SKKN Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 – 36 tháng tuổi

SKKN Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 – 36 tháng tuổi

Ngôn ngữ là phương tiện để giao tiếp, nhờ có ngôn ngữ mà con người có thể hiểu nhau được hơn, có thể trao đổi với nhau những kinh nghiệm quý báu trong cuộc sống. Đặc biệt trong chương trình giáo dục Mầm non chúng ta thấy rõ vai trò của ngôn ngữ đối với việc giáo dục trẻ thơ.

Đối với trẻ em ngôn ngữ là công cụ hữu hiệu để trẻ bày tỏ nguyện vọng của mình, là điều kiện quan trọng để trẻ tham gia vào các hoạt động hình thành nhân cách trẻ.

Ngôn ngữ còn giữ vai trò quan trọng trong việc giáo dục trẻ một cách toàn diện cả về mặt đạo đức, chuẩn mực hành vi văn hóa, giúp trẻ có thể phân biệt được điều gì tốt, điều gì xấu và cách ứng xử giao tiếp với mọi người xung quanh sao cho phù hợp. Đặc biệt ngôn ngữ còn giúp cho giáo viên dễ dàng hơn trong việc giải thích, nêu gương, thuyết phục trẻ, giáo dục những hành vi đạo đức cho trẻ (1).

Ngôn ngữ là phương tiện để phát triển tư duy, là công cụ hoạt động trí tuệ và là phương tiện để giáo dục tình cảm thẩm mỹ cho trẻ, giúp trẻ sớm tiếp thu những giá trị thẩm mĩ trong thơ ca, truyện kể, những tác phẩm nghệ thuật ngôn từ đầu tiên người lớn có thể đem đến cho trẻ từ những ngày thơ ấu. Sự tác động của lời nói nghệ thuật như một phương tiên hữu hiệu giáo giục thẩm mĩ cho trẻ

(1).Như vậy ngôn ngữ có vai trò lớn đối với xã hội và đối với con người. Vấn đề phát triển ngôn ngữ một cách có hệ thống cho trẻ ngay từ nhỏ là nhiệm vụ vô cùng quan trọng.

Đối với trẻ 25 – 36 tháng tuổi việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ càng trở nên đặc biệt quan trọng vì lúc này cơ quan phát âm và tai nghe ngôn ngữ đã phát triển và hoàn thiện. Trẻ đã có khả năng phát âm đúng hầu hết các âm đơn và thanh điệu, số lượng từ tăng nhanh, hệ thống âm vị dần dần xuất hiện trong các từ của trẻ (3). Tuy nhiên trong những trường hợp trẻ phát âm sai hoặc chưa chính xác, sự chậm chễ về mặt ngôn ngữ có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của trẻ, đặc biệt là trẻ nhà trẻ.

Là một cô giáo Mầm Non tôi luôn có những suy nghĩ trăn trở làm sao để dạy các con phát âm chuẩn, chính xác đúng Tiếng Việt. Vì thế tôi đã dạy các con thông qua các môn học khác nhau và dạy các con ở mọi lúc mọi nơi qua các hoạt động hàng ngày, từ đó trẻ khám phá hiểu biết về mọi sự vật hiện tượng, về thế giới xung quanh trẻ, phát triển tư duy. Tôi thấy mình cần phải đi sâu tìm hiểu kỹ vấn đề này để từ đó rút ra nhiệm vụ giáo dục cho phù hợp với yêu cầu phát triển của lứa tuổi. Chính vì vậy nên tôi đã chọn đề tài: “Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 – 36 tháng tuổi”

 

doc 21 trang thuychi01 11976
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 – 36 tháng tuổi", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 MỤC LỤC
STT
Đề mục
Trang
1
Mục lục
1
2
I. Mở đầu
2
3
1.1. Lí do chọn đề tài.
2
4
1.2. Mục đích nghiên cứu
2
5
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
3
6
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
3
7
 II. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
3
8
2.1. Cơ sở lí luận
3
9
2. 2. Thực trạng vấn đề.
4
10
2. 3. Các giải pháp.
5
11
2.4. Hiệu quả
17
12
III. Kết luận, kiến nghị.
18
13
- Kết luận
18
14
- Kiến nghị
18
15
Tài liệu tham khảo
20
16
Phụ lục
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Ngôn ngữ là phương tiện để giao tiếp, nhờ có ngôn ngữ mà con người có thể hiểu nhau được hơn, có thể trao đổi với nhau những kinh nghiệm quý báu trong cuộc sống. Đặc biệt trong chương trình giáo dục Mầm non chúng ta thấy rõ vai trò của ngôn ngữ đối với việc giáo dục trẻ thơ.
Đối với trẻ em ngôn ngữ là công cụ hữu hiệu để trẻ bày tỏ nguyện vọng của mình, là điều kiện quan trọng để trẻ tham gia vào các hoạt động hình thành nhân cách trẻ.
Ngôn ngữ còn giữ vai trò quan trọng trong việc giáo dục trẻ một cách toàn diện cả về mặt đạo đức, chuẩn mực hành vi văn hóa, giúp trẻ có thể phân biệt được điều gì tốt, điều gì xấu và cách ứng xử giao tiếp với mọi người xung quanh sao cho phù hợp. Đặc biệt ngôn ngữ còn giúp cho giáo viên dễ dàng hơn trong việc giải thích, nêu gương, thuyết phục trẻ, giáo dục những hành vi đạo đức cho trẻ (1).
Ngôn ngữ là phương tiện để phát triển tư duy, là công cụ hoạt động trí tuệ và là phương tiện để giáo dục tình cảm thẩm mỹ cho trẻ, giúp trẻ sớm tiếp thu những giá trị thẩm mĩ trong thơ ca, truyện kể, những tác phẩm nghệ thuật ngôn từ đầu tiên người lớn có thể đem đến cho trẻ từ những ngày thơ ấu. Sự tác động của lời nói nghệ thuật như một phương tiên hữu hiệu giáo giục thẩm mĩ cho trẻ
(1).Như vậy ngôn ngữ có vai trò lớn đối với xã hội và đối với con người. Vấn đề phát triển ngôn ngữ một cách có hệ thống cho trẻ ngay từ nhỏ là nhiệm vụ vô cùng quan trọng.
Đối với trẻ 25 – 36 tháng tuổi việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ càng trở nên đặc biệt quan trọng vì lúc này cơ quan phát âm và tai nghe ngôn ngữ đã phát triển và hoàn thiện. Trẻ đã có khả năng phát âm đúng hầu hết các âm đơn và thanh điệu, số lượng từ tăng nhanh, hệ thống âm vị dần dần xuất hiện trong các từ của trẻ (3). Tuy nhiên trong những trường hợp trẻ phát âm sai hoặc chưa chính xác, sự chậm chễ về mặt ngôn ngữ có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của trẻ, đặc biệt là trẻ nhà trẻ.
Là một cô giáo Mầm Non tôi luôn có những suy nghĩ trăn trở làm sao để dạy các con phát âm chuẩn, chính xác đúng Tiếng Việt. Vì thế tôi đã dạy các con thông qua các môn học khác nhau và dạy các con ở mọi lúc mọi nơi qua các hoạt động hàng ngày, từ đó trẻ khám phá hiểu biết về mọi sự vật hiện tượng, về thế giới xung quanh trẻ, phát triển tư duy. Tôi thấy mình cần phải đi sâu tìm hiểu kỹ vấn đề này để từ đó rút ra nhiệm vụ giáo dục cho phù hợp với yêu cầu phát triển của lứa tuổi. Chính vì vậy nên tôi đã chọn đề tài: “Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 – 36 tháng tuổi”
1.2. Mục đích nghiên cứu: 
Tôi chọn đề tài: “Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24-36 tháng”  nhằm giúp trẻ phát triển khả năng nghe, hiểu, trả lời câu hỏi một cách có logich, có trình tự, chính xác.
- Giúp trẻ mạnh dạn tự tin trước mọi người
- Làm phong phú vốn từ cho trẻ.
- Giúp giáo viên hiểu được tầm quan trọng của việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ từ đó có những kế hoạch cụ thể về việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ. 
1.3. Đối tượng nghiên cứu 
- Trẻ 24 -36 tháng trường Mầm non Hà Ngọc
1.4. Phương pháp nghiên cứu
-  Phương pháp quan sát các hoạt động trong ngày của trẻ.
- Phương pháp quan sát các hoạt động dạy và học.
- Qua nghiên cứu các tài liệu tham khảo có liên quan đến đề tài.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1.Cơ sở lí luận
Ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội đặc biệt vì nó ra đời và tồn tại cùng với sự hình thành và phát triển của xã hội loài người, ngôn ngữ dùng để phục vụ, mọi thành viên trong xã hội từ việc học tập, lao động đến việc vui chơi giải trí. Có thể nói rằng trong bất kì lình vực hoạt động nào của con người cũng cần đến ngôn ngữ. Ngôn ngữ giúp cho người trao đổi tư tưởng tình cảm, bộc lộ những cảm xúc và xác lập những mối quan hệ giữa thành viên này với thành viên khác trong xã hội.Ngôn ngữ có thể nói là một thứ công cụ để tổ chức xã hội, để duy trì mối quan hệ giữa người với người trong xã hội. Quá trình phát triển ngôn ngữ là quá trình cung cấp từ ngữ cho trẻ, góp phần là phong phú ngôn ngữ đẩy mạnh quá trình phát triển trí tuệ và tình cảm đạo đức cho trẻ, Có  thể nói rằng rèn luyện và phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non là góp phần tích cực vào  việc trang bị cho thế hệ mầm non một phương tiện mạnh mẽ để tiếp thu kinh nghiệm quý báu của thế hệ cha anh, đồng thời tạo điều kiện cho các cháu lĩnh hội các kiến thức, những hiểu biết mới lạ về thế giới xung quanh.
Ngôn ngữ giữ vai trò quan trọng như vậy trong cuộc sống, nhưng là thế nào để ngôn ngữ phát triển và muốn có ngôn ngữ phát triển thì chúng ta không thể nói đến việc phát triển vốn từ cho trẻ. Từ là đơn vị có sẵn và cơ bản của ngôn ngữ, là vật liệu chủ yếu tạo nên câu, xây dựng lời nói. Trong cuộc sống không có vốn từ thì không có ngôn ngữ hoặc vốn từ chậm phát triển thì ngôn ngữ cũng chậm phát triển và ngược lại. Vốn từ phát triển phong phú thì ngôn ngữ cũng phát triển phong phú. Khi con người biết sử dụng nhiều loại từ một cách chặt chẽ thì họ sẽ có một cách giao tiếp vững vàng tự tin trong bất kỳ lĩnh vực nào của  xã hội.
Để có vốn từ phát triển trước tiên ta phải bắt đầu phát triển ngôn ngữ cho rẻ ngay từ lứa tuổi mầm non vì ở lứa tuổi này phát triển vốn từ là giúp trẻ nắm được nhiều từ, hiểu được ý nghĩa của từ, biết sử dụng từ trong giao tiếp. Phát triển từ cho trẻ là quá trình hình thành giúp trẻ làm quen với các từ mới, củng cố vốn từ làm cho vốn từ phong phú tích cực hóa ngôn ngữ cho trẻ.Quá trình này liên quan chặt chẽ với giai đoạn nhận thức tiếp theo của trẻ để hình thành các biểu tượng về thế giới xung quanh..
Thực tế trong những năm tôi giảng dạy. Đặc biệt là năm học 2016 -2017 được phân công chủ nhiệm nhóm trẻ 25 -36 tháng tuổi. Hàng ngày bên trẻ tôi được quan sát hoạt động giao tiếp giữa trẻ với trẻ, giữa trẻ với những người xung quanh, tôi nhận thấy khả năng giao tiếp của trẻ rất hạn chế, trẻ chưa mạnh dạn, tự tin khi sử dụng ngôn ngữ giao tiếp với những người xung quanh. Cơ quan phát âm của trẻ chưa hoàn chỉnh, vốn từ của trẻ còn rất nghèo nàn. Cách phát âm của trẻ chưa chuẩn, trẻ nói ngọng nhiều, nói một cách tự do, ngừng nghỉ không đúng lúc, khi nói thường hay ngắt quãng thở hổn hển. Giáo viên chưa chú ý nhiều đến việc tổ chức các hoạt động phát triển ngôn ngữ cho trẻ, các tài liệu tham khảo hướng dẫn các hoạt động phát triển ngôn ngữ cho trẻ trong trường. Tôi tự tìm tòi biện pháp đúc rút kinh nghiệm từ thực tế dạy trẻ ở các nội dung và chọn đề tài: “Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 – 36 tháng tuổi”
 2.2. Thực trạng của vấn đề.
 Năm học 2016-2017 tôi được nhà trường phân công phụ trách nhóm trẻ 24 – 36 tháng tuổi. Gồm 28 cháu ( trong đó có: 13 nam và 15 nữ)
 * Thực trạng chung
 Trường mầm non Hà Ngọc được sự quan tâm của phòng Giáo dục Huyện, của UBND xã, đặc biệt là sự ủng hộ của các bậc phụ huynh. Trường mầm non Hà Ngọc không ngừng bổ xung, mua sắm trang thiết bị phục vụ cho học tập và vui chơi của trẻ thuận lợi hơn. Cơ sở trang thiết bị tương đối đầy đủ và có đồ chơi ngoài trời đây cũng là điều kiện tốt cho việc dạy học đạt kết quả cao hơn.
 Nhà trường có 8 nhóm lớp với 1 khu trung tâm có khuân viên vườn trường rộng và thoáng mát thuận lợi về nguồn nước, điện sinh hoạt đầy đủ, có cảnh quan đẹp, các phòng nhóm được trang bị giá góc, đồ dùng, đồ chơi cho các nhóm lớp hoạt động.
 Điều kiện trang thiết bị của lớp đầy đủ, phòng học rộng rãi thoáng mát tiện cho việc sắp xếp tạo môi trường hoạt động cho trẻ.
Tuy nhiên điều kiện cơ sở vật chất được nâng lên xong vẫn chưa đáp ứng nhu cầu như xây dựng khuôn viên, hệ thống nước thải, rác thải chưa phù hợp, đồ dùng đồ chơi có nhưng chưa đồng bộ, việc tạo môi trường hoạt động cho trẻ khó khăn đặc biệt là môi trường bên ngoài. Dân cư chủ yếu làm nghề nông trình độ dân trí của các bậc phụ huynh chưa đồng đều. 
 * Thực trạng đối với trẻ
 Đa số các cháu đều khỏe mạnh nhanh nhẹn, phân chia theo đúng độ tuổi
Thời gian vào đầu năm học, số cháu ở lớp tôi đi học không đều nhất là những ngày mưa gió. Phần lớn các cháu đang sống trong môi trường cưng chiều của gia đình. Do đó trẻ hoàn toàn chưa quen nề nếp, thói quen của hoạt động tập thể, chưa mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp.
 Khả năng giao tiếp ngôn ngữ của trẻ còn hạn chế trẻ nói ngọng nói trống không, nói chậm, nói chưa đủ ý nghĩa của câu. Trẻ nói phát âm sai do ảnh hưởng ngôn ngữ của người lớn xung quanh, tiếng địa phương.
 Đa số phụ huynh đều bận công việc hoặc có những lý do khách quan nào đó ít có thời gian trò chuyện với trẻ và nghe trẻ nói. Trẻ được đáp ứng đầy đủ về nhu cầu mà trẻ cần. Ví dụ: trẻ chỉ cần chỉ, cần nhìn vào những gì mình thích thì được đáp ứng ngay mà không cần phải dùng lời để yêu cầu hoặc xin. Đây cũng là một trong những nguyên nhân của việc vốn từ của trẻ rất nghèo nàn.
 * Đối với giáo viên 
 Bản thân là một giáo viên có trình độ trên chuẩn vềchuyên môn, nhiệt tình
 yêu nghề mến trẻ. Luôn được sự ủng hộ nhiệt tình của các bậc phụ huynh học sinh và nhà trường tin tưởng giao cho phụ trách nhóm lớp 24 – 36 tháng tuổi, trong quá trình giảng dậy tôi được học hỏi và đúc rút được nhiều kinh nghiệm, thường xuyên tham gia sinh hoạt chuyên môn, được ban giám hiệu nhà trường dự giờ góp ý nên bản thân tôi được trau dồi kiến thức, kinh nghiệm trong các tiết dạy, trong các hoạt động, đặc biệt là tham gia các chuyên đề.
 Trong quá trình đứng lớp, tôi luôn ghi chép những biểu hiện của trẻ để đúc rút những kinh nghiệm nuôi dạy trẻ, luôn cố gắng tham khảo các tài liệu, tạp san, khiêm tốn học hỏi kinh nghiệm của đồng nghiệp của giáo viên trong trường, và của trường bạn.
 Mặc dù như vậy nhưng đôi lúc tôi vẫn chưa có sự đầu tư để tìm tòi đổi mới phương pháp đưa vào giờ dạy và chưa thường xuyên ứng dụng công nghệ thông tin vào giờ dạy. Chưa chú trọng đến việc sử dụng đồ dùng dạy học bằng vật thật để đưa vào tiết học dẫn đến tiết học có hiệu quả chưa cao.
 Từ thực trạng trên để nâng cao chất lượng phát triển lời nói cho trẻ. Tôi đã mạnh dạn cải tiến nội dung, phương pháp giúp trẻ đạt hiệu quả cao hơn.
Trước khi thực hiện đề tài, tôi đã làm một số khảo sát đối với trẻ. Qua khảo sát tôi có thể nắm rõ những mặt ưu điểm và hạn chế của trẻ. Bên cạnh đó khảo sát trẻ trên lớp khiến tôi và học sinh của mình có thể hiểu nhau hơn.
 KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM (trên 28 cháu) 
Phân loại khả năng
Tốt
Khá
TB
Chưa đạt
Sl
%
Sl
%
Sl
%
Sl
%
Khả năng nghe hiểu ngôn ngữ và phát âm
4
 14
8
 29
12
 43
4
14
Vốn từ
4
 14
8
 29
12
 43
4
14
Khả năng nói đúng ngữ pháp
4
 14
10
 36
10
 36
4
14
Khả năng giao tiếp
5
 18
10
 36
9
 32
4
14
 2.3. GIẢI PHÁP VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN
 * Các giải pháp thực hiện: 
Giải pháp 1: Giáo viên cần hiểu tâm sinh lý của trẻ để qua đây phát triển ngôn ngữ cho trẻ
Giải pháp 2 : Phát triển ngôn ngữ cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi
Giải pháp 3: Tạo môi trường phong phú cho trẻ hoạt động 
Giải pháp4: Phát triển ngôn ngữ cho trẻ qua việc sử dụng đồ dùng trực quan.
Giải pháp 5: Ứng dụng công nghệ thông tin vào phát triển ngôn ngữ cho trẻ
Giải pháp 6: Phối hợp với phụ huynh trong việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ
 * Các giải pháp tổ chức thực hiện: 
 Trẻ ở lứa tuổi 24/36 tháng tuổi còn nhỏ rất hiếu động, thích tìm tòi, khám phá 
mọi thứ xung quanh.Trẻ thường có những thắc mắc trước những đồ vật.hiện tượng mà trẻ nhìn thấy, nghe thấy, trẻ thường đặt ra rất nhiều câu hỏi như: Ai đây? Cái gì đây? Con gì đây? .. Để giải đáp được những thắc mắc hàng ngày người lớn cần trả lời những câu hỏi của trẻ rõ ràng, ngắn gọn đồng thời cần cung cấp cho trẻ thêm hiểu biết về thế giới xung quanh bằng ngôn ngữ giao tiếp mạch lạc. Chính vì vậy mà mỗi giáo viên chăm sóc giáo dục trẻ cần trú trọng đến việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ, đó là nhịêm vụ quan trọng hàng đầu. Bởi ngôn ngữ là phương tiện để trẻ giao tiếp và tiếp thu kiến thức về thế giới xung quanh được dễ dàng và hiệu quả nhất:
 Giải pháp 1: Giáo viên cần hiểu tâm sinh lý của trẻ để qua đây phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
 Để phát triển tốt hơn về ngôn ngữ cho trẻ 24 – 36 tháng ngay từ đầu năm học nhận lớp, tôi đã cố gắng tìm hiểu tính cách của từng trẻ để có thể hiểu về tâm sinh lý của từng trẻ qua đây có từng biện pháp cụ thể cho từng trẻ về phát âm, vốn từ, lời nói,cách diễn đạt...
Một là: Đặc điểm phát âm: Trẻ đã phát âm đượccác âm khác nhau. Phát âm được các âm của lời nói nhưng vẫn còn ê a. Trẻ hay phát âm sai ở những từ khó, những từ có 2/ 3 âm tiết như: Lựu/ lịu, hươu/ hiu, hoa sen / hoa xem, thuyền buồm/ thiền bồm. 
Hai là: Đặc điểm vốn từ: Vốn từ của trẻ còn rất ít. Danh từ và động từ ở trẻ chiếm ưu thế (2).
Trẻ đã sử dụng chính xác các từ chỉ đồ vật con vật, hành động trong giao tiếp quen thuộc hàng ngày. Những các từ chỉ khái niệm tương đối như: Hôm qua, hôm nay, ngày maitrẻ sử dụng chưa chính xác. Một số trẻ đã biết sử dụng các từ chỉ màu sắc như:  màu xanh, màu đỏ ,màu vàng. Đã biết sử dụng các từ thể hiện sự lễ phép với người lớn trong giao tiếp như: Cảm ơn cô, vâng ,dạ
Ba là: Sắp xếp cấu trúc lời nói: Cách diễn đạt nội dung, sự liên kết các câu nói lại với nhau tạo thành chuỗi lời nói nhằm diễn tả trọn vẹn một ý, một nội dung ngắn gọn nào đó để giúp người nghe hiểu được, đối với một số trẻ là đơn giản- Nhưng đối với một số trẻ khác nhỏ tháng hơn lại là rất khó. 
Nếu yêu cầu trẻ kể lại một câu chuyện hay tả lại một sự kiện, hiện tượng xảy ra đối với trẻ thì trẻ găp khó khăn. Cần phải tập luyện dần dần.
Bốn là: Diễn đạt nội dung nói: Cách diễn đạt nội dung của trẻ ở lứa tuổi này còn ê a, ậm ừ. Đôi khi chưa diễn đạt được ý muốn của mình bằng những câu đơn giản. Trẻ còn rụt rè, chưa mạnh dạn tự tin trong giao tiếp.
Năm là: Đặc điểm ngữ pháp: Trẻ nói được 1 số câu đơn giản, biết thể hiện nhu cầu mong muốn và hiểu biết của mình bằng 1 hay 2 câu. VD: Cô ơi ! Con uống nước, con ăn kẹo Trẻ đọc được các bài thơ, hát được các bài hát có 3 đến 5 câu ngắn. Trẻ có thể kể lại 1 đoạn truyện được nghe nhiều lần, có sự gợi ý. Tuy nhiên, đôi khi sự sắp xếp các từ trong câu còn chưa hợp lý. 
 Trẻ thường sử dụng câu cụt.VD: Nước, uống nước,..Trong 1 số trường hợp trẻ dùng từ trong câu còn chưa chính xác, chủ yếu trẻ sử dụng câu đơn mở rộng. Để diển tả một ý, một nội dung ngắn ngọn nào đó thì việc sắp xếp cấu trúc lời nói là đơn giản đối với một số trẻ, nhưng khó khăn với một số trẻ còn ít tháng. Nhưng yêu cầu kể lại truyện hay những hiện tượng, sự kiện xảy ra trong đời sống thì trẻ gặp khó khăn. Chính vì vậy mà giáo viên phải rèn cho trẻ dần dần chứ không phải là việc làm có thể khắc phục ngay được. Khi đã hiểu sâu và rõ về tâm sinh lý của từng trẻ tôi có những giải pháp riêng phát triển ngôn ngữ cho từng trẻ được tốt hơn.
 Giải pháp 2 : Phát triển ngôn ngữ cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi.
 Để giúp trẻ nói được tốt hơn tôi dùng các hình thức trò chuyện với trẻ trong tất cả các hoạt động từ đón trẻ đến lúc trả trẻ. Chẳng hạn khi đón trẻ tôi cùng trò chuyện: Hôm nay ai đưa con đi học?, Con đến trường bằng xe gì?. Qua đó trẻ sẽ biểu lộ được những suy nghĩ của mình bằng ngôn ngữ đơn giản,
nói được câu nhiều từ hơn. Chính xác hơn, giúp trẻ nhút nhát mạnh dạn hơn tự nói lên những suy nghĩ của mình. 
 Xây dựng mối quan hệ giữa trẻ với trẻ, trẻ biết quan tâm đến nhau như khi một trẻ vắng không đi học thì trẻ khác sẽ hỏi, ví dụ như: Bạn Linh đâu? Cô sẽ trả lời : Hôm nay bạn Linh bị ốm không đi học được. Hay khi trẻ chơi, cô quan sát trẻ chơi và dạy trẻ biết nhường nhịn đồ dùng, đồ chơi, không tranh đồ chơi của bạnHay khi trẻ có những hành vi sai như đánh bạn, cô sẽ giải thích cho trẻ đánh bạn là sai, là không tốt, con hãy xin lỗi bạn đi 
Như vậy trẻ sẽ có những hành vi, thái độ đúng để từ đó trẻ sẽ nói được những từ ngữ biểu lộ tình cảm tốt đẹp, trẻ biết nói lời hay làm việc tốt.
* Giờ đón trẻ, trả trẻ
 Giờ đón trẻ, trả trẻ là lúc cần tạo không khí vui vẻ, lôi cuốn trẻ tới trường, tới lớp cô phải thật gần gũi, tích cực trò chuyện với trẻ.Vì trò chuyện với trẻ là hình thức đơn giản nhất để cung cấp vốn từ cho trẻ và phát triển ngôn ngữ , đặc biệt là ngôn ngữ mạch lạc. Bởi qua cách trò chuyện với trẻ cô mới có thể cung cấp, mở rộng vốn từ cho trẻ. VD: Cô trò chuyện với trẻ về gia đình của trẻ: + Buổi sáng ai đưa con đến lớp? + Bố con đưa đi bằng phương tiện gì?...
- Như vậy khi trò chuyện với cô trẻ tự tin vào vốn từ của mình, ngôn ngữ của trẻ nhờ đó mà được mở rộng và phát triển hơn.
- Ngoài ra trong giờ đón trẻ , trả trẻ tôi luôn nhắc trẻ biết chào ông, bà , bố , mẹ như vậy kích thích trẻ trả lời câu trọn vẹn bên cạnh đó giáo dục trẻ có thói quen lễ phép , biết vâng lời.
 * Giáo dục ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt động góc:
Trong một giờ hoạt động chung trẻ không thể phát triển ngôn ngữ một cách toàn diện được mà phải thông qua các hoạt động khác trong đó có hoạt động góc. Đây có thể coi là một hình thức quan trọng nhất , bởi giờ chơi có tác dụng rất lớn trong việc phát triển vốn từ, đặc biệt là tích cực hoá vốn từ cho trẻ.Thời gian chơi của trẻ chiếm nhiều nhất trong thời gian trẻ ở nhà trẻ, là thời gian trẻ được chơi thoải mái nhất. Trong qúa trình trẻ chơi sử dụng các loại từ khác nhau, có điều kiện học và sử dụng các từ có nội dung khác nhau.
 VD1: Trò chơi trong góc” Thao tác vai” trẻ được chơi với em búp bê và khi trẻ chơi sẽ giao tiếp với các bạn bằng ngôn ngữ hàng ngày. 
 Qua giờ chơi cô không những dạy trẻ kỹ năng sống mà còn dạy trẻ nghe, hiểu giao tiếp cùng nhau và trao cho nhau những tình cảm yêu thương , gắn bó của con người.
* Giáo dục ngôn ngữ thông qua hoạt động ngoài trời:
 Hàng ngày đi dạo chơi quanh sân trường tôi thường xuyên đặt câu hỏi để trẻ được gọi tên các đồ chơi quanh sân trường như : Đu quay, cầu trượt , bập bênh.Ngoài ra tôi còn giới thiệu cho trẻ biết cây xanh, cây hoa ở vườn trường và hỏi trẻ: 
+ Cây hoa này có màu gì? ( Trẻ trả lời màu đỏ) + Thân cây này có to không? ( Có ạ) + Cây vú sữa này rất cao và có lá màu gì? ( Màu xanh ạ) 
+ Cây vú sữa có tác dụng gì với con người? 
Cây vú sữa cho chúng ta quả ăn rất tốt, cho chúng ta bóng mát và nếu trồng lâu năm nó còn cho chúng ta lấy gỗ nữa đấy.
 	* Giáo dục: Các con nhớ cây xanh rất tốt cho sức khoẻ của con người các con không được hái hoa, bẻ cành mà phải tưới cây để cây mau lớn nhé!( Vâng ạ)
 - Qua những câu hỏi cô đặt ra sẽ giúp trẻ tích luỹ được những vốn từ mới ngoài ra còn giúp trẻ phát triển ngôn ngữ chính xác, mạch lạc , rõ ràng hơn.
 - Ở lứa tuổi này trẻ nhiều khi hay hỏi và trả lời trống không hoặc nói những câu không có nghĩa. Vì vậy bản thân tôi luôn chú ý lắng nghe và nhắc nhở trẻ, nói mẫu cho trẻ nghe và yêu cầu trẻ nhắc lại.
* Thông qua các giờ học khác: 
+ Thông qua giờ nhận biết:
 Đây là môn học quan trọng nhất đối với sự phát triển ngôn ngữ và cung cấp vốn từ vựng cho trẻ.
 Trẻ ở lứa tuổi 24-36 tháng đang bắt đầu học nói, bộ máy phát âm chưa hoàn chỉnh, vì vậy trẻ thường nói không đủ từ, nói ngọng, nói lắp. Cho nên trong tiết dạy cô phải chuẩn bị đồ dùng trực quan đẹp, hấp dẫn để gây hứng thú cho trẻ. Bên cạnh đó cô phải chuẩn bị một hệ thống câu hỏi rõ ràng ngắn gọn trong khi trẻ trả lời cô hướng dẫn trẻ nói đúng từ, đủ câu không nói cộc lốc.
 VD1: Trong bài nhận biết ” Con cá” cô muốn cung cấp từ “ đuôi cá ” cho trẻ cô phải chuẩn bị một con cá thật và một con cá giả ( được làm bằng bìa) để cho trẻ quan sát. Trẻ sẽ sử dụng các giác quan như: sờ, nhìn...nhằm phát huy tính tích cực của tư duy, rèn khả năng ghi nhớ có chủ đích (3).
 	- Để giúp trẻ hứng thú tập trung vào đối tượng quan sát cô cần đưa ra hệ thống câu hỏi: + Đây là con gì? ( “Con cá ạ”) + Các con nhìn xem cá muốn bơi được là nhờ cái gì mà đang quẫy quẫy đây? ( Cái đuôi ạ) + Các con ơi, cá đang nhìn chúng mình đấy thế mắt cá nằm ở đâu nhỉ? (Nằm ở trên đầu con cá)... 
- Trong khi trẻ trả lời cô phải chú ý 

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_bien_phap_phat_trien_ngon_ngu_cho_tre_24_36_than.doc