SKKN Một số biện pháp nâng cao hiệu quả phần Đọc - Hiểu trong Đề thi THPT quốc gia môn Ngữ văn cho học sinh lớp 12 ở Trường THPT Triệu Sơn 5

SKKN Một số biện pháp nâng cao hiệu quả phần Đọc - Hiểu trong Đề thi THPT quốc gia môn Ngữ văn cho học sinh lớp 12 ở Trường THPT Triệu Sơn 5

 Đọc - hiểu là một trong hai phần bắt buộc ở Đề thi Tốt nghiệp Trung học phổ thông (THPT) môn Ngữ văn từ năm 2014, thay cho câu hỏi 2 điểm từ trước tới nay. Sự thay đổi trong cấu trúc đề thi nhằm hướng đến thực hiện mục tiêu đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục theo tinh thần Nghị quyết 29/NQ-TW, trong đó có đổi mới phương pháp kiểm tra, đánh giá học sinh (HS). Ngoài kĩ năng viết (Làm văn), đề thi còn chú trọng đánh giá kĩ năng Đọc - hiểu văn bản. Học sinh phải tự mình khám phá, tìm hiểu văn bản thay vì học thuộc, học tủ, học vẹt như trước đây. Vì thế, ngoài việc rèn luyện kĩ năng Làm văn, giáo viên (GV) còn phải hướng dẫn kĩ năng Đọc – hiểu văn bản cho HS.

 Nhìn vào cấu trúc đề thi có thể thấy, phần Đọc - hiểu chỉ chiếm 3/10 điểm (Phần Làm văn 7/10 điểm) nhưng lại có vai trò quan trọng trong việc quyết định tổng số điểm toàn bài, góp phần cải thiện rõ rệt điểm số môn Ngữ văn. Đây là phần duy nhất trong đề thi HS có thể đạt điểm tối đa bởi các em chỉ cần trả lời ngắn gọn, chính xác, không cần mở bài, thân bài, kết bài, không cần lí luận sâu sắc, văn phong mượt mà. Phần Đọc - hiểu được ví như “món quà tặng” dành riêng cho HS. Cũng chính vì vậy, mỗi GV cần phải tận dụng triệt để, phát huy tối đa hiệu quả phần thi này trong quá trình ôn tập cho HS.

 Nội dung của phần Đọc - hiểu chủ yếu là kiến thức Tiếng Việt: từ ngữ, ngữ pháp, phong cách ngôn ngữ, các biện pháp tu từ . đã học ở các cấp Tiểu học, Trung học cơ sở, Trung học phổ thông. Đây không phải là kiến thức mới, nhưng lại dàn trải, chưa được hệ thống hóa. HS không thể ghi nhớ, nắm vững nếu không được tái hiện, khái quát một cách bài bản, khoa học. Mặt khác, ngữ liệu được đưa vào đề thi là những văn bản mới, nằm ngoài Sách giáo khoa (SGK). HS sẽ khó khăn trong việc xác định và trả lời đúng vấn nếu không có sự định hướng, dẫn dắt của GV. Tâm trạng hoang mang, lo lắng là điều không thể tránh khỏi. Đây cũng là lí do thôi thúc người viết nghiên cứu đề tài này nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập nêu trên.

 

docx 21 trang thuychi01 8265
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số biện pháp nâng cao hiệu quả phần Đọc - Hiểu trong Đề thi THPT quốc gia môn Ngữ văn cho học sinh lớp 12 ở Trường THPT Triệu Sơn 5", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
 Đọc - hiểu là một trong hai phần bắt buộc ở Đề thi Tốt nghiệp Trung học phổ thông (THPT) môn Ngữ văn từ năm 2014, thay cho câu hỏi 2 điểm từ trước tới nay. Sự thay đổi trong cấu trúc đề thi nhằm hướng đến thực hiện mục tiêu đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục theo tinh thần Nghị quyết 29/NQ-TW, trong đó có đổi mới phương pháp kiểm tra, đánh giá học sinh (HS). Ngoài kĩ năng viết (Làm văn), đề thi còn chú trọng đánh giá kĩ năng Đọc - hiểu văn bản. Học sinh phải tự mình khám phá, tìm hiểu văn bản thay vì học thuộc, học tủ, học vẹt như trước đây. Vì thế, ngoài việc rèn luyện kĩ năng Làm văn, giáo viên (GV) còn phải hướng dẫn kĩ năng Đọc – hiểu văn bản cho HS.
 Nhìn vào cấu trúc đề thi có thể thấy, phần Đọc - hiểu chỉ chiếm 3/10 điểm (Phần Làm văn 7/10 điểm) nhưng lại có vai trò quan trọng trong việc quyết định tổng số điểm toàn bài, góp phần cải thiện rõ rệt điểm số môn Ngữ văn. Đây là phần duy nhất trong đề thi HS có thể đạt điểm tối đa bởi các em chỉ cần trả lời ngắn gọn, chính xác, không cần mở bài, thân bài, kết bài, không cần lí luận sâu sắc, văn phong mượt mà. Phần Đọc - hiểu được ví như “món quà tặng” dành riêng cho HS. Cũng chính vì vậy, mỗi GV cần phải tận dụng triệt để, phát huy tối đa hiệu quả phần thi này trong quá trình ôn tập cho HS. 
 Nội dung của phần Đọc - hiểu chủ yếu là kiến thức Tiếng Việt: từ ngữ, ngữ pháp, phong cách ngôn ngữ, các biện pháp tu từ. đã học ở các cấp Tiểu học, Trung học cơ sở, Trung học phổ thông. Đây không phải là kiến thức mới, nhưng lại dàn trải, chưa được hệ thống hóa. HS không thể ghi nhớ, nắm vững nếu không được tái hiện, khái quát một cách bài bản, khoa học. Mặt khác, ngữ liệu được đưa vào đề thi là những văn bản mới, nằm ngoài Sách giáo khoa (SGK). HS sẽ khó khăn trong việc xác định và trả lời đúng vấn nếu không có sự định hướng, dẫn dắt của GV. Tâm trạng hoang mang, lo lắng là điều không thể tránh khỏi. Đây cũng là lí do thôi thúc người viết nghiên cứu đề tài này nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập nêu trên.
 Ở Trường THPT Triệu Sơn 5, nơi tôi đang trực tiếp giảng dạy, phần Đọc - hiểu thực sự là một “cứu cánh”, tạo ra cơ hội “gỡ điểm” cho các em. Với chất lượng đầu vào tương đối thấp, HS khó có cơ hội để đạt điểm tối đa trong phần thi Làm văn (Nghị luận văn học và Nghị luận xã hội) nhưng lại có thể làm được điều đó ở phần Đọc - hiểu văn bản. 
Tuy nhiên, không phải HS nào cũng tận dụng được lợi thế này để đạt điểm tuyệt đối (3/3 điểm). Nhiều em tỏ ra lúng túng vì chưa nắm vững được hệ thống kiến thức, nhầm lẫn kiến thức, trả lời sai vấn đề hoặc chưa sát với đề. Cách trình bày vấn đề chưa rõ ràng, còn dài dòng, lan man, cẩu thả. Phần lớn, các em chỉ đạt ngưỡng điểm 1.5/3 điểm, rất ít em đạt 2/3 điểm. Là một GV đang trực tiếp ôn tập cho HS khối 12, tôi ý thức được trách nhiệm của mình, cần phải làm tích cực và hiệu quả hơn nữa. Đưa ra những biện pháp giúp HS, đặc biệt là HS lớp 12 làm tốt phần Đọc hiểu để “ẵm trọn” 3 điểm chưa bao giờ lại “nóng” như thời điểm này. Và với đối tượng là HS của trường THPT Triệu Sơn 5, thì việc ôn luyện và thực hành “chu đáo” phần thi này càng có ý nghĩa quan trọng và cấp thiết hơn.
Xuất phát từ những lí do trên, tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài: “Một số biện pháp nâng cao hiệu quả phần Đọc - hiểu trong Đề thi THPT quốc gia môn Ngữ văn cho học sinh lớp 12 ở Trường THPT Triệu Sơn 5”. Hi vọng với cách làm này, học sinh sẽ vững vàng hơn để bước vào kì thi THPT quốc gia, làm tốt phần Đọc -hiểu và nâng cao chất lượng bài thi môn Ngữ văn.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài “Một số biện pháp nâng cao hiệu quả phần Đọc - hiểu trong Đề thi THPT quốc gia môn Ngữ văn cho học sinh lớp 12 ở Trường THPT Triệu Sơn 5.” nhằm giúp HS nắm vững và phân biệt những miền kiến thức đọc – hiểu, vận dụng các kiến thức ấy để giải quyết các vấn đề thực tiễn, khắc sâu kĩ năng đọc – hiểu văn bản, kĩ năng làm bài, chinh phục điểm số tối đa của phần Đọc - hiểu, cải thiện điểm số bài thi môn Ngữ văn. Từ đó, khắc phục được tâm lí lo lắng, áp lực khi thi cử của HS.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
- Các kiến thức và bài tập Đọc – hiểu	
- HS đang học và ôn thi môn Ngữ văn ở cả ba khối lớp 10, 11, 12. Nhưng vì hướng tới kì thi THPT Quốc gia trước mắt nên người viết tập trung dành sự ưu tiên, quan tâm tới HS khối 12. 
Cụ thể như sau:
Năm học 2013-2014: 12C5, 12C6
Năm học 2014-2015: 12C3, 12C5
Năm học 2015-2016: 12B2, 12B6
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu lí thuyết
Phương pháp thực nghiệm (thông qua thực tế dạy học trên lớp, giao bài tập, củng cố bài học, hướng dẫn HS chuẩn bị bài, kết hợp với kiểm tra, đánh giá). 
Phương pháp khảo sát, phân tích
Phương pháp thống kê (đưa ra nhũng chỉ số cụ thể để đánh giá hiệu quả của đề tài).
2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận
Nghị quyết số 29/NQTW xác định: 
“Đổi mới hình thức, phương pháp thi, kiểm tra và đánh giá kết quả giáo dục theo hướng đánh giá năng lực của người học; kết hợp đánh giá cả quá trình và đánh giá cuối kì học, cuối năm học theo mô hình của các nước có nền giáo dục phát triển”. Từ sau Nghị quyết 29, Bộ Giáo dục và Đào tạo(GD&ĐT) đã ban hành nhiều chương trình hành động nhằm thúc đẩy quá trình đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục đào tạo để công cuộc đổi mới được diễn ra mạnh mẽ và quyết liệt hơn. Trong đó xác định, lấy đổi mới tư duy, đổi mới nhận thức là khâu khởi đầu và có ý nghĩa quyết định; đổi mới quản lí là giải pháp then chốt và đổi mới thi cử là khâu có ý nghĩa đột phá. 
Để thực hiện nhiệm vụ đổi mới giáo dục phổ thông, ngày 6/3/2014, Bộ GD&ĐT đã ban hành kế hoạch số 103/KH-BGDĐT về việc tổ chức hội thảo “Đổi mới kiểm tra, đánh giá chất lượng học tập môn Ngữ văn trong trường phổ thông”. Việc đổi mới phương thức kiểm tra đánh giá kết quả học tập môn Ngữ văn ở trường phổ thông được tiến hành theo định hướng phát triển năng lực người học với cách thức xây dựng đề thi, kiểm tra và đáp án theo hướng “mở”, tích hợp kiến thức liên môn, giải quyết vấn đề thực tiễn. 
Cũng trên tinh thần đó, ngày 01/4/2014, Bộ GD&ĐT gửi công văn số 1656/BGDĐT-KTKĐCLGD về việc Hướng dẫn tổ chức thi Tốt nghiệp THPT năm 2014, trong đó có nội dung: “Đề thi môn Ngữ văn có hai phần: Đọc - hiểu và Làm văn”, trong đó phần Làm văn chiếm số điểm nhiều hơn. Nội dung thi môn Ngữ văn không còn nặng về kiểm tra kiến thức lí thuyết mà chuyển dần theo hướng tập trung đánh giá hai kĩ năng quan trọng của người học là kĩ năng đọc hiểu văn bản và kĩ năng tạo lập văn bản. Theo đó, các câu hỏi yêu cầu HS sử dụng kiến thức, kĩ năng tổng hợp, vốn sống và hiểu biết xã hội để giải quyết vấn đề. HS không học thuộc lòng, ghi nhớ máy móc những nội dung đã đọc hiểu ở những văn bản có trong SGK mà cần tư duy, vận dụng kiến thức, kĩ năng đọc hiểu đã được hình thành, rèn luyện, phát triển vào việc đọc hiểu một hoặc một số văn bản không có trong SGK nhưng có cùng đặc điểm về thể loại, đề tài, chủ đề.
Năm 2014, phần Đọc – hiểu trong Đề thi Tốt nghiệp THPT chiếm 3/10 điểm. Đến năm học 2014 – 2015, Bộ GD&ĐT tổ chức Kì thi THPT quốc gia, còn gọi là kì thi “2 trong 1”, phần Đọc - hiểu vẫn tiếp tục được duy trì. Trong năm học 2015 – 2016 này và có lẽ những năm tiếp theo, Đọc - hiểu vẫn là phần quan trọng, bắt buộc trong cấu trúc đề thi môn Ngữ văn. Việc có mặt phần Đọc - hiểu văn bản trong những năm học qua xuất phát từ xu hướng đổi mới từ kiểm tra đánh giá sự ghi nhớ những kiến thức của HS (những kiến thức do GV đọc hộ, hiểu hộ, cảm hộ) chuyển sang kiểm tra đánh giá năng lực đọc – hiểu của HS (HS tự mình đọc, cảm thụ, tìm hiểu, khám phá văn bản).
GS.TS Trần Đình Sử cho rằng: “Nói một cách sơ lược thì đọc – hiểu văn bản là một hoạt động giải mã văn bản. Mọi sự đọc, dù động cơ như thế nào, đều không thoát li được việc tìm hiểu nghĩa của văn bản. Hiểu văn bản là hiểu được nội dung thông tin, đúc rút được ý nghĩa, bản chất của ý nghĩ, tình cảm, quan điểm của tác giả đặt ra trong văn bản; đồng thời bao hàm cả sự giải thích, phân tích, ứng dụng làm nền tảng cho sự hình thành tư tưởng, tình cảm, thế giới quan, thị hiếu thẩm mĩ của người đọc. Phần Đọc - hiểu luôn gắn với tính chất cảm thụ thẩm mĩ. Mỗi bài đưa vào đề thi đều đã được GV chọn lọc, nghiên cứu kĩ lưỡng. Nên mỗi khi HS được đọc – hiểu một ngữ liệu của đề thi thì tôi tin rằng ít nhiều đều có tác động, ảnh hưởng tới các em có thể về tri thức hay về tư tưởng, tình cảm. Từ đó, có thể nói phần Đọc - hiểu đã phần nào gián tiếp tác động tới thế giới tâm hồn, trí tuệ của HS. Đó cũng chính là một cách giáo dục.
Nằm trong guồng quay của sự đổi mới, yêu cầu đặt ra đối với người GV là cần nhanh chóng tiếp cận theo hướng cấu trúc đề mới, học hỏi, tìm tòi, đi trước HS một bước, làm tốt công tác “người kĩ sư tâm hồn”, định hướng, giúp HS yên tâm, tin tưởng, tránh tâm lí hoang mang và cuối cùng là tổ chức ôn thi có hiệu quả. Tôi tin rằng, mỗi GV đứng lớp trực tiếp giảng dạy môn Ngữ văn trong thời gian qua đã có những phương pháp ôn tập về kiến thức và kĩ năng của riêng mình giúp HS tự tin khi tiếp cận với đề ở phần Đọc - hiểu.
2.2. Thực trạng vấn đề
Ngay sau khi có hướng dẫn của Bộ GD&ĐT về việc thay đổi cấu trúc đề thi môn Ngữ văn (ngoài Làm văn, đề thi còn có thêm phần Đọc - hiểu), việc rèn luyện kĩ năng đọc hiểu văn bản cho HS đã trở thành vấn đề nổi cộm, thu hút sự quan tâm, chú ý của những người làm giáo dục, của các bậc phụ huynh và các em HS. 
Ngày 10/4/2014, “Hội thảo đổi mới kiểm tra đánh giá chất lượng học tập môn Ngữ văn ở trường Phổ thông” đã diễn ra tại Hà Nội. Những ý kiến, đề xuất của các chuyên viên, giáo viên đều xoay quanh vấn đề “Đọc - hiểu”, tập trung hướng đến việc hình thành kĩ năng Đọc - hiểu, kĩ năng tự giải quyết các vấn đề của HS. Chuyên gia Phạm Thị Thu Hiền, Vụ Giáo dục Trung học – Bộ GD&ĐT đã đưa ra dạng đề mẫu với ngữ liệu là bài “Mẹ và quả”. Tiếp đó, các đề thi, các vi deo hướng dẫn cách làm phần Đọc - hiểu ngập tràn trên các trang mạng. Các tài liệu ôn thi Tốt nghiệp THPT quốc gia theo cấu trúc mới của Bộ GD&ĐT cũng xuất hiện nhiều trên thị trường: “Cẩm nang luyện thi quốc gia biên soạn theo cấu trúc đề thi mới nhất của Bộ GD&ĐT” của thầy giáo Phan Danh Hiếu,“Hướng dẫn ôn tập kì thi THPT Quốc gia” do thầy Nguyễn Duy Kha chủ biên, Hay cuốn “Chinh Phục đề thi quốc gia THPT” của nhóm tác giả Lovebook (Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội)
Các tài liệu đã khái quát được hệ thống kiến thức đọc hiểu, cung cấp những dạng đề khác nhau để HS làm quen và thực hành, hướng dẫn những kĩ năng làm bài. Tuy nhiên, những kiến thức đưa ra chưa có nhiều ví dụ để HS hình dung, phân biệt. Những kĩ năng làm bài cũng đã được đề cập đến nhưng chưa thật bao quát, đầy đủ. Vấn đề đặt ra là cần giúp cho HS có khả năng tiếp cận và xử lí nhanh nhạy với từng dạng đề Đọc - hiểu. Qua quá trình thực hành nhiều lần, cần khái quát cách làm đối với từng dạng, nhóm câu hỏi để HS có những định hướng rõ ràng. Đặc biệt, GV cần đưa ra mức độ câu hỏi phù hợp với từng đối tượng HS để mang lại hiệu quả giáo dục cao nhất.
Trong việc dạy học ở bộ môn Ngữ văn hiện nay vẫn còn tồn tại một số vấn đề. Nhiều GV chỉ chú trọng dạy phần Làm văn và cho rằng các bài tập Đọc - hiểu được lấy ở ngoài SGK nên phạm vi ôn tập rộng không thể nào ôn “đúng” và “trúng”, tất cả phụ thuộc vào năng lực, sự thông minh của HS. Việc ôn luyện phần Đọc - hiểu cho HS còn mang tính “thời vụ”. Chỉ khi nào sắp thi, việc ôn tập mới diễn ra nhưng cũng chỉ mới dừng lại ở mức độ cung cấp kiến thức đọc - hiểu. Các bài tập thực hành cũng đã được đưa vào bài dạy nhưng các kĩ năng đọc - hiểu vẫn chưa được chú trọng. Do bị hạn chế bởi thời gian, HS không được thực hành nhiều lần nên kiến thức không được khắc sâu. Đối với nhiều HS, kĩ năng đọc hiểu đang ở mức độ “yếu” và “kém”. Cũng chính vì vậy mà nảy sinh nhiều vấn đề: HS hiểu sai nội dung ngữ liệu thậm chí xuyên tạc, đơm đặt vấn đề; đọc thoáng qua và trả lời theo cách đối phó, không đúng trọng tâm; ngay cả việc xác định yêu cầu của đề bài còn chưa đúng thì không thể nào trả lời chính xác. Đó là một thực tế mà mỗi GV dạy Văn phải suy ngẫm, cần nhìn lại phương pháp dạy học và ôn tập cho HS?
 Trường THPT Triệu Sơn 5 đóng trên địa bàn vùng nông thôn, điều kiện học tập của học sinh còn gặp nhiều khó khăn. Tài liệu ở thư viện còn ít ỏi nên chưa có đủ tư liệu để GV và HS tham khảo, tiếp cận với nhiều dạng đề đọc hiểu. Tinh thần học tập và sự quan tâm của HS dành cho môn Ngữ văn chưa cao, năng lực HS còn hạn chế nên việc ôn tập cho các em cần nhiều thời gian. Những kiến thức đọc - hiểu dù đã được GV tái hiện lại, các bài tập thực hành cũng đã được đưa ra nhưng nhiều HS vẫn tỏ ra khá “mù mờ”. Mỗi lần chấm bài, nhiều câu trả lời của học sinh khiến tôi giật mình: “biện pháp tu từ: chính khóa, phương thức biểu đạt: chứng minh. Khi ngữ liệu đưa ra là một đoạn trích trong văn bản “Viết cho mùa phượng cuối” của Lạc Hi, yêu cầu HS xác định phong cách ngôn ngữ. Nhiều HS đã trả lời: Phong cách ngôn ngữ: miêu tả. Hay khi được hỏi: Nêu nội dung chính của bài thơ “Nắng Ba Đình” (Nguyễn Phan Hách), HS đã vô tư trả lời: Bài thơ nói về cuộc khởi Ba Đình ở Thanh Hóa
Từ thực trạng trên, tôi nhận thấy tính bức thiết của vấn đề. Việc đưa ra những giải pháp phù hợp với đối tượng HS của mình nhằm nâng cao hiệu quả phần Đọc - hiểu trong bài thi môn Ngữ văn là thực sự cần thiết, có ý nghĩa vô cùng quan trọng.
2.3. Một số giải pháp
2.3.1. Khắc sâu kiến thức Đọc – hiểu qua bảng biểu và các ví dụ minh họa.
	Trước hết, tôi đã hướng dẫn HS nhận diện được dạng đề ở phần Đọc - hiểu thông thường có cấu trúc hai phần như sau:
Phần 1: Cho ngữ liệu. Ngữ liệu đã cho là văn bản (thơ hoặc văn xuôi, trong sách giáo khoa hoặc văn bản trích ở ngoài, một phần văn bản hoặc một văn bản hoàn chỉnh, văn bản văn học hoặc văn bản nhật dụng ...)
Phần 2: Các câu hỏi liên quan đến ngữ liệu. HS sử dụng các công cụ tiếng Việt để xử lí ngữ liệu bằng cách trả lời các câu hỏi được sắp xếp theo các mức độ từ thấp đến cao theo thang mức độ nhận biết, thông hiểu và vận dụng thấp
Cấu trúc hai phần trên sẽ có dạng như đề bài minh họa dưới đây:
Đọc đoạn thơ sau và trả lời câu hỏi từ Câu 1 đến Câu 4:
Mẹ ta không có yếm đào
nón mê thay nón quai thao đội đầu
 rối ren tay bí tay bầu
váy nhuộm bùn áo nhuộm nâu bốn mùa
 Cái cò ... sung chát đào chua ...
câu ca mẹ hát gió đưa về trời
 ta đi trọn kiếp con người
cũng không đi hết mấy lời mẹ ru
 (Trích “Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa” – Nguyễn Duy)
Câu 1. (0,25đ) Đoạn thơ được viết theo thể thơ nào?
Câu 2. (0,25đ) Hình ảnh người mẹ được gợi lên qua những chi tiết nào trong bốn dòng thơ đầu?
Câu 3. (0.5đ) Cho biết nghĩa của từ “đi” trong câu thơ “ta đi trọn kiếp con người / cũng không đi hết mấy lời mẹ ru”?
Câu 4. (0.5đ) Ở bốn dòng thơ sau những hình ảnh nào được tác giả sử dụng chất liệu của ca dao? Cho biết câu ca dao ấy?
Đọc đoạn văn sau và trả lời câu hỏi từ Câu 5 đến Câu8:
“Tôi muốn nhấn mạnh rằng, Việt Nam kiên quyết bảo vệ chủ quyền và lợi ích chính đáng của mình bởi vì chủ quyền biển đảo là thiêng liêng. Chúng tôi luôn mong muốn có hòa bình, hữu nghị nhưng phải trên cơ sở đảm bảo độc lập, tự chủ, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, vùng biển, và nhất định không chấp nhận đánh đổi điều thiêng liêng này để nhận lấy một thứ hòa bình hữu nghị viển vông, lệ thuôc nào đó.” (Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng)
Câu 5. (0.25đ) Phương thức biểu đạt chính của đoạn trích trên là gì?
Câu 6. (0.5đ) Những phép liên kết đã sử dụng trong đoạn trích trên? Giá trị của những phép liên kết đó?
Câu 7. (0.25đ) Tìm 5 từ thuộc trường từ vựng “quốc gia” trong lời phát biểu trên?
Câu 8. (0.5đ) Trong khoảng từ 7-10 dòng, trình bày suy nghĩ của anh/chị về lòng yêu nước của giới trẻ ngày nay cũng như sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với việc phát huy truyền thống tốt đẹp này.
Hệ thống câu hỏi đọc – hiểu thường liên quan tới các dạng kiến thức HS đã được học từ cấp Tiểu học, THCS và THPT. Với những kiến thức tiếng Việt cơ bản đã học qua, HS không thể ôn từng bài học và nếu HS không có ý thức để lưu giữ và nắm vững thì sẽ rất khó khăn trong việc trả lời các câu hỏi, thậm chí mơ hồ trong cách hiểu và trả lời. Do đó, cần phải trang bị cho học sinh một cách có hệ thống và bài bản những kiến thức trọng tâm cơ bản phục vụ cho việc đọc hiểu văn bản của học sinh.
Theo thống kê sưu tầm từ các dạng đề thi trong các kì thi trong những năm học qua, bản thân tôi nhận thấy câu hỏi Đọc - hiểu thường xoay quanh việc kiểm tra các dạng kiến thức trọng tâm sau:
Mức độ kiểm tra
 Các dạng câu hỏi
Kiểm tra kiến thức qua các câu hỏi ở mức độ nhận biết: 
- Yêu cầu nhận diện phương thức biểu đạt
- Yêu cầu nhận diện phong cách ngôn ngữ
- Yêu cầu nhận diện các hình thức ngôn ngữ
- Yêu cầu nhận diện các phương thức trần thuật
- Yêu cầu nhận diện các phép liên kết hình thức
- Yêu cầu nhận diện các kiểu câu
- Yêu cầu nhận diện các biện pháp nghệ thuật
- Yêu cầu nhận diện các thể thơ
Kiểm tra mức độ thông hiểu
- Cho biết tác dụng của phép tu từ
- Cho biết nghĩa của từ, nghĩa của câu
- Cho biết nội dung chính
- Đặt tên cho văn bản
Kiểm tra mức độ vận dụng thấp
- Từ chủ đề của văn bản, trình bày ý kiến bản thân liên quan đến chủ đề đó.
- Trích một phần văn bản và yêu cầu hoàn thiện nó.
- Yêu cầu đưa thêm những ý kiến riêng của bản thân ngoài quan điểm, chính kiến của tác giả văn bản.
- Giải thích, bình luận về một ý kiến, quan điểm trong văn bản.
	Từ những nhận thức trên, tôi đã tiến hành ôn tập, khắc sâu kiến thức Đọc -hiểu cho HS qua hai bước:
Bước 1: Tôi đã biên soạn hệ thống kiến thức Đọc - hiểu theo dạng bảng biểu với những kiến thức trọng tâm, cơ bản để trao tay HS như một công cụ hỗ trợ các em trong suốt quá trình ôn tập. Ưu điểm của việc cung cấp kiến thức dưới dạng bảng biểu là sự rõ ràng, trọng tâm, dễ tra cứu, dễ nhớ và dễ sử dụng. Nó như là một cuốn cẩm nang hay một loại “từ điển” nhỏ mà HS có thể mang theo bên mình rất tiện ích trong quá trình ôn tập. Hệ thống kiến thức đọc hiểu qua bảng biểu được tôi chuyển tới từng HS. Tôi yêu cầu HS về nhà học và nắm vững vấn đề.
Ví dụ: Đây là một nội dung kiến thức Đọc - hiểu được tôi trích ra từ hệ thống bảng biểu.
Các phương diện
đọc – hiểu
Nội dung kiến thức
PHONG CÁCH NGÔN NGỮ (PCNN)
PCNN
SINH HOẠT
- Là phong cách được dùng trong giao tiếp sinh hoạt hàng ngày, không mang tính nghi thức, nhằm mục đích trao đổi tâm tư, tình cảm của cá nhân với những người xung quanh
- Các dạng phổ biến: Chuyện trò, nhật kí, thư từ
- Các đặc trưng cơ bản:
+ Tính cụ thể
+ Tính cảm xúc
+ Tính cá thể
PCNN NGHỆ THUẬT
- Là phong cách được dùng trong các văn bản văn chương.
- Các dạng phổ biến: Tác phẩm văn học
- Các đặc trưng cơ bản: 
+ Tính hình tượng
+ Tính truyền cảm
+ Tính cá thể hóa
PCNN KHOA HỌC
- Là phong cách được dùng trong các lĩnh vực nghiên cứu, học tập và phổ biến khoa học – công nghệ.
- Các dạng phổ biến: VB khoa học chuyên sâu, VB khoa học giáo khoa, VB khoa học phổ cập
- Các đặc trưng cơ bản: 
+ Tính khái quát, trừu tường
+ Tính lí trí, lôgic
+ Tính khách quan, phi cá thể
PCNN CHÍNH LUẬN
- Là phong cách được dùng trong các lĩnh vực chính trị xã hội. Người giao tiếp thường bày tỏ chính kiến, bộc lộ công khai quan điểm chính trị, tư tưởng của mình đối với những vấn đề thời sự nóng hổi của xã hội.
- Các dạng phổ biến: Tuyên ngôn, lời kêu gọi, bài xã luận
- Các đặc trưng cơ bản: 
+ Tính công khai về quan điểm, chính trị
+ Tính chặt chẽ trong biểu đạt và suy luận
+ Tính truyền cảm, thuyết phục
PCNN
BÁO CHÍ
- Là phong cách được dùng trong các văn bản báo chí để cung cấp thông tin của xã hội về tất cả những vấn đề thời sự.
- Các dạng phổ biến: Bản tin, phóng sự, tiểu phẩm ....
- Các đặc trưng cơ bản: 
+ Tính thông tin, thời sự
+ Tính ngắn gọn
+ Tính sinh động, hấp dẫn
PCNN
HÀNH CHÍNH
- Là phong cách được dùng trong các lĩnh vực hành chính dùng để giao tiếp và điều hành xã hội.
- Các dạng phổ biến: VB quy phạm pháp luật, VB hội nghị, VB thủ tục hành chính ...
- Các đặc trưng cơ bản: 
+ Tính khuôn mẫu
+ Tính minh xác
+ Tính công vụ
Bước 2: Thời gian trên lớp, tôi yêu cầu HS tái hiện kiến thức đã được cung cấp ở bảng biểu để kiểm tra tính tự giác và mức độ nắm vững bài học của các em. Phần trọng tâm còn lại, tôi giúp HS 

Tài liệu đính kèm:

  • docxskkn_mot_so_bien_phap_nang_cao_hieu_qua_phan_doc_hieu_trong.docx