SKKN Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 5 phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa để học tốt phân môn luyện từ và câu

SKKN Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 5 phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa để học tốt phân môn luyện từ và câu

Mục tiêu của giáo dục Tiểu học là: “Nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học Trung học cơ sở.”[1]. Giáo dục Tiểu học tạo tiền đề cơ bản để nâng cao dân trí, là cơ sở ban đầu hết sức quan trọng để đào tạo thế hệ trẻ trở thành người công dân tốt trong giai đoạn mới. Một trong những nguyên tắc cơ bản của dạy tiếng Việt là dạy học thông qua giao tiếp. Các hoạt động giao tiếp, đặc biệt giao tiếp bằng ngôn ngữ là công cụ cực mạnh để học sinh tiếp cận, rèn luyện và phát triển khả năng sử dụng từ tiếng Việt. Do đó, việc đưa học sinh vào các hoạt động học tập trong giờ tiếng Việt được giáo viên đặc biệt quan tâm, chú ý. Ngôn ngữ tiếng Việt của chúng ta thực sự có nhiều khía cạnh khó, một trong những nội dung khó đó là phần nghĩa của từ.

Ở Tiểu học, Luyện từ và câu là phân môn có vị trí rất quan trọng trong việc sản sinh lời nói và tạo câu. Các em muốn nói đúng, viết đúng thì phải nắm vững kiến thức về từ ngữ và ngữ pháp tiếng Việt. Người ta thường nói “Phong ba bão táp không bằng ngữ pháp Việt Nam”. Quả đúng như vậy. Nhờ có điều đó mà tiếng mẹ đẻ của chúng ta trở nên phong phú và uyển chuyển vô cùng. Trong đó, từ là đơn vị trung tâm của ngôn ngữ, vai trò của từ trong hệ thống ngôn ngữ quy định tầm quan trọng của việc dạy từ ngữ ở Tiểu học. Nếu như không có vốn từ đầy đủ thì không thể sử dụng ngôn ngữ như một công cụ giao tiếp được. Vì vậy, giúp học sinh Tiểu học nắm vững lí thuyết cũng như kĩ năng nắm nghĩa, sử dụng từ là rất quan trọng. Trong chương trình môn Tiếng Việt lớp 5, nội dung nghĩa của từ được tập trung biên soạn có hệ thống trong phần Luyện từ và câu. Vấn đề từ đồng âm và từ nhiều nghĩa được bắt đầu đưa vào chương trình Tiểu học ở lớp 5 với 4 tiết (tuần 5 một tiết, tuần 7 hai tiết, tuần 8 một tiết). Từ đồng âm và từ nhiều nghĩa là một vấn đề khá phức tạp, dễ nhầm lẫn. Nhiều năm liền, trong quá trình dạy học, tôi thường nhận thấy các em học sinh dễ dàng tìm được các từ trái nghĩa, việc tìm các từ đồng nghĩa cũng không mấy khó khăn, tuy nhiên khi học xong từ đồng âm và từ nhiều nghĩa thì các em bắt đầu có sự nhầm lẫn. Khả năng phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa cũng không được như mong đợi của cô giáo, kể cả học sinh khá, giỏi đôi khi cũng còn thiếu chính xác.Vậy làm thế nào để thực hiện tốt mục tiêu của môn học? Điều này đòi hỏi người thầy phải biết vận dụng linh hoạt, sáng tạo các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học phù hợp với khả năng sử dụng ngôn ngữ và tâm lí lứa tuổi học sinh để giờ học diễn ra nhẹ nhàng mà hiệu quả. Mặt khác, trong đơn vị cũng chưa có giáo viên nào nghiên cứu để viết ra kinh nghiệm ở nội dung này. Qua nhiều năm dạy lớp 5, tôi đã rút ra một số kinh nghiệm nhỏ về cách hướng dẫn học sinh phân biệt từ đồng âm với từ nhiều nghĩa. Vì thế, tôi đã chọn sáng kiến kinh nghiệm: ‘Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 5 phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa để học tốt phân môn Luyện từ và câu”

 

doc 24 trang thuychi01 28082
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 5 phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa để học tốt phân môn luyện từ và câu", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
PHÒNG GD&ĐT HẬU LỘC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ KINH NGHIỆM GIÚP HỌC SINH LỚP 5 PHÂN BIỆT TỪ ĐỒNG ÂM VÀ TỪ NHIỀU NGHĨA ĐỂ HỌC TỐT PHÂN MÔN LUYỆN TỪ VÀ CÂU
 Người thực hiện: Phạm Thị Na
 Chức vụ: Giáo viên
 Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Hoa Lộc
 SKKN thuộc môn: Tiếng Việt
THANH HÓA, NĂM 2018
MỤC LỤC
STT
NỘI DUNG
TRANG
1
Mở đầu
1
1.1
Lí do chọn đề tài
1
1.2
Mục đích nghiên cứu
2
1.3
Đối tượng nghiên cứu
2
1.4
Phương pháp nghiên cứu
2
2
Nội dung của sáng kiến kinh nghiệm
3
2.1
Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
3
2.2
Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm 
4
2.3
Các giải pháp đã sử dụng để giúp học sinh phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa.
6
2.4
Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
18
3
Kết luận và kiến nghị
19
3.1
Kết luận
19
3.2
Kiến nghị
19
1.MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài:
 Mục tiêu của giáo dục Tiểu học là: “Nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học Trung học cơ sở.”[1]. Giáo dục Tiểu học tạo tiền đề cơ bản để nâng cao dân trí, là cơ sở ban đầu hết sức quan trọng để đào tạo thế hệ trẻ trở thành người công dân tốt trong giai đoạn mới. Một trong những nguyên tắc cơ bản của dạy tiếng Việt là dạy học thông qua giao tiếp. Các hoạt động giao tiếp, đặc biệt giao tiếp bằng ngôn ngữ là công cụ cực mạnh để học sinh tiếp cận, rèn luyện và phát triển khả năng sử dụng từ tiếng Việt. Do đó, việc đưa học sinh vào các hoạt động học tập trong giờ tiếng Việt được giáo viên đặc biệt quan tâm, chú ý. Ngôn ngữ tiếng Việt của chúng ta thực sự có nhiều khía cạnh khó, một trong những nội dung khó đó là phần nghĩa của từ.
Ở Tiểu học, Luyện từ và câu là phân môn có vị trí rất quan trọng trong việc sản sinh lời nói và tạo câu. Các em muốn nói đúng, viết đúng thì phải nắm vững kiến thức về từ ngữ và ngữ pháp tiếng Việt. Người ta thường nói “Phong ba bão táp không bằng ngữ pháp Việt Nam”. Quả đúng như vậy. Nhờ có điều đó mà tiếng mẹ đẻ của chúng ta trở nên phong phú và uyển chuyển vô cùng. Trong đó, từ là đơn vị trung tâm của ngôn ngữ, vai trò của từ trong hệ thống ngôn ngữ quy định tầm quan trọng của việc dạy từ ngữ ở Tiểu học. Nếu như không có vốn từ đầy đủ thì không thể sử dụng ngôn ngữ như một công cụ giao tiếp được. Vì vậy, giúp học sinh Tiểu học nắm vững lí thuyết cũng như kĩ năng nắm nghĩa, sử dụng từ là rất quan trọng. Trong chương trình môn Tiếng Việt lớp 5, nội dung nghĩa của từ được tập trung biên soạn có hệ thống trong phần Luyện từ và câu. Vấn đề từ đồng âm và từ nhiều nghĩa được bắt đầu đưa vào chương trình Tiểu học ở lớp 5 với 4 tiết (tuần 5 một tiết, tuần 7 hai tiết, tuần 8 một tiết). Từ đồng âm và từ nhiều nghĩa là một vấn đề khá phức tạp, dễ nhầm lẫn. Nhiều năm liền, trong quá trình dạy học, tôi thường nhận thấy các em học sinh dễ dàng tìm được các từ trái nghĩa, việc tìm các từ đồng nghĩa cũng không mấy khó khăn, tuy nhiên khi học xong từ đồng âm và từ nhiều nghĩa thì các em bắt đầu có sự nhầm lẫn. Khả năng phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa cũng không được như mong đợi của cô giáo, kể cả học sinh khá, giỏi đôi khi cũng còn thiếu chính xác.Vậy làm thế nào để thực hiện tốt mục tiêu của môn học? Điều này đòi hỏi người thầy phải biết vận dụng linh hoạt, sáng tạo các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học phù hợp với khả năng sử dụng ngôn ngữ và tâm lí lứa tuổi học sinh để giờ học diễn ra nhẹ nhàng mà hiệu quả. Mặt khác, trong đơn vị cũng chưa có giáo viên nào nghiên cứu để viết ra kinh nghiệm ở nội dung này. Qua nhiều năm dạy lớp 5, tôi đã rút ra một số kinh nghiệm nhỏ về cách hướng dẫn học sinh phân biệt từ đồng âm với từ nhiều nghĩa. Vì thế, tôi đã chọn sáng kiến kinh nghiệm: ‘Một số kinh nghiệm giúp học sinh lớp 5 phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa để học tốt phân môn Luyện từ và câu” 
1.2. Mục đích nghiên cứu: 
- Để giúp chúng ta thấy rõ vị trí quan trọng của việc dạy phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa.
- Để giúp học sinh tiếp thu bài giảng moät cách nhẹ nhàng nhưng khắc sâu kiến thức, trên cơ sở đó nâng cao được chất lượng học môn Tiếng Việt cho học sinh.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
- Nghiên cứu nội dung bài học về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa. Tìm ra biện pháp giúp học sinh lớp 5 luyện tập phân biệt, sử dụng về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa tại Trường Tiểu học Hoa Lộc .
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
1. Nghiên cứu tài liệu: Đọc phân tích các tài liệu dạy học liên quan đến từ đồng âm và từ nhiều nghĩa như: SGK, SGV Tiếng Việt 5, một số tài liệu tham khảo liên quan để đưa ra một số giải pháp giúp học sinh phân biệt, sử dụng đúng từ đồng âm và từ nhiều nghĩa.
2. Phương pháp điều tra thực tế:
- Trao đổi với đồng nghiệp trong khối 5.
- Dự giờ đánh giá.
- Khảo sát chất lượng học sinh bằng phiếu học tập.
3. Dạy thực nghiệm:
- Dạy bài khái niệm về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa.
- Luyện tập phân biệt, sử dụng từ đồng âm và từ nhiều nghĩa.
- Thống kê phân loại kết quả sau thực nghiệm.
2- NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
 Trong quá trình phát triển của trẻ, giao tiếp là một điều không thể thiếu. Trẻ giao tiếp với cha mẹ, với thầy cô, với bạn bè. Trẻ thể hiện những suy nghĩ, kiến thức của mình thông qua việc nói hoặc viết. Chính vì vậy, việc nhận biết và sử dụng đúng từ ngữ là hết sức quan trọng. Điều này không chỉ giúp các em thể hiện đúng, đầy đủ và hay ý tưởng của mình mà còn làm cho người đọc, người nghe hiểu được điều các em muốn thông báo. Ngoài ra nó còn giúp cho suy nghĩ của trẻ ngày càng sâu sắc và có hệ thống. Như ta đã biết từ là yếu tố quan trọng để tạo câu, câu là một yếu tố quan trọng góp phần hình thành kiến thức và thể hiện kiến thức một cách có hệ thống cho học sinh. Nên việc giúp học sinh nhận biết và sử dụng đúng từ là một vấn đề hết sức quan trọng.
 Theo Mai Ngọc Chừ; Vũ Đức Nghiệu và Hoàng Trọng Phiến (Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt. NXB Giáo dục 1997): Từ đồng âm là những từ trùng nhau về hình thức ngữ âm nhưng khác hẳn nhau về nghĩa. Ví dụ: đường1 (đường tàu Thống Nhất); đường2 (mua một cân đường); sao1 (ông sao trên trời); sao2 (sao anh lại làm như thế); sao3 (đi sao giấy khai sinh); sao4 (sao thuốc nam)[2]
 Hiện tượng đồng âm nói chung thường xuất hiện ở những đơn vị có kích thước vật chất không lớn, tức là có thành phần phần ngữ âm không phức tạp. Vì vậy, thường chỉ có đồng âm giữa từ với từ là chủ yếu. Còn đồng âm giữa từ với cụm từ hoặc cụm từ với cụm từ thì rất hiếm hoi. Mỗi hiện tượng đồng âm ở những cụm từ như vậy chỉ lập thành được từng cặp mà thôi. Trong khi đó các từ trong một nhóm từ đồng âm có thể là hai, ba hoặc dăm bảy từ. Thậm chí nhiều hơn nữa. Hiện tượng từ đồng âm có mặt trong ngôn ngữ là một tất yếu vì số lượng âm thanh mà con người phát ra được và dùng làm vỏ ngữ âm cho các từ, dù có nhiều đến mấy cũng chỉ có giới hạn của nó.
 Cũng theo các nhà nghiên cứu tiếng Việt: Từ nhiều nghĩa (từ đa nghĩa) là những từ có một số nghĩa biểu thị những đặc điểm, thuộc tính khác nhau của một đối tượng, hoặc biểu thị những đối tượng khác nhau của thực tại. Hiện tượng từ đa nghĩa được quan sát thấy ở hầu hết các ngôn ngữ trên thế giới. Ví dụ như từ đi trong tiếng Việt là một từ đa nghĩa, nó vừa có nghĩa chỉ dịch chuyển bằng hai chi dưới (Tôi đi rất nhanh nhưng vẫn không đuổi kịp anh ấy.) vừa có nghĩa chỉ một người nào đó đã chết (Anh ấy ra đi mà không kịp nói lời trăng trối.). 
 Có thể định nghĩa về từ đa nghĩa như sau: Từ đa nghĩa là những từ có một số nghĩa biểu thị những đặc điểm, thuộc tính khác nhau của một đối tượng, hoặc biểu thị những đối tượng khác nhau của thực tại.
 Ví dụ: Động từ che trong tiếng Việt có hai nghĩa. Động từ ăn có 6 nghĩa... (Từ điển Tiếng Việt 2005- Nguyễn Văn Xô- Nhà xuất bản Thanh niên)[3]. Chúng là các từ đa nghĩa. Với tư cách là đơn vị định danh, từ đa nghĩa cho ta thấy rằng: Từ có thể di chuyển từ chỗ gọi tên cho đối tượng này sang gọi tên cho đối tượng khác, từ chỗ có nghĩa này, có thể có thêm nghĩa khác:
Từ → 
→ Đối tượng 1 
→ Đối tượng 2 
   (...) 
→ Đối tượng n 
— 
— 
— 
Nghĩa 1 
Nghĩa 2 
Nghĩa n 
 Sự "di chuyển" đó có nguyên nhân ở nhận thức của người bản ngữ và tính chất tiết kiệm trong ngôn ngữ. Hai nhân tố này tác động và ảnh hưởng lẫn nhau đã dẫn đến việc tạo lập từ đa nghĩa của từ vựng.
 Các nghĩa của từ đa nghĩa được xây dựng và tổ chức theo những cách thức, trật tự nhất định. Vì vậy, người ta cũng có thể phân loại chúng. Có nhiều cách phân loại, nhưng thường gặp nhất là: Nghĩa gốc – Nghĩa chuyển (nghĩa phát sinh). Nghĩa gốc được hiểu là nghĩa đầu tiên hoặc nghĩa có trước, trên cơ sở nghĩa đó mà người ta xây dựng nên nghĩa khác. 
 Ví dụ :Với từ chân : (1) Bộ phận thân thể của người (động vật) ở phía dưới cùng, để đỡ thân thể đứng yên hoặc vận động rời chỗ; (2) Cương vị, phận sự của một người với tư cách là thành viên của một tổ chức (có chân trong ban quản trị), 
 Nghĩa (1) của từ chân ở đây là nghĩa gốc. Từ nghĩa (1) người ta xây dựng nên các nghĩa khác của từ này bằng những con đường, cách thức khác nhau. Nghĩa gốc thường là nghĩa không giải thích được lí do, và có thể được nhận ra một cách độc lập không cần thông qua nghĩa khác. Nghĩa phát sinh là nghĩa được hình thành dựa trên cơ sở nghĩa gốc, và vì vậy chúng thường là nghĩa có lí do, và được nhận ra qua nghĩa gốc của từ. Nghĩa (2) của từ chân vừa nêu là một ví dụ về nghĩa phát sinh. 
2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
a- Thuận lợi: 
- Nhà trường luôn tạo điều kiện cho việc tiếp thu các đợt tập huấn, chuyên đề. Đội ngũ giáo viên trong tổ có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, có tâm huyết với nghề. 
- Học sinh có đầy đủ sách giáo khoa, vở bài tập; giáo viên có tài liệu để nghiên cứu, tham khảo như các tập san, sách bồi dưỡng,
- Phần lớn học sinh ngoan, chăm học, được phụ huynh quan tâm.
- Nhà trường đủ cơ sở vật chất cho học 2 buổi trên ngày, nên các em có điều kiện được thầy cô củng cố, khắc sâu và mở rộng kiến thức.
b- Khó khăn:
* Về phía học sinh: 
 Hầu hết các học sinh lớp 5 khi học tiết Luyện từ và câu về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa đều gặp rất nhiều khó khăn. Cụ thể:
- Khó khăn về việc giải nghĩa từ. Các em thường hiểu sai nghĩa của từ hoặc hiểu chưa đầy đủ.
- Việc phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa còn mơ hồ, lúng túng.
- Việc phân biệt nghĩa chuyển và nghĩa gốc của từ nhiều nghĩa ở một số em còn chưa chính xác.
- Việc đặt câu có sử dụng từ đồng âm, từ nhiều nghĩa (với các nghĩa cho trước) nhiều khi chưa chính xác, chưa hay, chưa đúng với nét nghĩa yêu cầu.
* Về nội dung chương trình: 
+ Từ đồng âm: Các em được học một tiết về từ đồng âm ở tuần 5. Trong tiết này, các em được học khái niệm về từ đồng âm, các bài tập chủ yếu giúp học sinh phân biệt về nghĩa của từ đồng âm, đặt câu với từ đồng âm. Tiết dùng từ đồng âm để chơi chữ đã được giảm tải. Như vậy về thời lượng còn quá ít, chưa có tiết luyện tập.
+ Từ nhiều nghĩa: Từ nhiều nghĩa được dạy trong 2 tiết ở tuần 7 và một tiết ở tuần 8. Học sinh được học về khái niệm từ nhiều nghĩa. Các bài tập chủ yếu là phân biệt từ mang nghĩa gốc, nghĩa chuyển, đặt câu để phân biệt nghĩa, nêu các nghĩa khác nhau của một từ. Thời lượng còn rất ít so với nội dung kiến thức khó này.
* Về phía giáo viên :
 Trong quá trình dạy các tiết học này, phần lớn giáo viên đã làm tốt vai trò tổ chức hướng dẫn học sinh tiếp thu kiến thức, song do thời lượng quá ít nên không có thời gian giúp học sinh phân biệt về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa. Khả năng lấy thêm ví dụ ngoài sách giáo khoa ở nội dung này đưa vào để giảng thêm cho học sinh hiểu sâu cũng là một hạn chế đối với nhiều giáo viên.
 c- Kết quả khảo sát: 
 Ngay sau khi dạy phần từ đồng âm và từ nhiều nghĩa xong (khi chưa được luyện tập nhiều), tôi đã tiến hành khảo sát lớp 5A. 
 Năm học 2016- 2017 (Thời điểm là tháng 10/2016)
Sĩ số
Nội dung
Điểm 9-10
Điểm 7-8
Điểm 5-6
Điểm dưới 5
Ghi chú
SL
TL
SL
TL
SL
TL
SL
TL
34
Từ đồng âm và từ nhiều nghĩa
3
8,8
15
41,1
11
32,4
5
14,7
34
Tiếng Việt
5
14,7
17
50
10
29,4
2
5,9
Năm học 2017- 2018 (Thời điểm là tháng 10/2017)
Sĩ số
Nội dung
Điểm 9-10
Điểm 7-8
Điểm 5-6
Điểm dưới 5
Ghi chú
SL
TL
SL
TL
SL
TL
SL
TL
32
Từ đồng âm và từ nhiều nghĩa
3
9,4
13
40,6
13
40,6
3
9,4
32
Tiếng Việt
6
18,8
15
46,9
10
31,2
1
3.1
 Qua khảo sát, tôi nhận thấy kết quả chưa tốt lắm và chủ yếu sai sót rơi vào kiến thức về nghĩa của từ. Vậy làm thế nào để giúp các em học tốt phần này hơn đó là điều mà tôi trăn trở rất nhiều. Nó thôi thúc tôi suy nghĩ tìm biện pháp để giúp học sinh có thể nắm vững hơn kiến thức về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giúp học sinh phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa
2.3.1.Tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến việc phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa còn khó khăn. 
 Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến học sinh khó khăn trong việc phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa song phải kể đến các nguyên nhân sau đây:
+ Từ đồng âm và từ nhiều nghĩa đều có hình thức giống nhau, đọc giống nhau, viết cũng giống nhau chỉ khác nhau về ý nghĩa.
Ví dụ 1: 
 Từ đồng âm “bàn” (1) trong “cái bàn” và “bàn”(2) trong “bàn công việc” xét về hình thức ngữ âm thì hoàn toàn giống nhau còn nghĩa thì hoàn toàn khác nhau: “bàn”(1) là danh từ chỉ một đồ vật có mặt phẳng, có chân, đồ dùng đi kèm với ghế (đồ nội thất), “bàn”(2) là động từ chỉ sự trao đổi ý kiến.
 Ví dụ 2: 
 Từ nhiều nghĩa: “bàn”(1) trong “cái bàn” và “bàn”(2) trong “bàn phím”. Hai từ “bàn” này, về hình thức ngữ âm hoàn toàn giống nhau còn nghĩa thì “bàn”(1) là danh từ chỉ một đồ vật có mặt phẳng, có chân, đồ dùng để đi kèm với ghế (đồ nội thất); “bàn”(2) là bộ phận tập hợp các phím trong một số loại đàn hoặc máy tính.
+ Nhiều khi học sinh chưa phân biệt đúng nghĩa gốc và nghĩa chuyển của từ nhiều nghĩa.
 Từ nguyên nhân trên, làm thế nào để học sinh phân biệt được từ đồng âm và từ nhiều nghĩa? Theo tôi, mấu chốt của vấn đề là cả GV và HS cần phải hiểu bản chất kiến thức. Từ đồng âm là nhiều từ đọc giống nhau nhưng nghĩa hoàn toàn khác nhau. Nghĩa các từ trong văn cảnh đều là nghĩa gốc (còn gọi là nghĩa chính hay nghĩa đen). Còn từ nhiều nghĩa thì chỉ là một từ có một nghĩa gốc còn các nghĩa khác là nghĩa chuyển được suy ra từ nghĩa gốc. Trở lại ví dụ ở trên, trong Ví dụ 1 “bàn” trong “cái bàn” và “bàn” trong “bàn công việc” đều mang nghĩa gốc, Ví dụ 2 “bàn” trong “cái bàn” mang nghĩa gốc còn “bàn” trong “bàn phím” mang nghĩa chuyển. Làm thế nào để HS phân biệt được nghĩa gốc và nghĩa chuyển của từ? Giáo viên cần lưu ý học sinh: các từ mang nghĩa gốc thì nêu được nghĩa nhưng phải bằng cách diễn giải; còn phần nhiều các từ mang nghĩa chuyển thì nêu nghĩa bằng cách thay thế bằng một từ khác (mang nghĩa phụ).
Ví dụ: Mùa xuân(1) là tết trồng cây
        Làm cho đất nước càng ngày càng xuân(2).
 Ta thấy rằng: “xuân”(2) được dùng theo nghĩa chuyển vì “xuân” có thể thay thế bằng “tươi đẹp”.
 Để khắc phục được những nguyên nhân kể trên, tôi xin đưa ra một vài hướng giải quyết như sau.
2.3.2. Nghiên cứu phương pháp dạy từ đồng âm và từ nhiều nghĩa
a- Giúp học sinh nắm vững khái niệm.
* Từ đồng âm: Là từ giống nhau về âm nhưng khác hẳn nhau về nghĩa (SGK Tiếng Việt 5 tập 1- trang 51)[4].
 Ví dụ: đồng trong tượng đồng (chỉ kim loại có màu đỏ nâu, có ánh kim); đồng trong một nghìn đồng (chỉ đơn vị tiền tệ Việt Nam); đồng trong cánh đồng (chỉ khoảng đất rộng để cày cấy, trồng trọt). 3 từ đồng này đọc giống nhau nhưng nghĩa hoàn toàn khác nhau nên chúng là từ đồng âm; bò trong kiến bò (chỉ hoạt động di chuyển ở tư thế áp bụng xuống nền bằng cử động của toàn thân hoặc những cái chân ngắn); bò trong trâu bò (chỉ loài động vật nhai lại, sừng ngắn, lông thường có màu vàng, được nuôi để lấy sức kéo, thịt, sữa), 2 từ bò này cũng là từ đồng âm,...
- Đây là kiến thức cô đọng, súc tích nhất dành cho học sinh Tiểu học ghi nhớ, vận dụng khi làm bài tập thực hành.
- Đối với giáo viên Tiểu học, cần chú ý thêm: Từ đồng âm được nói tới trong sách giáo khoa Tiếng Việt 5 gồm cả từ đồng âm ngẫu nhiên (nghĩa là có 2 hay hơn 2 từ có hình thức ngữ âm ngẫu nhiên giống nhau, trùng nhau nhưng giữa chúng không có mối quan hệ nào, chúng vốn là những từ hoàn toàn khác nhau) như trường hợp “câu” trong “câu cá” và “câu” trong “đoạn văn có 5 câu” là từ đồng âm ngẫu nhiên và cả từ đồng âm chuyển loại (nghĩa là các từ giống nhau về hình thức ngữ âm nhưng khác nhau về nghĩa, đây là kết quả của hoạt động chuyển hóa từ loại của từ).
Ví dụ: 	+ cày (danh từ): cái cày 
	+ cày (động từ): cày ruộng 
	 	+ thịt (danh từ): miếng thịt
	+ thịt (động từ): làm thịt con gà
- Từ đồng âm hình thành do nhiều cơ chế: do trùng hợp ngẫu nhiên (gió bay, bọn bay, cái bay), do chuyển nghĩa quá xa mà thành (món quà, ăn quà), do từ vay mượn trùng với từ có sẵn (đầm sen- bà đầm; la mắng- nốt la; giảm sút- sút bóng), .
 Trong giao tiếp cần chú ý đầy đủ đến ngữ cảnh để tránh hiểu sai nghĩa của từ hoặc dùng với nghĩa nước đôi do hiện tượng đồng âm. Từ đồng âm thường được sử dụng trong các hiện tượng chơi chữ rất đặc biệt, tạo ra nhiều cách hiểu thú vị. Tuy nhiên phần này hơi trừu tượng đối với học sinh Tiểu học nên đã được giảm tải.
 *Từ nhiều nghĩa: Là từ có một nghĩa gốc và một hay một số nghĩa chuyển. Các nghĩa của từ nhiều nghĩa bao giờ cũng có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. 
 (SGK- Tiếng Việt 5 tập 1- trang 67)[4].
Ví dụ: Bé có khuôn mặt rất xinh (nghĩa gốc); Mặt ao lăn tăn gợn sóng (nghĩa chuyển)
 Một từ có khả năng gọi tên nhiều sự vật, hiện tượng, biểu thị nhiều khái niệm thì từ đó là từ nhiều nghĩa. Các nghĩa ấy có quan hệ mật thiết với nhau. Ta có thể so sánh từ nhiều nghĩa với từ một nghĩa. Từ nào là tên gọi của một sự vật hiện tượng, biểu đạt một khái niệm thì đó là từ một nghĩa. Ví dụ: ghi đông (bộ phận tay cầm của cái xe đạp),... Từ nào là tên gọi của nhiều sự vật, hiện tượng, biểu thị nhiều khái niệm thì từ ấy là từ nhiều nghĩa. Từ chỗ gọi tên sự vật, tính chất, hành động này (nghĩa1) chuyển sang gọi tên sự vật, tính chất hành động khác (nghĩa2). Quan hệ đa nghĩa của từ nảy sinh từ đó.
 Ví dụ: Quả cam (bộ phận của cây được hình thành từ bầu nhụy hoa- nghĩa gốc); quả tim, quả đồi, quả đất (những vật có hình dạng giống quả- nghĩa chuyển).
 Như vậy muốn phân tích được nghĩa của từ đa nghĩa, trước hết phải miêu tả thật đầy đủ các nét nghĩa gốc của từ. Nghĩa của từ được phát triển thường dựa trên các cơ sở sau:
- Dựa vào sự giống nhau về hình dáng giữa các sự vật hiện tượng.
 Ví dụ: tai (người)- tai (ấm); mũi (người)- mũi (thuyền)- mũi (dao) 
- Dựa vào chức năng của sự vật, hiện tượng:
 Ví dụ: ăn (cơm) - ăn (tàu vào cảng ăn than); cắt (cỏ) - cắt (đứt quan hệ) 
- Dựa vào tác động của các sự vật đối với con người:
 Ví dụ: đau (chân) – đau (lòng).
- Dựa trên quan hệ giữa bộ phận và toàn thể: 
 Ví dụ: chân (đau) – chân (có chân trong bệnh viện); mặt (khuôn mặt) - mặt (có mặt đúng giờ).
- Dựa trên quan hệ giữa vật chứa với cái được chứa:
Ví dụ: nhà (ngôi nhà) – nhà (nhà nghèo) – nhà (nhà tôi có 4 người); (cái) cốc- cốc nước (uống một cốc nước).
 Đối với học sinh lớp 5 ta chưa yêu cầu học sinh nắm vững các thành phần nghĩa của từ, cách thức chuyển nghĩa của từ nhưng học sinh cần phải giải nghĩa được một số từ thông qua các văn cảnh cụ thể, xác định được nghĩa gốc, nghĩa chuyển của từ, phân biệt được từ đồng âm với từ nhiều nghĩa.
b. Nắm vững ph­¬ng ph¸p d¹y tõ ®ång ©m vµ tõ nhiÒu nghÜa 
* Bài học về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa là loại bài khái niệm. Giáo viên tổ chức các hình thức dạy học để giải quyết các bài tập ở phần nhận xét, giúp học sinh phát hiện các hiện tượng về từ ở các bài tập, từ đó rút ra được những kiến thức về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa. Bước tiếp theo giáo viên tổng hợp kiến thức như nội dung phần ghi nhớ. Đến đây, nếu là học sinh có năng lực giáo viên có thể cho các em lấy ví dụ về hiện tượng đồng âm, nhiều nghĩa giúp các em nắm sâu và chắc phần ghi nhớ. Chuyển sang phần luyện tập, giáo viên tiếp tục tổ chức các hình thức dạy học để giúp học sinh giải quyết các bài tập phần lu

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_kinh_nghiem_giup_hoc_sinh_lop_5_phan_biet_tu_don.doc