trường có 26 cán bộ, giáo viên và nhân viên, có 411 học sinh được chia thành 14 lớp; đa số người dân lao động nghèo, sống bằng nghề buôn bán nhỏ, làm thuê. Thực hiện chương trình, mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới, địa phương được chọn là xã điểm của tỉnh trong việc xây dựng nông thôn mới. Năm 2015 xã Long An được Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang công nhận đạt chuẩn nông thôn mới.

doc 23 trang Trần Đại 28/04/2023 11475
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số biện pháp rèn luyện kỹ năng giao tiếp - ứng xử cho học sinh lớp 3 trong các môn học và hoạt động ngoài giờ lên lớp", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 PHÒNG GD&ĐT TX TÂN CHÂU CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TRƯỜNG TIỂU HỌC B LONG AN Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
 ________________ ______________________________________
 Long An, ngày 10 tháng 01 năm 2018
BÁO CÁO 
Kết quả thực hiện sáng kiến
 Một số biện pháp rèn luyện kỹ năng giao tiếp - ứng xử cho học sinh lớp 3 
trong các môn học và hoạt động ngoài giờ lên lớp
_______________________
I. Sơ lược lý lịch tác giả:	
 - Họ và tên: Lê Thị Việt Chương Nam, nữ: nữ
 - Ngày tháng năm sinh: 28/4/1980
 - Nơi thường trú: Tổ 7, ấp Long Hòa, xã Long An, thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang
 - Đơn vị công tác: Trường Tiểu học B Long An 
 - Chức vụ hiện nay: Giáo viên dạy lớp
 - Trình độ chuyên môn: Đại học sư phạm
 - Lĩnh vực công tác: Giáo viên tiểu học
II. Sơ lược đặc điểm tình hình đơn vị:
1. Tóm tắt tình hình đơn vị
 Trường Tiểu học B Long An được thành lập theo Quyết định số 11/QĐ-UBND ngày 30 tháng 11 năm 2009 của Ủy ban nhân dân thị xã Tân châu. Trường có một điểm do ba điểm trường trước đây hợp thành, nằm ven bờ sông Kênh Xáng. Năm 2000 trường được xây dựng mới trên mặt bằng rộng cặp theo lộ giao thông Long An - Châu Phong, tọa lạc trên tuyến dân cư thuộc ấp Long Hòa, xã Long An, từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh học tập. Dân số thuộc địa bàn trường để phổ cập 4974 người với 1234 hộ dân; năm học 2017 - 2018 toàn trường có 26 cán bộ, giáo viên và nhân viên, có 411 học sinh được chia thành 14 lớp; đa số người dân lao động nghèo, sống bằng nghề buôn bán nhỏ, làm thuê. Thực hiện chương trình, mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới, địa phương được chọn là xã điểm của tỉnh trong việc xây dựng nông thôn mới. Năm 2015 xã Long An được Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang công nhận đạt chuẩn nông thôn mới. 
2. Thuận lợi
 - Học sinh có nhiều cơ hội rèn luyện và trải nghiệm kỹ năng giao tiếp - ứng xử ở trường và cộng đồng.
 - Trường Tiểu học B Long An đang triển khai mô hình trường học mới, do vậy sẽ có nhiều hoạt động trong và ngoài giờ học nhằm phát triển năng lực, phẩm chất cho học sinh, trong đó có năng lực giao tiếp - ứng xử.
 - Nhà trường rất quan tâm tạo điều kiện cho giáo viên và học sinh thực hiện các hoạt động nhằm phát triển toàn diện cho học sinh.
3. Khó khăn
 - Một số em có hoàn cảnh gia đình khó khăn, chưa có sự quan tâm chu đáo, chặt chẽ của cha mẹ. 
 - Giáo viên chưa nhận được sự phối kết hợp của cha mẹ trong việc giáo dục con em.	
 - Khả năng giao tiếp - ứng xử của học sinh còn hạn chế. Hơn nữa, một số em ít có điều kiện tiếp xúc nơi đông người nên còn nhút nhát, ngại giao tiếp, ít phát biểu, chưa tự tin trong luyện nói một số em không biết diễn đạt hết ý của mình. Ý thức rèn luyện và trau dồi kỹ năng giao tiếp - ứng xử ở học sinh còn hạn chế. 
 - Tên sáng kiến: Một số biện pháp rèn luyện kỹ năng giao tiếp - ứng xử cho học sinh lớp 3 trong các môn học và hoạt động ngoài giờ lên lớp. 
 - Lĩnh vực: Chuyên môn.
III. Mục đích yêu cầu của sáng kiến:
 - Nhằm nâng cao chất lượng giáo dục thế hệ trẻ, đáp ứng nhu cầu đổi mới toàn diện của giáo dục nói riêng và của toàn xã hội nói chung.
 - Tìm ra một số biện pháp rèn luyện kỹ năng giao tiếp - ứng xử cho học sinh.
 - Giúp học sinh ý thức được giá trị của bản thân trong mối quan hệ xã hội; giúp học sinh có hiểu biết về thể chất, tinh thần của bản thân mình; có hành vi, thói quen giao tiếp - ứng xử có văn hóa.
 - Giúp học sinh có đủ khả năng tự thích ứng với môi trường xung quanh, tự chủ, độc lập, tự tin khi giải quyết công việc, đem lại cho các em vốn tự tin ban đầu để trang bị cho các em những kỹ năng cần thiết làm hành trang bước vào đời.
1. Thực trạng ban đầu trước khi áp dụng sáng kiến
 - Hiện nay, có nhiều học sinh chưa mạnh dạn tự tin, còn e dè thụ động trong học tập và trong sinh hoạt chung; kỹ năng giao tiếp còn hạn chế, chưa biết cách diễn đạt suy nghĩ của mình bằng ngôn ngữ, hợp tác và trình bày ý kiến cá nhân. Một số em trong ứng xử có phần còn mang tính tùy tiện. Nhiều học sinh rất thiếu kỹ năng xử lý tình huống của cuộc sống thực; không biết giao tiếp theo những quy tắc tối thiểu nhất trong gia đình, nhà trường cũng như ngoài xã hội; thiếu tự tin khi giao tiếp, thiếu bản lĩnh, thiếu sáng tạo; học tập thụ động; kiểm soát cảm xúc không tốt như còn gây gỗ, đánh nhau với những lý do vô cùng phi lý.
 - Năm học 2017 - 2018, tôi được nhà trường phân công giảng dạy lớp 3A. Qua các hình thức và biện pháp khảo sát khác nhau, tôi thống kê kết quả đánh giá về thực trạng và khả năng giao tiếp - ứng xử của học sinh như sau:
Tổng số
học sinh
Số học sinh 
giao tiếp tốt
Số học sinh chưa có 
kỹ năng giao tiếp, chưa mạnh dạn, tự tin
Số học sinh chưa có 
kỹ năng diễn đạt, thể hiện
Số lượng
Tỉ lệ
Số lượng
Tỉ lệ
Số lượng
Tỉ lệ
30
8
26,27%
14
46,46%
8
26,27%
 - Đặc biệt hơn đầu năm học này lớp tôi có em Nguyễn Thanh Phong và em Trương Thị Mỹ Ngân từ một học sinh hết sức nhút nhát, rụt rè, vào đầu năm khi tôi gọi hai em này lên bảng, hai em không thể tự giới thiệu bất cứ một điều gì về bản thân và gia đình của mình.
 * Nguyên nhân của những hạn chế nói trên:
 - Đối với giáo viên:
Cơ bản mới chú ý đến việc giáo dục chất lượng của học sinh, tuy nhiên có một số ít giáo viên thiếu kinh nghiệm trong cách dạy bảo đối với học sinh hay nghịch, cách ứng xử và giao tiếp trong cuộc sống. Một số giáo viên chưa thật sự tích cực tổ chức phương pháp dạy học tích cực, tạo điều kiện để học sinh học nhóm, trao đổi kinh nghiệm để học sinh học tập lẫn nhau. Kỹ năng giáo dục yêu cái đẹp, thực hành viết chữ đẹp chưa được chú ý. Một số ít giáo viên dạy các môn Đạo đức, Hoạt động ngoài giờ lên lớp, Tự nhiên và Xã hội chưa được tập huấn dạy học các bài học phải tích hợp rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh. Giáo viên chưa chú trọng rèn luyện kỹ năng thực hành, chủ yếu hình thành trên lý thuyết.
 - Đối với gia đình và xã hội:
Cá biệt vẫn còn có học sinh do ảnh hưởng của môi trường xã hội, khu dân cư nên hành vi giao tiếp - ứng xử chưa đúng mực. Một vài em được sự nuông chiều của gia đình, được gia đình phục vụ, đáp ứng mọi yêu cầu, chỉ biết học nên việc giao tiếp còn hạn chế và ngược lại cũng có những em sống trong gia đình nghèo khổ, bố mẹ thiếu quan tâm đến việc giáo dục con cái còn phó mặc cho nhà trường.
Trước thực trạng đó, trong công tác chủ nhiệm lớp tôi suy nghĩ tìm các biện pháp giáo dục phù hợp với các đối tượng học sinh của lớp, nhằm hình thành các thói quen tốt cho các em, giúp các em phát triển nhân cách, có những hành vi giao tiếp - ứng xử chuẩn mực, làm tròn nhiệm vụ học sinh khi còn ngồi trên ghế nhà trường. 
2. Sự cần thiết phải áp dụng sáng kiến
Albert Einstein đã từng nói: “Nhà trường luôn luôn có chủ trương tạo cho học trò một cá tính cân đối chứ không nên biến chúng thành một nhà chuyên môn”. Do đó, việc giáo dục và đào tạo trong nhà trường hiện nay không chỉ chú trọng đến việc tạo ra những con người giỏi về nghề nghiệp mà còn phải hoàn thiện về nhân cách trong đó kỹ năng giao tiếp - ứng xử là một trong những kỹ năng cần được hoàn thiện ngay từ bậc tiểu học.
“Học để biết, học để làm, học để khẳng định mình và học để chung sống”. Giáo dục tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học trung học cơ sở, (Luật giáo dục, điều 27, khoản 3). Muốn thực hiện mục tiêu này thì đòi hỏi giáo viên và học sinh phải cùng nổ lực thực hiện nhiệm vụ dạy và học của mình mà trong đó giao tiếp - ứng xử sư phạm đóng vai trò hết sức quan trọng trong sự hình thành và phát triển nhân cách của mỗi cá nhân; giao tiếp - ứng xử ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống tinh thần của mỗi người. Giao tiếp - ứng xử là một kỹ năng đời thường nhưng là “Nhu cầu cơ bản nhất” của con người và mang tính sống còn đối với bất kì sự quan hệ nào của nhân loại.
Trong cuộc sống, trong giao tiếp - ứng xử hàng ngày chúng ta luôn phải ứng phó với biết bao tình huống, có lúc dễ dàng xử lý, có lúc rất phức tạp, khó xử nên không dễ và thật sự khó khăn để bạn có thể tạo được ấn tượng với họ khi giao tiếp - ứng xử. Xã hội càng văn minh thì nhu cầu trong giao tiếp - ứng xử của chúng ta càng cao. Nên giao tiếp - ứng xử một cách thông minh, khôn khéo, tế nhị, kịp thời, có hiệu quả, đạt tới mức độ nghệ thuật được coi như một bí quyết thành công trong cuộc đời.
Trong quá trình dạy và học, giao tiếp càng đóng vai trò quan trọng hơn. Nhưng ở bậc tiểu học, học sinh cần phải rèn luyện kỹ năng giao tiếp - ứng xử. Nó được thể hiện ở hai phương diện “Nói - viết”. Như vậy, “Nói - viết” như thế nào để mang lại hiệu quả cao trong học tập cho học sinh, giúp các em giao tiếp, ứng xử tốt hơn là vấn đề chúng ta cần phải quan tâm. Nhưng việc rèn kỹ năng giao tiếp - ứng xử cho học sinh ở đây là rất hạn chế nhất là việc lồng ghép vào tất cả các môn học cũng như lồng ghép vào các hoạt động ngoại khóa giáo viên còn mơ hồ. Để nâng cao kỹ năng giao tiếp - ứng xử cho học sinh tiểu học, với cương vị là một giáo viên chủ nhiệm, bản thân hết sức băn khoăn và trăn trở: Làm thế nào để nâng cao kỹ năng giao tiếp - ứng xử cho học sinh? Làm thế nào để học sinh biết cách vận dụng kỹ năng giao tiếp - ứng xử vào trong cuộc sống hằng ngày? 
Với lòng mong mỏi của bản thân có thể góp phần nhỏ bé trang bị cho các em khả năng tự tin trong giao tiếp - ứng xử với thầy cô, bạn bè và rộng ra là tất cả mối quan hệ trong xã hội và góp phần vào việc luận giải những vấn đề nói trên, tôi quyết định chọn đề tài: “Một số biện pháp rèn luyện kỹ năng giao tiếp - ứng xử cho học sinh lớp 3 trong các môn học và hoạt động ngoài giờ lên lớp”. Với mục tiêu giúp các em rèn giũa kỹ năng giao tiếp - ứng xử để có thể tự tin, tự nhiên trong giao tiếp - ứng xử với mọi người xung quanh. Và đây cũng chính là nền tảng vững chắc nhất cho các em khi bước vào đời.
3. Nội dung sáng kiến
 a. Tiến trình thực hiện
- Muốn việc dạy và học đạt hiệu quả tốt thì giáo viên cần chú ý ba yếu tố sau:
+ Yếu tố thứ nhất: phẩm chất cá nhân của giáo viên.
+ Yếu tố thứ hai: mối quan hệ giữa giáo viên với cá nhân học sinh và với cả lớp học.
+ Yếu tố thứ ba: phát huy được sự tự tin và tự trọng của học sinh.
- Chân thành luôn thể hiện sự quan tâm, chăm sóc, dạy dỗ, tôn trọng các em học sinh và luôn đối xử với các em một cách công bằng. Không những thế giáo viên còn phải liên tục bồi dưỡng trình độ chuyên môn, nắm bắt được các phương pháp giảng dạy tốt và biết giao tiếp phi ngôn ngữ với các em học sinh, nhất là bằng ánh mắt. Biết cùng chơi với các em, biết nói đùa sẽ giúp các em tiếp thu nhanh và có một buổi học thú vị. 
- Có mối quan hệ với gia đình học sinh để có thể hợp tác với nhau trong việc dạy dỗ các em.
- Biết khoan dung có nghĩa là giáo viên phải độ lượng không cố chấp, công bằng và kiên định đối với tất cả học sinh.
- Không làm cho học sinh cảm thấy bị gò bó khi học tập, giao tiếp - ứng xử.
- Nắm được đặc điểm của từng học sinh như: tên, tuổi, hoàn cảnh gia đình, tâm lý của các em cũng như tình trạng sức khỏe và quá trình học tập của các em, những sự kiện bất thường như: học sinh lưu ban nhiều năm, thiểu năng, mồ côi, cá tính đặc biệt,...
- Hiểu biết càng nhiều về học sinh càng tốt, nên ghi chép từng điều đặc biệt của học sinh như: lưu ban, nghịch ngợm, ưa đánh nhau, cận thị, nói ngọng, nói lắp, trầm lắng,..
- Biết thêm cuộc sống ngoài lớp học của học sinh càng nhiều càng tốt. Đồng thời cũng nên dành nhiều thời gian để cởi mở với từng học sinh hay từng nhóm nhỏ: Em thích làm gì? Thích học môn nào nhất? Vì sao? Môn nào em không thích? Tại sao? Em học giỏi môn nào? Em quan tâm điều gì nhất? Em sống chung với ai? Em thích chơi những trò chơi nào? Thích chơi với những bạn nào? Không thích chơi với bạn nào? Tại sao?
- Thường xuyên tham gia các trò chơi giải trí, hoạt động thể thao, văn nghệ với các em. Bên cạnh đó giáo viên cần giúp các em giữ được nội quy, cư xử một cách công bằng phân minh, giáo viên phải biết vận dụng các phương pháp nhập vai tự luyện và hiểu được tình huống đang diễn ra, tự nhận biết được các biểu hiện nét mặt, lời nói, cử chỉ của mình khi đóng vai, luôn quan tâm sự đánh giá, nhận xét và góp ý của các em học sinh. Điều này đòi hỏi người giáo viên phải biết vận dụng và sáng tạo luôn có ý thức tìm hiểu, rút kinh nghiệm.
- Điệu bộ, cử chỉ, tư thế, dáng đứng đi. Điệu bộ, cử chỉ của giáo viên là một yếu tố không thể thiếu trong quá trình giảng dạy góp phần làm cho bài giảng thêm sinh động như những cử động tay chân, cơ thể, ánh mắt trìu mến, nghiêm nghị, không quá cuồng nhiệt và tùy tiện,...
- Tư thế phải thể hiện linh hoạt trong giao tiếp, cần phải đỉnh đạc, đàng hoàng, ung dung và khoan thai, còn học sinh phải lễ phép, tôn kính.
- Có khả năng làm chủ nhận thức, thái độ, hành vi, phản ứng của mình, đọc được những vận động trên nét mặt, cử chỉ, điệu bộ của đối tượng, biết lắng nghe và xử lý thông tin, linh hoạt với các hoàn cảnh giao tiếp và nội dung giao tiếp.
 b. Thời gian thực hiện
- Trong thực tế hiện nay, việc rèn kỹ năng giao tiếp - ứng xử cho học sinh trong nhà trường đã được chú trọng đến. Song, nhiều giáo viên còn lúng túng trong việc tổ chức, thực hiện các chương trình hoạt động rèn kỹ năng giao tiếp - ứng xử cho học sinh.
- Với ý nghĩa và tầm quan trọng trong việc rèn kỹ năng giao tiếp - ứng xử cho học sinh tôi đã thực hiện đề tài sáng kiến “Một số biện pháp rèn luyện kỹ năng giao tiếp - ứng xử cho học sinh lớp 3 trong các môn học và hoạt động ngoài giờ lên lớp”. Do đó, đề tài sáng kiến này được tôi nghiên cứu với các số liệu thực trạng từ năm học 2015 - 2016 và đúc kết kinh nghiệm cho bản thân, áp dụng các giải pháp vào năm học 2016 - 2017 đến nay tôi thấy có hiệu quả. Trong năm học 2017 - 2018 này tôi mạnh dạn áp dụng và giới thiệu đề tài này với mong muốn chia sẻ kinh nghiệm cùng đồng nghiệp, để được sự đón nhận của đồng nghiệp, của đơn vị, của ngành giáo dục để giúp đề tài của tôi ngày càng hoàn thiện hơn.
 c. Biện pháp tổ chức
c.1. Nắm tình hình học sinh qua bàn giao công tác chủ nhiệm
 Ngay từ đầu năm học, nhà trường chỉ đạo cho giáo viên các khối lớp bàn giao công tác chủ nhiệm. Từ các kênh thông tin của giáo viên chủ nhiệm năm trước và qua trò chuyện trực tiếp với học sinh, với gia đình, nhờ thế tôi đã nắm được các thông tin sau:
 - Tình hình chất lượng và các mặt hoạt động khác của từng học sinh trong lớp, nguyên nhân kết quả của giáo dục đó.
 - Hoàn cảnh gia đình học sinh.
 - Tâm tư, nguyện vọng và mong muốn, sở trường, hạn chế của từng học sinh ở thời điểm hiện tại. Từ đó, tôi lập kế hoạch chủ nhiệm - hình thành bộ máy hội đồng tự quản của lớp, thành lập các ban, biên chế ban học tập, ban văn nghệ thể dục thể thao, ban sức khỏe vệ sinh, ban thư viện, thành lập đôi bạn học tập theo tình hình chất lượng lớp tạo điều kiện cho các em được học tập lẫn nhau,... Cụ thể như đôi bạn: Xuân Nguyên và Sĩ Em, Ngọc Uyển và Thành Nhân, Phương Nhi và Mỹ Ngân, Thúy Vy và Bảo Thi, Thanh Vạn và Quốc Toàn, Minh Triết và Gia Hào, Mỹ Dư và Thanh Phong,...
Đôi bạn cùng giúp đỡ nhau trong học tập
 c.2. Phân loại khả năng giao tiếp của học sinh
- Sau khi phân loại chất lượng đầu năm và qua hai tuần giảng dạy tôi đã bắt đầu theo dõi và chia học sinh theo các nhóm sau:
 + Nhóm học sinh có lời nói lưu loát, đọc trôi chảy mạch lạc, biết thể hiện lời nói biểu cảm trong giao tiếp, cụ thể như em: Xuân Nguyên, Phương Nhi, Ngọc Uyển, Thúy Vy, Thanh Vạn, Minh Triết, Thanh Thảo.
 + Nhóm học sinh có lời nói tương đối lưu loát, trôi chảy. Tuy nhiên, chưa thể hiện được lời nói biểu cảm trong giao tiếp một cách rõ nét, cụ thể như em: Mỹ Kỳ, Bảo Minh, Mỹ Dư, Thúy Quỳnh, Huỳnh Như, Bảo Nam, Tường Vy, Trúc Ly.
 + Nhóm học sinh còn nhút nhát, nói năng cộc lốc, ngại giao tiếp, hầu như không biết sử dụng lời nói biểu cảm trong giao tiếp, cụ thể như em: Sĩ Em, Thành Nhân, Mỹ Ngân, Bảo Thi, Quốc Toàn, Gia Hào, Thanh Phong.
 - Sau khi phân tích đặc điểm cũng như giao tiếp của từng học sinh trong lớp, tôi tiến hành sắp xếp chỗ ngồi cho học sinh sao cho phân bố đều khắp ba đối tượng học sinh nêu trên trong các nhóm.
 - Ưu điểm của biện pháp này là các em tương trợ lẫn nhau trong quá trình học tập
là một việc làm hết sức bổ ích như câu tục ngữ “Học thầy không tày học bạn”.
 - Trong quá trình học tập, thi đua sẽ giúp các em mạnh dạn, năng động hơn rất nhiều trong việc rèn luyện kỹ năng nói. Sự giúp đỡ động viên của các bạn trong lớp, trong nhóm sẽ giúp các em tự tin hơn trước lời phát biểu của mình.
c.3.Giao tiếp - ứng xử trong nhà trường (thầy cô, bạn bè...)
c.3.1. Trong các môn học chính khóa
- Quan hệ thầy - trò trong nhà trường không phải là quan hệ bề trên - kẻ dưới mà là thực hiện phân công - hợp tác.
- Trong từng môn học, tiết học, giáo viên phải là người “làm mẫu” từ cách nói năng, thái độ, đi đứng, chữ viết,... Vì nếu giáo viên có thái độ không tốt với học sinh, các em sẽ học theo thầy đối xử không tốt với bạn bè và mọi người xung quanh. “Lệnh” giao việc của giáo viên đưa ra phải rõ ràng, cụ thể và thật sự “nghiêm”. Cần xây dựng mối quan hệ Thân thiện - Hợp tác giữa Thầy - Trò và giữa Trò - Trò để mọi học sinh đều được quan hệ trực tiếp với thầy và quan hệ với nhau. Giáo viên cần khuyến khích học sinh trao đổi, đặt câu hỏi, thảo luận, phát biểu ý kiến, thể hiện quan điểm cảm xúc riêng của mình. Giáo viên có thể chia lớp thành nhóm, lúc đầu có thể là nhóm nhỏ (2 học sinh ngồi cùng bàn) để dễ trao đổi, giúp các em tự tin dần; sau đó triển khai giữa 1 em và 1 em khác (vẫn là 2 em nhưng thay đổi bạn trao đổi) sẽ giúp các em làm quen dần với sự hợp tác này. Dần dần khi các em đã có kinh nghiệm hơn, tự tin hơn có thể triển khai thành nhóm lớn hơn (4, 6, 8 em) và luân phiên nhau em nào cũng có thể làm nhóm trưởng - mọi thành viên trong nhóm đều được nói, các thành viên còn lại có nhiệm vụ đóng góp ý kiến, trao đổi, giúp đỡ bạn mình... Giáo viên phải là người thiết kế, định hướng, giúp đỡ, uốn nắn học sinh; tôn trọng học sinh, giúp học sinh tự tin bằng việc khuyến khích, động viên chứ không chê bai, chỉ trích... Giáo viên phải biết khẳng định việc làm của học sinh là “đúng” hay “chưa đúng”, tuyệt đối không nói là “sai”.
- Để nâng cao năng lực tự tin, khả năng giao tiếp, hành vi ứng xử của học sinh, giáo viên có thể yêu cầu mỗi tuần mỗi tổ cử một bạn làm Chủ tịch Hội đồng tự quản luân phiên lần lượt. Lúc đầu có thể là những em có năng lực, mạnh dạn, tự tin; sau là những em nhút nhát, chưa tự tin; những em còn có hành vi chưa thật sự văn minh, lịch sự; những em còn hạn chế về khả năng giao tiếp... để các em rút kinh nghiệm, điều chỉnh dần bản thân mình, nâng cao năng lực cá nhân... với sự góp ý, giúp đỡ của tập thể lớp và khả năng bản thân (vì mỗi học sinh chắc chắn đều có những mặt mạnh, mặt tích cực riêng).
- Giáo viên phải là người làm “mẫu”, hướng dẫn, điều chỉnh học sinh, vì vậy cần tổ chức các bài học thông qua mô phỏng, trao đổi, thảo luận, tranh luận, đóng vai, cuộc thi, trò chơi, vẽ tranh... để mỗi học sinh đều được thể hiện mình.
- Việc rèn luyện kỹ năng giao tiếp - ứng xử cho học sinh không phải thông qua một môn học nào mà nó bao trùm toàn bộ các môn học, là sự tích hợp dần để học sinh được trải nghiệm. Tất cả các môn học từ Tiếng việt, Toán, Tự nhiên và Xã hội, Thủ công... đều giúp học sinh rèn luyện giao tiếp để phát triển kỹ năng sống nếu giáo viên là người biết “Thiết kế” và học sinh là người biết “Thi công”.
Ví dụ: Dạy bài Tập đọc “Chiếc áo len” (Tiếng Việt 3 - tuần 3) giáo viên có thể giáo dục kỹ năng giao tiếp cho học sinh qua các hoạt động:
- Luyện đọc:
+ Cho học sinh được đọc cá nhân tức là các học sinh trong lớp sẽ được nhận xét, giúp đỡ bạn hoặc học tập cách đọc của bạn mình.
+ Cho học sinh đọc cặp đôi cùng bàn tức là giúp học sinh sửa chữa lẫn nhau, tự tin giao tiếp, tương tác với nhau.
+ Cho học sinh đọc thi đua tức là giúp học sinh nâng cao năng lực khẳng định mình, rút kinh nghiệm cho bản thân, học tập điều hay từ bạn.
- Tìm hiểu bài:
Giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu bài bằng hệ thống câu hỏi ở sách giáo khoa hoặc gợi ý phù hợp của giáo viên dưới sự điều khiển của Chủ tịch hội đồng tự quản hay của Trưởng ban học tập hoặc của nhóm trưởng để học sinh thảo luận theo nhóm 

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_bien_phap_ren_luyen_ky_nang_giao_tiep_ung_xu_cho.doc