SKKN Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy tập làm văn tả người cho học sinh lớp 5

SKKN Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy tập làm văn tả người cho học sinh lớp 5

Tiếng Việt là môn học hết sức quan trọng, môn học nền tảng của bậc Tiểu học. Dạy Tiếng Việt ở Tiểu học vừa yêu cầu cung cấp lí thuyết vừa yêu cầu học sinh thực hành thuần thục cả trong bài học lẫn vận dụng thực tế. Mục đích chủ yếu của việc dạy học môn Tiếng Việt là: “ Trau dồi và phát triển ngôn ngữ, sử dụng thành thạo tiếng mẹ đẻ trong hoạt động giao tiếp hàng ngày, rèn luyện cho học sinh các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết văn hoá Tiếng Việt giúp học sinh phát triển nhân cách toàn diện.”

 Là một trong những phân môn chính trong chương trình Tiếng Việt của bậc Tiểu học, Tập làm văn góp phần quan trọng vào việc thực hiện mục tiêu chung của bậc học. Về tất cả các mặt: đức dục, trí dục và mỹ dục, Tập làm văn đều có khả năng trực tiếp hay gián tiếp phát huy tác dụng sư phạm của mình.

Phân môn Tập làm văn rèn luyện cho học sinh các kĩ năng sản sinh văn bản (nói và viết). Nhờ vậy tiếng Việt không chỉ là hệ thống cấu trúc được xem xét từng phần, từng mặt qua từng phân môn mà trở thành một công cụ sinh động trong quá trình giao tiếp, tư duy, học tập. Nói cách khác, phân môn Tập làm văn đã góp phần thực hiện hóa mục tiêu quan trọng bậc nhất của việc dạy và học tiếng Việt là dạy học sinh sử dụng tiếng Việt trong đời sống sinh hoạt, trong quá trình lĩnh hội các tri thức khoa học

 Tập làm văn là môn học không thể thiếu được đối với HS Tiểu học, Tập làm văn là công cụ, là chìa khoá, là phương tiện để học sinh tiếp nhận tri thức của loài người. Tập làm văn giúp các em hiểu được cái hay, cái đẹp, cái tinh tế của nghệ thuật ngôn từ. Học Tập làm văn các em đồng thời học được cách nói, cách viết một cách chính xác, trong sáng, có nghệ thuật, góp phần không nhỏ vào việc rèn luyện cách suy nghĩ, diễn đạt cho cả lớp người chủ tương lai của xã hội. Dạy Tập làm văn không chỉ phát triển ở các em vốn từ ngữ Tiếng Việt phong phú mà còn rèn kĩ năng đọc, cách diễn đạt. Từ đó các em sẽ học tốt tất cả các môn khác bởi đọc đúng mới viết đúng, hiểu đúng, mới làm đúng

 Đội ngũ giáo viên đó có nhiều cố gắng vận dụng cải tiến phương pháp dạy học, áp dụng những phương pháp dạy hiện đại để nâng cao chất lượng dạy học nói chung, chất lượng dạy Tập làm văn nói riêng. Song có nhiều khó khăn khách quan và chủ quan như: đặc biệt là vốn từ ngữ của học sinh còn rất nghèo nàn, chưa biết cách sử dụng từ ngữ trong khi làm bài, bài văn thiếu hình ảnh

 Bản thân tôi đã trực tiếpchỉ đạo và tham gia một số tiết dạy lớp 5 nên tôi hiểu rất rõ những hạn chế trong bài văn miêu tả của HS nói chung và trong bài văn tả người nói riêng.

 Vì những lí do nêu trên, cùng với ham muốn học hỏi, muốn có cơ hội để tích luỹ thêm kinh nghiệm cho bản thân, nên tôi chọn đề tài : “Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy tập làm văn tả người cho học sinh lớp 5”.

 

doc 18 trang thuychi01 7914
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy tập làm văn tả người cho học sinh lớp 5", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 1. MỞ ĐẦU.
 1.1 LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
 Tiếng Việt là môn học hết sức quan trọng, môn học nền tảng của bậc Tiểu học. Dạy Tiếng Việt ở Tiểu học vừa yêu cầu cung cấp lí thuyết vừa yêu cầu học sinh thực hành thuần thục cả trong bài học lẫn vận dụng thực tế. Mục đích chủ yếu của việc dạy học môn Tiếng Việt là: “ Trau dồi và phát triển ngôn ngữ, sử dụng thành thạo tiếng mẹ đẻ trong hoạt động giao tiếp hàng ngày, rèn luyện cho học sinh các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết văn hoá Tiếng Việt giúp học sinh phát triển nhân cách toàn diện.”
 Là một trong những phân môn chính trong chương trình Tiếng Việt của bậc Tiểu học, Tập làm văn góp phần quan trọng vào việc thực hiện mục tiêu chung của bậc học. Về tất cả các mặt: đức dục, trí dục và mỹ dục, Tập làm văn đều có khả năng trực tiếp hay gián tiếp phát huy tác dụng sư phạm của mình.
Phân môn Tập làm văn rèn luyện cho học sinh các kĩ năng sản sinh văn bản (nói và viết). Nhờ vậy tiếng Việt không chỉ là hệ thống cấu trúc được xem xét từng phần, từng mặt qua từng phân môn mà trở thành một công cụ sinh động trong quá trình giao tiếp, tư duy, học tập. Nói cách khác, phân môn Tập làm văn đã góp phần thực hiện hóa mục tiêu quan trọng bậc nhất của việc dạy và học tiếng Việt là dạy học sinh sử dụng tiếng Việt trong đời sống sinh hoạt, trong quá trình lĩnh hội các tri thức khoa học 
 Tập làm văn là môn học không thể thiếu được đối với HS Tiểu học, Tập làm văn là công cụ, là chìa khoá, là phương tiện để học sinh tiếp nhận tri thức của loài người. Tập làm văn giúp các em hiểu được cái hay, cái đẹp, cái tinh tế của nghệ thuật ngôn từ. Học Tập làm văn các em đồng thời học được cách nói, cách viết một cách chính xác, trong sáng, có nghệ thuật, góp phần không nhỏ vào việc rèn luyện cách suy nghĩ, diễn đạt cho cả lớp người chủ tương lai của xã hội. Dạy Tập làm văn không chỉ phát triển ở các em vốn từ ngữ Tiếng Việt phong phú mà còn rèn kĩ năng đọc, cách diễn đạt. Từ đó các em sẽ học tốt tất cả các môn khác bởi đọc đúng mới viết đúng, hiểu đúng, mới làm đúng
 Đội ngũ giáo viên đó có nhiều cố gắng vận dụng cải tiến phương pháp dạy học, áp dụng những phương pháp dạy hiện đại để nâng cao chất lượng dạy học nói chung, chất lượng dạy Tập làm văn nói riêng. Song có nhiều khó khăn khách quan và chủ quan như: đặc biệt là vốn từ ngữ của học sinh còn rất nghèo nàn, chưa biết cách sử dụng từ ngữ trong khi làm bài, bài văn thiếu hình ảnh
 Bản thân tôi đã trực tiếpchỉ đạo và tham gia một số tiết dạy lớp 5 nên tôi hiểu rất rõ những hạn chế trong bài văn miêu tả của HS nói chung và trong bài văn tả người nói riêng. 
 Vì những lí do nêu trên, cùng với ham muốn học hỏi, muốn có cơ hội để tích luỹ thêm kinh nghiệm cho bản thân, nên tôi chọn đề tài : “Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy tập làm văn tả người cho học sinh lớp 5”.
 1.2 MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
 Qua việc nghiên cứu phương pháp dạy học phân môn Tập làm văn nói chung. Nghiên cứu những hạn chế về kỹ năng viết văn tả người của học sinh lớp 5 nói riêng nhằm góp phần rèn cho học sinh có kĩ năng làm văn và viết những bài văn hay.
 1.3 ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
 - Học sinh lớp 5 - trường Tiểu học Đa Lộc.
 - Lĩnh vực nghiên cứu: Đổi mới phương pháp dạy Tập làm văn lớp 5.
 1.4 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
 - Phương pháp đọc tài liệu.
 - Phương pháp thực hành điều tra.
 - Phương pháp quan sát - hỏi đáp.
 - Phương pháp trải nghiệm, dự giờ( đột xuất,thao giảng, kiểm tra toàn diện, trao đổi rút kinh nghiệm...)
 - Phương pháp luyện tập thực hành.
2. NỘI DUNG 
2.1- CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
 Tập làm văn là một phân môn mang tính tổng hợp và sáng tạo cao. Tổng hợp các kiến thức, kĩ năng từ Tập đọc, Kể chuyện, Chính tả, Luyện từ và câu,... để viết nên một bài Tập làm văn. Theo quan điểm tích hợp, các phân môn được tập hợp lại xung quanh trục chủ điểm và các bài đọc. Nhiệm vụ cung cấp kiến thức và rèn luyện kĩ năng gắn bó chặt chẽ với nhau. Như vậy, muốn dạy - học có hiệu quả Tập làm văn lớp 5 nhất thiết người giáo viên phải dạy tốt Tập đọc, Kể chuyện, Chính tả, Luyện từ và câu. Qua tiết Tập làm văn nhằm giúp các em biết lập dàn ý chi tiết cho một văn bản nói ( viết ), biết viết chi tiết sáng tạo những đề đã học, biết tả cảnh, tả người, vật , có khả năng trao đổi, thảo luận những vấn đề hấp dẫn với lứa tuổi. Vậy quá trình lĩnh hội tri thức và hình thành kỹ năng, kỹ xảo nói chung, các đặc điểm tâm lí lứa tuổi của các em, tâm lí học sư phạm nói riêng là cơ sở cho phương pháp xác định nội dung và hình thức tổ chức dạy học nhằm đạt kết quả cao. Kết quả phân môn tập làm văn có thể nói là tấm gương phản chiếu để giáo viên kiểm chứng việc nắm kiến thức , vận dụng kiên thức của học sinh , việc cung cấp , hướng dẫn của giáo viên ở các môn học khác trong môn Tiếng Việt để từ đó có tác động và điều chỉnh phù hợp vơií từng nhòm và đối tượng người học theo mục tiêu đã đề ra. Muốn làm được điều đó giáo viên phải có hiểu biết sâu rộng về môn học nói riêng , chuyên môn nói chung . Cổ nhân có câu “ có bá nhạc mới biết thiên lí mã”, ngưới giáo viên muốn dẫn dát cho học sinh hiểu , yêu thích môn học thì trước hết phải say mê công việc , hiểu rõ bản chất , nắm chắc cấu trúc , vận dụng linh hoạt cá phương pháp dạy học đồng thời luôn cập nhật thông tin và đổi mới phương pháp , tránh nhàm chán cho học sinh trong từng môn học. 
 Dạy Tập làm văn lớp 5 phải đảm bảo mục tiêu yêu cầu cần đạt về kiến thức, kĩ năng của Chương trình giáo dục phổ thông cấp Tiểu học theo Chuẩn kiến thức, kĩ năng của từng môn học ( ban hành kèm theo quyết định số 16 của Bộ GD-ĐT ) và phù hợp trình độ của từng học sinh trong lớp mà “Hướng dẫn 896” của Bộ GD-ĐT đã đề ra. 
 Trong chương trình Tập làm văn lớp 5, văn tả người được dạy trong 12 tiết (Học kì I: 8 tiết, học kì II: 4 tiết ). Đây là loại văn bản được dạy nhiều thứ 2 sau văn bản tả cảnh tuy nhiên nếu chỉ dừng lại con số này, chúng ta dễ dàng nhận thấy thời lượng dành cho việc luyện tập thực hành văn bản này còn ít. Chính vì vậy trong quá trình dạy, giáo viên có cho học sinh ôn luyện một số bài tập phục vụ cho việc học tốt văn bản tả người vào buổi thứ hai hoặc vào giờ tự học. Tả người cũng là một bộ phận của văn miêu tả nên nó cũng mang đầy đủ ba đặc điểm:
 - Mang tính thông báo, tính thẩm mĩ, chứa đựng tình cảm của người viết.
 - Có tính sống động và tạo hình.
 - Ngôn ngữ miêu tả giàu cảm xúc và hình ảnh.
 Xuất phát từ thực tế trên bản thân tôi đã chọn đề tài này nhằm có thể ôn luyện thêm cho học sinh các bài tập vận dụng kiến thức ngôn ngữ; các bài tập vận dụng kiến thức về lí luận văn học; bồi dưỡng cho học sinh tâm hồn nhạy cảm, giàu cảm xúc; giúp học sinh tích lũy vốn hiểu biết về mọi mặt; kiên trì luyện tập các kĩ năng làm văn tả người góp phần nâng cao chất lượng môn Tiếng việt lớp5. Đồng thời tích lũy thêm kinh nghiệm trong chỉ đạo chuyên môn đối với lớp 5 nói riêng , môn Tiếng Việt của nhà trường nói chung 
2.2. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ TRƯỚC KHI ÁP DỤNG SÁNG KIẾN.
a.Thực trạng:
*.Về giáo viên:
 Trong dạy học, giáo viên thường có tâm lý “ ngại” dạy một tiết Tập làm văn, vì tiết Tập làm văn là văn bản nói và viết. Để thực hành một văn bản nói và viết cả giáo viên và học sinh đều khó đạt vì mức độ sử dụng ngôn ngữ Tiếng Việt chưa được chú trọng. Dạy Tập làm văn cho học sinh theo chương trình mới là phải dạy theo hướng tích cực, tăng một số thủ thuật để đòi hỏi học sinh tiếp nhận kiến thức. Bản thân GV phải có chất văn, phải có kiến thức Tiếng Việt chắc chắn, biết cách “ mở, dẫn dắt” HS trong học tập, biết cách tạo tình huống, xoay chuyển các tình huống HS đặt ra. Song thực tế việc tiếp cận đổi mới phương pháp dạy học của một số giáo viên vẫn còn là một thách thức lớn. Đa số các đồng chí GV dạy lớp 5 đều là GV trẻ, có nhiều đổi mới trong dạy học nhưng thực sự vẫn còn nhiều lúng túng khi dạy môn Tiếng Việt đặc biệt là phân môn Tập làm văn.
Nguyên nhân: 
 Ở một số giáo viên:
 - Phân môn Tập làm văn là một phân môn khó dạy nhất so với các phân môn khác của môn Tiếng Việt.
 - Chưa có sự đầu tư đúng mức cho việc nghiên cứu mục tiêu từng tiết dạy, từng bài dạy. 
 - Chưa có sự chuẩn bị chu đáo để hướng dẫn học sinh làm bài tập.
 - Chưa nghiên cứu kĩ chương trình Tập làm văn của lớp 5 ( nói chung ) và phần tả người ( nói riêng ).
 *Về học sinh:
 Qua tìm hiểu trong quá trình dạy học tại lớp và trao đổi, đàm thoại, phỏng
vấn, phiếu kiểm tra tất cả đều có chung những vấn đề sau:
 - Làm bài Tập làm văn đối với nhiều học sinh là phân môn khó vì vậy hầu hết các em rất ngại học nên làm bài rất lâu nên hết tiết làm bài mà vẫn chưa xong nên chưa đủ bố cục của bài văn. Hoặc một số em lại đếm dòng để kết bài do vậy bài làm còn rất sơ sài.
 - Đặc biệt không chịu khó đọc thêm sách, báo để mở rộng thêm vốn từ cho bản thân, ngại suy nghĩ, chưa dành nhiều thời gian để quan sát trước khi tả nên chưa tìm ra được những đặc điểm riêng biệt của cái định tả cũng như chưa tìm được ý, chưa huy động được vốn từ qua các phân môn Tập đọc, Luyện từ và câu, Kể chuyện nên không có những hình ảnh so sánh, nhân hoá làm cho bài văn khô khan, rời rạc, thiếu cảm xúc, không lôgíc, không có sự liên kết giữa các đoạn.
 - Học sinh chưa có thói quen quan sát, lập dàn ý, thậm chí còn không nháp trước khi viết bài vào vở nên nghĩ được câu gì viết câu ấy làm cho bài tả lộn xộn.
Ví dụ: Một học sinh làm đoạn văn tả mẹ như sau:
 Mẹ em có dáng người đậm. Mái tóc dài. Khuôn mặt tròn. Hàm răng trắng. Mẹ đi làm từ sáng đến tối mới về. Nước da mẹ không đen, không trắng. 
 - Học sinh còn làm bài một cách thụ động, chưa tự giác, tích cực, làm bài không theo trình tự của bài làm mà nghĩ được gì thì viết cái ấy. Bài văn còn mang tính liệt kê tất cả các bộ phận về hình dáng của người đang tả.
 - Cách sử dụng từ ngữ chưa chính xác, dùng từ đặt câu chưa phù hợp với văn cảnh, những hình ảnh so sánh, nhân hoá chưa đúng.
Ví dụ: Bà có nước da đen đủi, nhăn nheo. Khuôn mặt bà vuông vức. 
 Mẹ có dáng người không cao, không thấp như những người khác. Mẹ có mái tóc xoăn tít.
 - Cách viết câu văn chưa đúng, dùng dấu câu chưa đúng chỗ có những em cả bài văn dài chỉ có mấy câu, chưa có sự liên kết câu, liên kết đoạn văn.
Ví dụ: Hàng ngày mẹ em đi mằn từ sáng đến tối mịt mới viền. Hôm nào mẹ cũng biểu em ở nhà vâng lời ông bà. 
 - Bài làm thiếu cảm xúc của người viết do đó bài văn thường sáo rỗng hoặc rập khuôn.
 - Các em quá lệ thuộc vào sách vở đặc biệt là các bài văn mẫu, thậm chí một số em học thuộc lòng các bài văn mẫu rồi chép. Với cách học ấy các em không cần quan sát, không có cảm xúc với người mình đang tả. 
 - Miêu tả hời hợt, chung chung không có sắc thái riêng biệt nào của đổi tượng được tả. Vì thế bài làm ấy gắn cho đối tượng miêu tả nào cùng loại cũng được ví dụ khi tả về mẹ, cô giáo, cô ca sĩ phần tả về hình dáng các em viết giống nhau.
 Nguyên nhân: - Các em rất ngại học phân môn này nhất là các em nam.
 - Kĩ năng nói, kĩ năng diễn đạt ý bằng lời của các em còn chưa lưu loát. 
 - Một số em hay viết sai lỗi chính tả do tiếng địa phương hoặc nói ngọng nên làm cho người đọc thấy khó hiểu, thậm chí còn tạo nên những tình huống gây cười cho người đọc.
 - Điều kiện sống của các em có nhiều khó khăn bố mẹ thường xuyên đi làm ăn xa không có nhà nên không có điều kiện quan tâm đến các em. 
*. Về nhận thức của phụ huynh học sinh:
 Đa Lộc là một xã khó khăn, bố mẹ học sinh thường đi làm ăn xa quanh năm nên con cái gửi ông bà ở nhà, thậm chí có gia đình chỉ có mấy chị em ở nhà đi học. Việc học hành của con em tất cả đều “khoán” cho nhà trường. 
 Bố mẹ cũng chiều con quá mức theo ý thích nên khó cho việc hướng dẫn, dạy bảo thêm cho con cái học ở nhà.
 Qua nhiều năm phụ trách chuyên môn và dạy một số tiết thực nghiệm lớp 5, qua làm bài kiểm tra ở lớp 5 năm học 2017 – 2018 với đề bài: Em hãy tả một người mà em yêu thích. 
 b.Kết quả như sau: 
Lỗi học sinh thường sai
Lớp 5A
(31hs)
Chưa đủ bố cục của bài.
5 bài
Nội dung chưa đủ, chưa phong phú.
7 bài
 Sai về viết câu, cách dùng từ ngữ, sai lỗi chính tả.
8 bài
Câu văn chưa có hình ảnh và sử dụng các biện pháp nghệ thuật đã học.
6 bài
Bài văn thiếu cảm xúc của người viết.
4 bài
Bài làm tốt
1 bài
 2.3. CÁC GIẢI PHÁP ĐÃ SỬ DỤNG ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
 Phân môn Tập làm văn là phân môn có tính tổng hợp, đòi hỏi học sinh phải bộc lộ cả năng lực Tiếng Việt lẫn khả năng cảm thụ, thái độ, cảm xúc của mình. Vì thế đối với phân môn Tập làm văn yêu cầu phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo được đặt lên hàng đầu. Trong dạy bài văn tả người cũng vậy, chỉ khi chúng ta coi trọng óc sáng tạo, cá tính, suy nghĩ riêng của HS thì các em mới tạo ra những sản phẩm chân thực, thể hiện đúng nhận thức và tình cảm của mình. Để tạo điều kiện cho HS chủ động, sáng tạo, bộc lộ mình trong giờ Tập làm văn tả người GV cần phải đưa HS vào hoạt động. Các hoạt động này cần được tổ chức dưới nhiều hình thức khác nhau như: làm việc độc lập, làm việc theo nhóm, làm việc theo lớp. Đối với những bài thực hành theo yêu cầu của một đề bài cụ thể GV nên tổ chức cho HS làm việc độc lập. Trong trường hợp câu hỏi, bài tập tương đối trừu tượng hoặc đòi hỏi một sự khái quát nhất định thì GV nên tổ chức cho HS làm việc theo nhóm. Đặc biệt đối với những giờ văn yêu cầu HS trình bày miệng theo đề bài nhằm mục đích rèn luyện kĩ năng nói cho HS, để tất cả HS được nói, được hoạt động, thì chắc chắn làm việc theo nhóm là giải pháp tốt nhất. Hình thức làm việc chung theo đơn vị lớp được áp dụng chủ yếu trong các trường hợp GV thực hiện các khâu giới thiệu bài, nêu những câu hỏi không yêu cầu HS suy nghĩ lâu, hoặc để HS trình bày kết quả làm việc. Và điều quan trọng hơn cả là GV trên cơ sở nắm vững mục đích, yêu cầu của bài học, hình dung, tưởng tượng giờ học văn diễn ra như thế nào để phối hợp nhịp nhàng, linh hoạt, khéo léo, đúng lúc, đúng chỗ các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học, sao cho lôi cuốn được tất cả HS trong lớp tham gia học tập với thái độ hào hứng đạt được mục đích đặt ra. Có thể nhận thấy, trong sách giáo khoa Tiếng Việt hầu hết các phân môn đều có thể ứng dụng công nghệ thông tin trong việc thiết kế bài học bằng giáo án điện tử vào tổ chức dạy học. Bản thân đã sử dụng nhiều tiết của phân môn này như các tiết tả hình dáng, hoạt động của người để học sinh quan sát một cách thực tế, chân thực. Thông qua việc luyện tập các kĩ năng phân tích đề, xác định dàn ý cho bài văn, quan sát, tìm và sắp xếp ý thành dàn ý, diễn đạt thành văn bản học sinh biết cách tạo lập một văn bản theo từng công đoạn một cách chắc chắn. Trong đó tập trung rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn cho HS qua: đoạn mở bài ( theo 2 cách: trực tiếp và gián tiếp); các đoạn văn trong phần thân bài ( tả hình dáng, tả hoạt động); đoạn kết bài ( kết bài mở rộng và kết bài không mở rộng). Việc rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn sẽ giúp cho HS chủ động, tự tin khi tạo lập bài văn tả người hoàn chỉnh tránh được tình trạng viết văn sơ sài hoặc sao chép bài văn của người khác. Để giúp các em viết văn tả người tôi tiến hành các bước sau:
2.3.1. Hướng dẫn học sinh cách quan sát để lập dàn ý cho bài văn
 Đây là nội dung không thể thiếu được của mỗi bài văn hay. Muốn đạt được những yêu cầu trên trong giảng dạy giáo viên cần hướng dẫn học sinh trải qua khâu thứ nhất của một bài văn là quan sát tìm ý lập dàn bài chi tiết. Mỗi bài văn của học sinh phải đủ bố cục: Mở bài, thân bài, kết bài đủ ý, đúng yêu cầu và diễn đạt phong phú. Điều đầu tiên tôi yêu cầu HS phải làm là tìm hiểu đề bài.      
 a) Đọc kĩ yêu cầu của đề bài.
 Đây là bước rất quan trọng đối với giáo viên và học sinh.
 - Học sinh đọc kĩ đề bài.
 - Phân tích đề bài bằng cách đặt câu hỏi ( Bài văn thuộc thể loại gì? Nội dung bài văn là gì? Trọng tâm ? Muốn làm bài tốt cần quan sát những gì?)
 b) Hướng dẫn học sinh quan sát và chọn lọc chi tiết
 Ngay từ những tiết đầu tiên học về văn tả người trong các tiết Quan sát và chọn lọc chi tiết tôi đã hướng dẫn học sinh tìm hiểu những đoạn văn mẫu rất hay về tả hình dáng, hoạt động của một người cụ thể để tìm những từ ngữ mà tác giả dùng trong đoạn văn. Trong những tiết này tôi thường dạy bằng giáo án điện tử để cho HS quan sát kĩ được nhân vật mà đoạn văn thể hiện từ đó cảm nhận được các từ ngữ được sử dụng về tả các đặc điểm cụ thể của người. 
 * Quan sát bằng nhiều giác quan
 - Quan sát bằng mắt: nhận ra những đặc điểm riêng biệt về ngoại hình, hoạt động, tính cách.
 - Quan sát bằng tai: nhận ra âm thanh của giọng nói.
 Nhờ cách quan sát này mà các em ghi nhận được nhiều ý thì bài văn đa dạng, phong phú.
 * Quan sát tỉ mỉ nhiều lượt:
 Muốn tìm ý cho bài văn, học sinh phải quan sát kĩ, quan sát nhiều lần khi làm bài ở lớp các em phải hình dung lại những đặc điểm về hình dáng bên ngoài của người định tả ( nếu là bài tả người thân; tả người mà em từng quen biết; tả một ca sĩ; nghệ sĩ hài mà em yêu thích ). Tránh quan sát qua loa như ta nhìn lướt qua hay liếc nhìn thì sẽ không tìm ra ý hay cho bài văn.
 Phải tìm được những nét tiêu biểu của người mình định tả. Không cần dàn đủ tất cả các đặc điểm về hình dáng bên ngoài mà phải chọn lọc những nét tiêu biểu về ngoại hình, tính tình và hoạt động mà mình cảm nhận sâu sắc nhất, tránh liệt kê đầy đủ nhưng nặng về kể lể, khô khan.
 * Để làm được bài văn đúng yêu cầu của đề bài, quá trình quan sát không thể dàn đều mà phải tìm ra những đặc điểm riêng của người định tả làm cho người đọc hình dung được hình dáng bên ngoài của người mình đang được nói đến, có như vậy bài văn mới tránh dàn trải, nhạt nhẽo, lan man, xa đề.
 * Tạo ra hứng thú cảm xúc
 Quan sát trong văn học cần giúp cho HS có hứng thú say mê, từ đó bộc lộ được cảm xúc của bản thân đối với người được tả. Có hứng thú, cảm xúc học sinh mới dễ dàng tìm từ, chọn ý giúp cho hình ảnh con người sinh động và hấp dẫn.
 Để giúp các em quan sát đúng trọng tâm, tìm được những chi tiết về hình dáng, hoạt động cụ thể thì các câu hỏi gợi ý hướng dẫn của GV rất quan trọng.
 VD ( tả một người mà em thường gặp): 
 - Người em định tả là ai? Em thường gặp người đó ở đâu?
 - Hình dáng người đó cao hay thấp, gầy hay béo? Cách ăn mặc của người đó như thế nào? Về ngoại hình có nét gì đặc biệt để người khác phải chú ý (mắt, miệng, răng, tóc ) 
 - Người đó làm nghề gì? Người đó thường làm những công việc gì và khi làm 
việc em quan sát thấy sự yêu công việc và hiệu quả công việc ra sao?
 - Có nhận xét gì qua những việc làm của người mình đang tả đó?....
 Bên cạnh việc chuẩn bị, dự kiến các câu hỏi hướng dẫn học sinh cách quan sát thì khâu chuẩn bị đồ dùng dạy học tranh ảnh sẵn có (như ảnh chụp của gia đình) hoặc hình ảnh bằng giáo án điện tử không thể thiếu trong tiết hướng dẫn học sinh quan sát mà còn gây hứng thú quan sát cho các em. Ngoài những hình ảnh trong sách giáo khoa tôi còn sưu tầm thêm nhiều từ ngữ miêu tả về hình dáng của nhiều người thuộc các lứa tuổi khác nhau như: ông, bà; bố, mẹ; bạn cùng lứa tuổi; các em nhỏ đang tập đi để các em so sánh sự khác biệt về hình dáng của một người cụ thể theo lứa tuổi. 
 ông, bà
Bố, mẹ, ..
Bạn cùng tuổi
Em nhỏ
Từ ngữ miêu tả dáng 
người
lưng đã còng
(hơi còng), dong dỏng,
- bố, thầy giáo: người đậm, tầm thước, hơi gầy
-mẹ, cô: thon thả, dong dỏng, ..
Nhỏ nhắn, thanh mảnh, nho nhỏ,..
Lũn chũn, mập mạp,...
 Từ ngữ miêu tả mái tóc
điểm bạc, bạc phơ, trắng như cước, điểm hoa râm,
- mẹ, cô: đen, dày, óng mượt,..
đen, mượt, đen nhánh, óng ả, cắt ngắn gọn gàng,...
Lơ thơ, thưa, đen óng, vàng hoe,
Từ ngữ miêu tả làn da
nhăn nheo, điểm đồi mồi,
Da trắng ngần, sạm đen, da bánh mật, rám nắng,  
Bánh mật, ngăm ngăm, trắng hồng, 
Trắng hồng, nõn nà, trắng như trứng gà bóc, 
Từ ngữ miêu tả khuôn mặt
Khuôn mặt phúc hậu, hiền từ,
- mẹ, cô: thanh tú, trái xoan
- bố, thầy giáo: vuông chữ điền, vuông vức,
Thanh tú, bầu bĩnh, .
Bánh đúc, đầy đặn,.
Từ ngữ miêu tả
mắt 
Trầm tư, mờ đục, trầm lặng,
Hiền hậu, mắt sắc như dao cau, dịu dàng,..
Linh lợi, lanh lợi, sáng long lanh, mơ màng...
đen láy, bồ câu, một mí, 
 Cuối cùng giáo viên và học sinh chốt lại bảng so sánh để các em phân biệt được một số đặc điểm khác nhau về hình dáng một người ở các độ tuổi khác nhau để dùng từ ngữ miêu tả chính xác.
c) Hướng dẫn các em lập dàn ý:
 Sau khi hướng dẫn 

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_bien_phap_nang_cao_hieu_qua_day_tap_lam_van_ta_n.doc
  • docBia SKKN.doc
  • docMục lục.doc