SKKN Một số biện pháp phụ đạo hiệu quả cho học sinh chưa hoàn thành môn toán ở lớp 5B trường Tiểu học Xuân Lộc huyện Thường Xuân

SKKN Một số biện pháp phụ đạo hiệu quả cho học sinh chưa hoàn thành môn toán ở lớp 5B trường Tiểu học Xuân Lộc huyện Thường Xuân

 Như chúng ta đã biết trường Tiểu học là nơi tạo nền móng vững chắc cho quá trình học tập của mỗi con người. Vì vậy nhà trường Tiểu học phải không ngừng nâng cao chất lượng dạy học nhằm đáp ứng mục tiêu giáo dục.

 Trường Tiểu học Xuân Lộc là một trường thuộc vùng khó khăn của huyện Thường Xuân. Trong đó 89,1% học sinh của nhà trường là người dân tộc thiểu số. Đời sống nhân dân còn gặp nhiều khó khăn, đa số học sinh không có hứng thú khi học tập các môn tự nhiên đặc biệt là môn toán. Trong khi đó Toán học là một môn học hết sức quan trọng trong chương trình Tiểu học. Đó là công cụ để các em học tốt các môn học khác, ngoài ra các kiến thức, kỹ năng của môn toán Tiểu học có nhiều ứng dụng trong đời sống hàng ngày. Nó góp phần rất quan trọng trong việc rèn luyện phương pháp suy nghĩ, suy luận, giải quyết vấn đề, phát triển trí thông minh, cách suy nghĩ độc lập, sáng tạo, đồng thời nó góp phần hình thành các phẩm chất cần thiết và quan trọng cho các em như cần cù, cẩn thận, có ý chí vượt khó, làm việc có kế hoạch và khoa học.

Môn Toán ở lớp 5 có nhiều nội dung mới và khó hơn những lớp dưới. Vì vậy mỗi giáo viên cần phải có trách nhiệm dạy học sao cho học sinh của mình tiếp thu được những kiến thức và kĩ năng mà chương trình giáo dục Tiểu học quy định. Trên thực tế không phải mọi học sinh đều học tập dễ dàng như nhau, có thể có những học sinh nắm kiến thức toán học rất nhanh mà không cần có sự cố gắng đặc biệt, trong khi đó một số em khác lại không thể đạt được kết quả như vậy mặc dù các em đã cố gắng rất nhiều. Đó chính là những em học sinh chưa hoàn thành môn Toán. Vì thế việc dạy cho các em chưa hoàn thành toán lên trình độ hoàn thành quả là một vấn đề không đơn giản. Giải quyết được vấn đề này tức là góp một phần khắc phục tình trạng học sinh chưa hoàn thành ở Tiểu học. Bằng kinh nghiệm của bản thân trong quá trình phụ đạo học sinh chưa hoàn thành môn Toán, tôi xin đưa ra “Một số biện pháp phụ đạo hiệu quả cho học sinh chưa hoàn thành môn toán ở lớp 5B trường Tiểu học Xuân Lộc huyện Thường Xuân”

 

doc 15 trang thuychi01 6455
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số biện pháp phụ đạo hiệu quả cho học sinh chưa hoàn thành môn toán ở lớp 5B trường Tiểu học Xuân Lộc huyện Thường Xuân", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ 
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THƯỜNG XUÂN 
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
 MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHỤ ĐẠO HIỆU QUẢ CHO HỌC SINH CHƯA HOÀN THÀNH MÔN TOÁN LỚP 5B TRƯỜNG TIỂU HỌC XUÂN LỘC HUYỆN THƯỜNG XUÂN
Người thực hiện: Nguyễn Thị Hiền
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường TH Xuân Lộc
SKKN thuộc môn: Toán.
THANH HÓA, NĂM 2018
MỤC LỤC
Nội dung
Trang
1. Mở đầu
1
1.1. Lí do chọn đề tài
1
1.2. Mục đích nghiên cứu
1
1.3. Đối tượng nghiên cứu
2
1.4. Phương pháp nghiên cứu
2
2. Nội dung
3
2.1. Cơ sở lí luận
3
2.2. Thực trạng vấn đề
4
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
6
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
10
3. Kết luận, kiến nghị
11
3.1. Kết luận
11
3.2. Kiến nghị
12
1. Mở đầu
 1.1. Lí do chọn đề tài: 
 Như chúng ta đã biết trường Tiểu học là nơi tạo nền móng vững chắc cho quá trình học tập của mỗi con người. Vì vậy nhà trường Tiểu học phải không ngừng nâng cao chất lượng dạy học nhằm đáp ứng mục tiêu giáo dục.
 	Trường Tiểu học Xuân Lộc là một trường thuộc vùng khó khăn của huyện Thường Xuân. Trong đó 89,1% học sinh của nhà trường là người dân tộc thiểu số. Đời sống nhân dân còn gặp nhiều khó khăn, đa số học sinh không có hứng thú khi học tập các môn tự nhiên đặc biệt là môn toán. Trong khi đó Toán học là một môn học hết sức quan trọng trong chương trình Tiểu học. Đó là công cụ để các em học tốt các môn học khác, ngoài ra các kiến thức, kỹ năng của môn toán Tiểu học có nhiều ứng dụng trong đời sống hàng ngày. Nó góp phần rất quan trọng trong việc rèn luyện phương pháp suy nghĩ, suy luận, giải quyết vấn đề, phát triển trí thông minh, cách suy nghĩ độc lập, sáng tạo, đồng thời nó góp phần hình thành các phẩm chất cần thiết và quan trọng cho các em như cần cù, cẩn thận, có ý chí vượt khó, làm việc có kế hoạch và khoa học.
Môn Toán ở lớp 5 có nhiều nội dung mới và khó hơn những lớp dưới. Vì vậy mỗi giáo viên cần phải có trách nhiệm dạy học sao cho học sinh của mình tiếp thu được những kiến thức và kĩ năng mà chương trình giáo dục Tiểu học quy định. Trên thực tế không phải mọi học sinh đều học tập dễ dàng như nhau, có thể có những học sinh nắm kiến thức toán học rất nhanh mà không cần có sự cố gắng đặc biệt, trong khi đó một số em khác lại không thể đạt được kết quả như vậy mặc dù các em đã cố gắng rất nhiều. Đó chính là những em học sinh chưa hoàn thành môn Toán. Vì thế việc dạy cho các em chưa hoàn thành toán lên trình độ hoàn thành quả là một vấn đề không đơn giản. Giải quyết được vấn đề này tức là góp một phần khắc phục tình trạng học sinh chưa hoàn thành ở Tiểu học. Bằng kinh nghiệm của bản thân trong quá trình phụ đạo học sinh chưa hoàn thành môn Toán, tôi xin đưa ra “Một số biện pháp phụ đạo hiệu quả cho học sinh chưa hoàn thành môn toán ở lớp 5B trường Tiểu học Xuân Lộc huyện Thường Xuân” 
1.2. Mục đích nghiên cứu:
- Đề tài này nhằm mục đích trao đổi cùng đồng nghiệp kinh nghiệm phụ đạo toán cho học sinh lớp 5B.
	- Thực hiện đề tài này nhằm rút ra được những bài học kinh nghiệm qua thực tế giảng dạy của bản thân và của đồng nghiệp.
- Đồng thời là một số kinh nghiệm cho đồng nghiệp tham khảo, vận dụng trong quá trình công tác và trong giảng dạy để đảm bảo việc đổi mới phương pháp dạy học.
- Bên cạnh đó còn góp phần khắc phục những khó khăn cho một số giáo viên khi dạy học.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
	Trong đề tài này tôi tập trung nghiên cứu các vấn đề cơ bản sau:
- Tìm hiểu các biện pháp phụ đạo môn toán cho học sinh lớp 5 để rút ra những bài học kinh nghiệm, áp dụng hiệu quả trong quá trình giảng dạy môn toán nói chung và phụ đạo môn toán nói riêng.
- Tìm hiểu nguyên nhân học sinh chưa hoàn thành môn học rồi phân học sinh ra theo các nhóm. 
- Lập kế hoạch bồi dưỡng:
 	Khi nắm được nguyên nhân dẫn đến việc chưa hoàn thành môn toán của từng em tôi lập kế hoạch phụ đạo học sinh chưa hoàn thành. 
- Kiểm tra đánh giá theo dõi sự tiến bộ của học sinh.
Cuối mỗi tuần tôi cho học sinh làm một bài kiểm tra để theo dõi kết quả học tập của các em từ đó mà có biện pháp phù hợp kịp thời để điều chỉnh kế hoạch phụ đạo học sinh.
	1.4. Phương pháp nghiên cứu:
	 a) Nhóm phương pháp nghiên cứu tài liệu: 
- Đọc sách báo, tạp chí tìm hiểu tâm sinh lí học sinh và tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến học sinh chưa hoàn thành môn học.
- Hệ thống hóa lại kiến thức cơ bản của môn Toán trong chương trình Tiểu học.
b) Nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận điều tra:
	- Kiểm tra, so sánh chất lượng tiếp thu bài của học sinh trong các tiết dạy.
	- Tổng hợp điều tra và có so sánh về mức độ học sinh thích học, mức độ học sinh hiểu bài trong các giờ học. 
	- Kiểm tra việc học tập của học sinh (bài cũ, bài mới). 
	- Kiểm tra chất lượng sau giờ học.
	c) Phương pháp thực nghiệm sư phạm.
d) Phương pháp đàm thoại.
2. Nội dung
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Qua nghiên cứu từ thực tiển và kinh nghiệm dạy học của giáo viên thời gian qua. Chúng ta tạm thời định nghĩa học sinh chưa hoàn thành như sau: Học sinh chưa hoàn thành là những học sinh bằng kiến thức, kĩ năng, kinh nghiệm của bản thân mình, dưới sự hướng dẫn của giáo viên không tự giải quyết được những mâu thuẫn trước mắt để tự chiếm lĩnh tri thức của bài học, hoặc bị hụt hẫng, chậm chạp trong vận dụng các kiến thức kĩ năng cơ bản phải có ở học sinh để giải quyết một bài tập hay một yêu cầu được đặt ra trong quá trình dạy và học.
Đối với ngành giáo dục, sản phẩm cho ra phải là con người có đầy đủ năng lực và phẩm chất đạo đức để đáp ứng với nhu cầu phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Do đó rèn học sinh chưa hoàn thành là một mặt rất quan trọng của sự nghiệp giáo dục toàn diện. Vì thế mục tiêu của việc rèn học sinh chưa hoàn thành là một mặt của mục tiêu giáo dục nói chung và giáo dục nhà trường nói riêng. 
 	Phụ đạo học sinh chưa hoàn thành Toán tiểu học phải bám sát vào thực trạng học tập, sinh hoạt của tập thể lớp. Đồng thời nắm chắc năng lực tiếp thu của đối tượng, kiến thức hiện tại, nhận thức về quá trình học tập, sự quan tâm của phụ huynh học sinh cũng như hoàn cảnh của gia đình các em trong diện chưa hoàn thành Toán.
 	Biện pháp phụ đạo học sinh chưa hoàn thành Toán tiểu học phải đảm bảo tính khoa học, tính cụ thể. Biện pháp đưa ra phải phù hợp với đối tượng, năng lực của học sinh chưa hoàn thành. Được các em tự ý thức quan tâm và có nhu cầu động cơ thực hiện. Không nên đặt ra mục tiêu kết quả quá cao hoặc quá thấp. 
 	Biện pháp phụ đạo học sinh chưa hoàn thành môn Toán tiểu học không chỉ phục vụ cho việc bổ sung kiến thức cơ bản về môn Toán mà còn hình thành được các kỹ năng cơ bản để học tập tốt bộ môn Toán. Như vậy ,vai trò của người giáo viên là rất quan trọng trong mỗi tiết dạy ở lớp. Sự quan tâm giúp đỡ cụ thể đối với các em cần thể hiện hết sức khéo tạo cho các em học tập một cách tự tin trong lớp. Thông thường giáo viên trẻ thường rất hay chán nản và buồn phiền đối với những lớp có những học sinh chưa hoàn thành điều đó tạo nên khoảng cách giữa học sinh và giáo viên, không có sự thông cảm lẫn nhau.
 	Việc thực hiện biện pháp phụ đạo học sinh chưa hoàn thành là việc rất quan trọng hiện nay. Đặc biệt là trong quá trình thực hiện nghiêm túc công cuộc đổi mới trong ngành giáo dục nói chung và ngành giáo dục Thường Xuân nói riêng đang diễn ra rất mạnh mẽ và quyết liệt.
Học sinh chưa hoàn thành là vấn đề đau đầu từ các cấp lãnh đạo cho đến giáo viên chủ nhiệm lớp, nhiều giáo viên mất ăn mất ngủ để tìm được những giải pháp có thể giúp một học sinh chưa hoàn thành tiến bộ. Và cũng không có gì vui hơn khi nhìn thấy học sinh mình học tập ngày càng tiến bộ.
2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
	a) Thực trạng:
- Hiện nay số học sinh chưa hoàn thành chương trình lớp học không chỉ là nỗi trăn trở của các thầy cô giáo, là sự quan tâm các cấp lãnh đạo mà còn là nỗi lo lắng của các bậc phụ huynh. Trong thời gian gần đây, tỉ lệ học sinh lưu ban ở các lớp, các trường là không đáng kể hoặc là không có nhưng thực tế thì không phải học sinh chưa hoàn thành chương trình lớp học không còn mà tình trạng này vẫn tồn tại ở các lớp, các trường.
- Như chúng ta đã biết việc học sinh chưa hoàn thành môn toán được biểu hiện dưới nhiều hình thức. Qua thực tế giảng dạy cũng như trao đổi với đồng nghiệp hầu hết các ý kiến đều cho rằng việc giảng dạy các kiến thức toán cơ bản cho học sinh lớp 5 là một việc khó, nay để khắc phục tình trạng học sinh chưa hoàn thành về môn toán trong cùng một lớp học nhiều trình độ lại càng khó hơn. Vì sao vẫn còn nhiều học sinh chưa hoàn thành toán ở lớp 5 ta có thể chia làm hai nguyên nhân:
b) Nguyên nhân khách quan:
 	Ở lớp 5 ngoài việc mở rộng vòng số là số thập phân các em còn phải hoàn thiện và nâng cao thêm nhiều kiến thức mới. Với phần đại lượng các em phải hoàn thiện các bảng đo: Khối lượng, độ dài, diện tích và học mới các đơn vị đo thể tích. Phần hình học các em phải nắm được công thức tính chu vi, diện tích, thể tích của hình tam giác, hình thang, hình tròn, hình hộp chữ nhật và hình lập phương. Phần giải toán các em phải học thêm hai dạng toán giải về tỉ số phần trăm và toán chuyển động. Ngoài các nội dung trên chương trình còn lồng ghép nhiều dạng toán đã học ở lớp dưới để các em ôn lai toàn bộ chương trình toán Tiểu học. Với một lượng kiến thức như vậy đối với học sinh có mức học hoàn thành trở lên đã khó đối với những em học sinh chưa hoàn thành môn toán càng khó hơn. 
c) Nguyên nhân chủ quan: 
 	Năm học này nhà trường đã được công nhận trường Tiểu học đạt chuẩn Quốc gia mức độ 1 vì vậy việc nâng cao chất lượng đại trà, quan tâm chất lượng mũi nhọn và giảm thiểu học sinh chưa hoàn thành là mục tiêu được đặt lên hàng đầu trong kế hoạch giáo dục của nhà trường. Từ kế hoạch chung của nhà trường tôi đã xây dựng kế hoạch riêng cho lớp mình chủ nhiệm. Sau khi nhận lớp tôi tiến hành tìm hiểu và nhận thấy rằng tình trạng học sinh chưa hoàn thành ở lớp tôi xuất phát từ các nguyên nhân sau: 
 + Do đặc điểm tâm sinh lí của học sinh tiểu học nhanh nhớ, chóng quên, sau mấy tháng nghỉ hè, các em được tự do vui chơi, không ôn tập nên dẫn đến kiến thức toán ở lớp dưới bị mai một, lãng quên.
 + Do một số gia đình thiếu quan tâm đến việc học tập của con cái, công việc làm ăn bận rộn nên  phụ huynh không có thời gian để nhắc nhở, xem xét việc học của các em. Bởi 100 % số học sinh lớp 5B là con em gia đình nông dân.
 + Bố mẹ đi làm ăn xa các em sống cùng ông bà hoặc sống nhờ nhà bà con (có đến 12 em sống xa bố mẹ) nên việc quan tâm đến việc học tập của các em bị hạn chế.
 + Hoàn cảnh kinh tế khó khăn, gia đình không hạnh phúc, không ai quan tâm. 
 + Do thời lượng học buổi 2 còn ít.
 + Bệnh tật, sức khỏe kém, giảm trí nhớ hoặc giảm sự chú ý của trẻ vào bài học làm cho việc học bị gián đoạn, khiến cho trẻ bị hổng kiến thức.. 
  Từ chỗ nắm được nguyên nhân dẫn đến tình trạng học sinh chưa hoàn thành môn học đặc biệt là môn toán, ngay từ đầu năm học 2017-2018 khi được phân công chủ nhiệm lớp lớp 5B Trường Tiểu học Xuân Lộc tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng học sinh môn toán của lớp với mục đích đánh giá chính xác hơn về thực trạng của lớp mình để từ đó tìm ra phương pháp giảng dạy đạt hiệu quả cao.
d) Kết quả khảo sát trước khi thực hiện đề tài: 
 Kết quả khảo sát cụ thể như sau:
 Số học sinh lớp là: 25 em (trong đó có 1 học sinh khuyết tật)
 Số học sinh tham gia khảo sát là: 24 em 
Tổng số 
học sinh
Chưa hoàn thành
Hoàn Thành
Hoàn thành tốt
24 em
SL
TL
SL
TL
SL
TL
4
16,6%
19
79,3%
1
4,1%
 	2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề:
 2.3.1. Sử dụng và kết hợp, hợp lý các phương pháp dạy học phù hợp với từng đối tượng học sinh:
	- Ngay trong những tiết học Toán đầu năm tôi đã lập kế hoạch và tham khảo với đồng nghiệp về việc sử dụng, kết hợp các phương pháp dạy học để giúp các em tiến bộ hơn. Ngoài ra, tôi đã trực tiếp tới nhà học sinh, trao đổi với phụ huynh, quan sát góc học tập, xem thời gian biểu của các em và góp ý bổ sung. Ở nhà phụ huynh kèm thêm, ở lớp giáo viên theo dõi, kiểm tra, nhờ đó mà các em tiến bộ rõ rệt nhất là phần đọc, viết số tự nhiên có nhiều chữ số.
	Ví dụ: Khi hướng dẫn các em cách đọc số tự nhiên có nhiều chữ số các em không đọc được như em Cầm Bá Tiên, em Lục Đăng Hoan khi đó tôi nhẹ nhàng hướng dẫn kĩ cho các em cách đọc: 
- Để đọc số tự nhiên có nhiều chữ số, người ta tách số đó thành từng lớp kể từ phải sang trái, cứ ba số hợp thành một lớp, viết cách nhau khoảng một chữ số, rồi đọc trong từng lớp.
	Chẳng hạn đọc các số tự nhiên 2345 ; 23051 . 
	2345 viết tách là 2 34 5
 Đơn vị
 Chục
 Trăm
 Nghìn
	Đọc là: Hai nghìn ba trăm bốn mươi lăm.
	23051 viết tách là 23 051
 Đơn vị
 Chục
 Trăm 
 Nghìn
 Chục nghìn
	Đọc là: Hai mươi ba nghìn không trăm năm mươi mốt.
	Tập cho học sinh làm theo mẫu trên nhiêu lần, các em sẽ quen dần và việc đọc số ngày càng thạo và nhanh. 
2.3.2. Khuyến khích từng học sinh chủ động và tích cực hoạt động học tập đem lại kết quả cao nhất cho từng học sinh:
	- Đối với những em chưa hoàn thành môn Toán, tôi không khắt khe đòi hỏi các em làm những bài tập quá sức, mà ra bài tập vừa sức, các em làm được các em mới có niềm tin trong học tập, lúc đó tôi khen ngợi kịp thời và tăng bài tập ở mức học sinh hoàn thành có thể làm được. Như vậy giao việc cho học sinh từ dễ đến vừa sức.
	Ví dụ: Khi dạy các em về tính diện tích hình tam giác giáo viên cần cho học sinh chuẩn bị hai hình tam giác nhỏ bằng nhau (bằng giấy) và kéo để các em cắt hình theo hướng dẫn của giáo viên:
	- Lấy một trong hai hình tam giác bằng nhau.
	- Vẽ một đường cao lên hình tam giác đó.
	- Cắt theo đường cao, được hai mảnh tam giác ghi là 1 và 2
	- Ghép hai mảnh 1 và 2 vào hình tam giác còn lại để thành một hình chữ nhật ABCD. Sau đó giáo viên gợi ý để học sinh tự nhận ra: Diện tích hình chữ nhật ABCD chính là diện tích của hai hình tam giác bằng nhau các em đã chuẩn bị. Từ đó các em tự tìm ra được quy tắc và diện tích tính hình tam giác. Sau khi các em nắm được bài, giáo viên ra bài tập cho các em từ dễ đến khó, chẳng hạn: 
	-Tính diện tích hình tam giác biết:
	a) Độ dài đáy là 4m và chiều cao là 6m.
	b) Độ dài đáy là 42,5m và chiều cao là 5,2m.
	c) Độ dài đáy là 30,5dm và chiều cao là 1,2m.
	Như vậy, qua áp dung sáng kiến trên chúng ta đã tổ chức cho các em chủ động chiếm lĩnh kiến thức và sau đó chúng ta giao việc cho các em từ dễ đến khó.
 	2.3.3. Khơi dậy tính tò mò và năng lực của từng học sinh qua các hoạt động học tập nhằm khám phá để có được những hiểu biết theo bài học:
	- Trong quá trình giảng dạy, ta cần có các đồ dùng trực quan đẹp, phù hợp với nội dung bài để học sinh hứng thú học tập, cần liên hệ thực tế và mở rộng kiến thức để các em áp dụng vào cuộc sống hằng ngày.
	Ví dụ: Khi dạy về các bảng đơn vị đo độ dài, khối lượng, diện tích tôi sử dụng các bảng cài trống cho các em được trực tiếp lên cài để hoàn thiện bảng.
 2.3.4. Coi học sinh là nhân vật trung tâm của quá trình dạy học:
	- Trong quá trình dạy học, người giáo viên tổ chức, hướng dẫn và là trọng tài khoa học. Mọi học sinh đều được hoạt động và phát triển.
	- Giáo viên cần tránh nói nhiều và làm thay cho học sinh.
	- Cần tổ chức cùng làm việc dưới sự hướng dẫn của giáo viên.
	Ví dụ Khi dạy về Diện tích xung quang và diễn tích toàn phần của hình lập phương thì giáo viên không nên áp đặt học sinh mà cần đưa mô hình trực quan, giáo viên tổ chức cho học sinh quan sát nhận xét rút ra kết luận: hình lập phương là hình hộp chữ nhật đặc biệt (có 3 kích thước bằng nhau). Học sinh tự rút ra kết luận về công thức tính diện tích xung quanh và diện tích toàn phần của hình lập phương sau đó áp dụng công thức để làm bài tập.
2.3.5. Kết hợp với cha mẹ học sinh, tổ chức học ở nhà cho học sinh.
	Qua các buổi họp phụ huynh học sinh, các buổi thăm nhà học sinh giáo viên chủ nhiệm cùng cha mẹ các em trang trí lại góc học tập, lên thời gian biểu cho các em học ở nhà, giáo dục cho các em tự giác học bài ở nhà.
	Ví dụ: Chủ nhật tuần 7 tôi đã đến thăm gia đình em Lục Đăng Hoan (là học sinh chưa hoàn thành Toán) sau khi trao đổi, bàn bạc với phụ huynh, tôi cùng phụ huynh sắp xếp lại góc học tập cho các em, góc học tập là nơi có đủ ánh sáng, không gần ti vi và nơi tiếp khách của bố mẹ, sau đó lên lịch cho các em tự học ở nhà.
 	2.3.6. Thường xuyên kiểm tra kiến thức cũ, truy bài đầu giờ:
	- Giáo viên đến lớp trước 15 phút để kiểm tra.
	- Lớp trưởng, tổ trưởng truy bài đầu giờ. Giáo viên khen thưởng khuyến khích tiến bộ của học sinh.
	Ví dụ: Trước buổi học các em tự ôn bài, truy bài. Chẳng hạn hôm nay tiết Toán học bài Phép cộng hai số thập phân thì trước buổi học đó các em truy bài, tôi giao nhiệm vụ cho các tổ trưởng cho các bạn trong tổ ôn bài về cách cộng hai số tự nhiên để khi học bài mới các em dễ dàng ghi nhớ cách cộng hai số thâp phân và chỉ cần nắm thêm cách đặt dấu phẩy ở tổng có như vậy các em mới nhớ bài nhanh, tiết dạy mới thành công.
 	2.3.7. Chia nhóm, phân công bạn học tốt kèm bạn học chưa tốt.
	- “ Học thầy không tày học bạn”. Để các em học sinh gần gũi nhau và giúp nhau cùng tiến bộ, xây dựng tập thể lớp đoàn kết, vững mạnh, tôi chia nhóm cho các em học tập ở lớp cũng như ở nhà. Ở lớp tôi sắp xếp cứ một em học sinh tiếp thu bài nhanh nắm vững kiến thức kèm một em tiếp thu bài chậm. Các em học tốt giúp bạn ôn bài thì thêm một lần được ghi nhớ kiến thức, bản thân tôi cũng đỡ vất vả hơn trong việc kèm riêng cho từng em. Tôi còn tổ chức thi đua giữa các nhóm giúp bạn. Nếu bạn nào tiến bộ tôi cho tuyên dương vào thứ hai đầu tuần. Vì học sinh lớp tôi chủ yếu sinh sống ở 3 thôn Pà Cầu, Cộc và Chiềng của xã Xuân Lộc nên ở nhà tôi sắp xếp các em gần nhà nhau thành một nhóm và cử một học sinh làm nhóm trưởng. Nhóm trưởng có nhiệm vụ nhắc nhở việc học bài, ôn bài ở nhà của các bạn và báo cáo với cô giáo chủ nhiệm vào đầu mỗi buổi học. Không những thế, tôi còn yêu cầu các em nhóm trưởng kiểm tra kĩ về cách học, cách trình bày bài làm, chữ viết của các bạn. Tôi kiên trì sửa thói quen xấu của các em như: chưa đọc kĩ đề bài trước khi làm bài tập, tính toán cẩu thả, không làm nháp, trình bày tùy tiện, làm xong không chịu thử lại. 
 	2.3.8. Dành thời gian, giảng giải kiến thức cũ mà học sinh chưa nắm vững:
	- Muốn tiếp thu kiến thức mới thì học sinh phải nắm vững kiến thức cũ. Qua các buổi phụ đạo vào các buổi chiều giáo viên ôn tập và củng cố kiến thức cũ cho các em về đọc, viết số tự nhiên, các phép tính với số tự nhiên, phân số, số thập phân và giải toán có lời văn
Ví dụ: khi phụ đạo cho các em về đọc, viết số thập phân:
	Giáo viên hỏi học sinh: số thập phân gồm mấy phần? Là những phần nào? Được sắp xếp ở vị trí thế nào?
	Học sinh trả lời theo hiểu biết của các em.
	Sau đó giáo viên nói cho học sinh rõ:
	Phần nguyên cũng như số tự nhiên trước đây đã học: các chữ số được sắp xếp từ phải sang trái, kể từ dấu phẩy là các chữ số hàng đơn vị, hàng chục, hàng trăm, hàng nghìn
	Phần thập phân: kế từ dấu phẩy, các chữ số được sắp xếp từ trái sang phải là các chữ số phần mười, phần trăm, phần nghìn
	Có số thập phân 123,456 thì:
	- Phần nguyên gồm có: 1 trăm 2 chục 3 đơn vị.
	- Phần thập phân gồm có: 4 phần mười, 5 phần trăm, 6 phần nghìn.
	- Đọc là: Một trăm hai mươi ba phẩy bốn trăm linh sáu.
	Cho học sinh đọc số thập phân, nêu phần nguyên, phần thập phân và giá trị vị trí của mỗi chữ số ở từng hàng, rồi sau đó cho các em viết số thập phân.
- Khi thầy đọc: Một trăm hai mươi ba đơn vị, các em viết 123. Sau số này các em đánh dấu phẩy. Khi thầy đọc tiếp 4 phần mười, các em viết số 4; 5 phần trăm các em viết số 5; 6 phần nghìn các em viết số 6.
- Cuối cùng, ta được số thập phân 123,456.
 	- Sau đó cho học sinh nhắc lại cách đọc, viết số thập phân.
 	2.3.9. Tổ chức cho học sinh ôn tập, củng cố kiến thức từng chương qua các trò 

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_bien_phap_phu_dao_hieu_qua_cho_hoc_sinh_chua_hoa.doc