SKKN Một số biện pháp Nâng cao chất lượng viết văn miêu tả cho học sinh lớp 4
Dạy học Tiếng Việt trong trường Tiểu học nói chung và dạy phân môn Tập làm văn nói riêng là một vấn đề vô cùng quan trọng. Trong khi đó Tập làm văn là phân môn tổng hợp cao nhất của tất cả các phân môn Tiếng Việt khác ở bậc Tiểu học: Tập đọc, Kể chuyện, Chính tả, Luyện từ và câu. Mục tiêu của cả người dạy và người học là “có cảm xúc” trong mỗi tiết học văn. Người giáo viên giúp cho các em cảm nhận được cái hay cái đẹp trong các bài văn, bài thơ, cuộc sống xung quanh và thể hiện “cái đẹp” đó bằng ngôn ngữ giàu hình ảnh. Song một thực tế mà chúng ta đều biết là hiện nay, trong các cấp học mà đặc biệt là bậc Tiểu học, phần lớn học sinh viết văn rất khô khan.
Qua thực tế dạy phân môn Tập làm văn lớp 4, tôi nhận thấy bài viết của các em hầu như chỉ diễn đạt nội dung. Câu văn chỉ mang tính chất thông báo chứ chưa có hình ảnh, chưa có cảm xúc. Đây là điều tất nhiên, vì ở lứa tuổi này vốn sống và vốn kiến thức của các em còn hạn hẹp. Đứng trước thực tế đó, tôi rất băn khoăn và trăn trở: “Làm thế nào để giúp các em yêu thích phân môn Tập làm văn ? Giúp các em có điều kiện tiếp cận với vẻ đẹp của con người, của cảnh vật, thiên nhiên đất nước ? Giúp các em có cơ hội bộc lộ cảm xúc của cá nhân, mở rộng tâm hồn và phát triển nhân cách ?”.
Qua nhiều năm dạy lớp 4 tôi đã cố gắng dùng mọi khả năng và kinh nghiệm của mình để khơi dậy những tiềm năng văn học đang ẩn giấu trong mỗi học sinh. Trong khuôn khổ bài viết này, tôi mạnh dạn trình bày một vài kinh nghiệm
Một số biện pháp Nâng cao chất lượng viết văn miêu tả cho học sinh lớp 4.
I. MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài: Dạy học Tiếng Việt trong trường Tiểu học nói chung và dạy phân môn Tập làm văn nói riêng là một vấn đề vô cùng quan trọng. Trong khi đó Tập làm văn là phân môn tổng hợp cao nhất của tất cả các phân môn Tiếng Việt khác ở bậc Tiểu học: Tập đọc, Kể chuyện, Chính tả, Luyện từ và câu. Mục tiêu của cả người dạy và người học là “có cảm xúc” trong mỗi tiết học văn. Người giáo viên giúp cho các em cảm nhận được cái hay cái đẹp trong các bài văn, bài thơ, cuộc sống xung quanh và thể hiện “cái đẹp” đó bằng ngôn ngữ giàu hình ảnh. Song một thực tế mà chúng ta đều biết là hiện nay, trong các cấp học mà đặc biệt là bậc Tiểu học, phần lớn học sinh viết văn rất khô khan. Qua thực tế dạy phân môn Tập làm văn lớp 4, tôi nhận thấy bài viết của các em hầu như chỉ diễn đạt nội dung. Câu văn chỉ mang tính chất thông báo chứ chưa có hình ảnh, chưa có cảm xúc. Đây là điều tất nhiên, vì ở lứa tuổi này vốn sống và vốn kiến thức của các em còn hạn hẹp. Đứng trước thực tế đó, tôi rất băn khoăn và trăn trở: “Làm thế nào để giúp các em yêu thích phân môn Tập làm văn ? Giúp các em có điều kiện tiếp cận với vẻ đẹp của con người, của cảnh vật, thiên nhiên đất nước ? Giúp các em có cơ hội bộc lộ cảm xúc của cá nhân, mở rộng tâm hồn và phát triển nhân cách ?”. Qua nhiều năm dạy lớp 4 tôi đã cố gắng dùng mọi khả năng và kinh nghiệm của mình để khơi dậy những tiềm năng văn học đang ẩn giấu trong mỗi học sinh. Trong khuôn khổ bài viết này, tôi mạnh dạn trình bày một vài kinh nghiệm Một số biện pháp Nâng cao chất lượng viết văn miêu tả cho học sinh lớp 4. 2. Mục đích nghiên cứu: a, Giúp HS lớp 4: - Rèn kĩ năng quan sát tìm ý, xây dựng nội dung bài văn. - Rèn kĩ năng dùng từ, đặt câu, viết đoạn, liên kết đoạn, diễn đạt lưu loát, mạch lạc. - Rèn kĩ năng viết văn giàu hình ảnh, cảm xúc. - Bồi dưỡng tình cảm yêu mến, gắn bó, biết trân trọng những gì xung quanh các em. - Là tiền đề tốt để học viết văn miêu tả lớp trên. b, Giúp giáo viên: - Nhìn nhận lại sâu sắc hơn việc dạy văn miêu tả cho học sinh lớp 4 để vận dụng phương pháp, biện pháp và hình thức tổ chức dạy học một cách linh hoạt. - Tự tìm tòi , nâng cao tay nghề, đúc rút kinh nghiệm trong giảng dạy Tập làm văn nói chung và trong dạy học sinh viết văn miêu tả nói riêng. - Nâng cao khả năng nghiên cứu khoa học. 3. Đối tượng nghiên cứu: - Nghiên cứu về một số biện pháp nâng cao chất lượng viết văn miêu tả cho học sinh lớp 4. 4. Phương pháp nghiên cứu: a, Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết: - Đọc tài liệu liên quan đến đề tài. - Nghiên cứu nội dung chương trình Tập làm văn lớp 4 mạch kiến thức Dạy viết văn miêu tả. b, Phương pháp quan sát sư phạm: - Điều tra thực trạng qua từng giai đoạn trong suốt năm học, trao đổi với giáo viên và học sinh, tìm hiểu thực tế việc dạy - học phân môn Tập làm văn trong trường. - So sánh đối chứng trong cùng một giai đoạn giữa lớp này với lớp kia, giữa các giai đoạn với nhau trong cùng một lớp, đối chứng cả năm học trước. - Quan sát tinh thần, thái độ, ý thức trong học Tập làm văn của học sinh lớp mình hay lớp khác trong khi đi dự giờ. Quan sát phương pháp sư phạm của giáo viên giảng dạy. Quan sát chất lượng bài viết của học sinh ở từng dạng miêu tả khác nhau để tìm hiểu những tác nhân trực tiếp ảnh hưởng đến chất lượng viết văn miêu tả của học sinh. c, Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: - Tiến hành đồng thời với phương pháp kiểm tra toán hoc và phương pháp tổng hợp số liệu. Khi kiểm tra đánh giá chất lượng bài văn miêu tả của từng học sinh, tôi mô tả và thống kê chất lượng bằng những số liệu cụ thể, sau đó tổng hợp các số liệu đã thu được nhằm rút ra kinh nghiệm giảng dạy cho bản thân. II. NỘI DUNG 1. Cơ sở lí luận: Miêu tả là lấy "nét vẽ hoặc câu văn để biểu hiện chân tướng của sự vật ra". Trong văn miêu tả người ta không đưa ra những nhận xét chung chung, những lời đánh giá trừu tượng về sự vật. Mà văn miêu tả phải vẽ ra các sự vật, sự việc, hiện tượng, con người bằng ngôn ngữ một cách sinh động, cụ thể. Giúp cho người nghe, người đọc nhìn rõ chúng, tưởng tượng được ra chúng như đang nhìn tận mắt, sờ tận tay. Tuy nhiên miêu tả không phải là một bức ảnh chụp lại hay một bản sao chép vụng về mà nó là sự kết tinh của những nhận xét tinh tế, những rung động sâu sắc mà người viết đã thu lượm được khi quan sát. (Từ điển Tiếng Việt Đào duy Anh) Với học sinh Tiểu học, nhất là học sinh các lớp 4, việc hình thành và phát triển các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết là vô cùng quan trọng được thể hiện ở tất cả các môn học và nổi bật nhất là ở môn Tiếng Việt. Do đó việc dạy Tập làm văn ở Tiểu học góp phần rèn luyện cho học sinh năng lực sử dụng tiếng mẹ đẻ, tạo điều kiện cho các em giao tiếp trong cuộc sống hàng ngày và học tốt các môn học khác như văn bản viết các em có được từ phân môn Tập làm văn đã thể hiện những hiểu biêt thực tế, những kĩ năng sử dụng Tiếng Việt mà các em đã được học ở môn Tiếng Việt nói chung, phân môn Tập làm văn nói riêng và các môn học khác. Trong đời sống, muốn người khác công nhận ra những điều mình đã nhìn thấy, đã sống, đã trải qua... chúng ta phải miêu tả. Trong văn học, các câu chuyện, các cuốn tiểu thuyết, thậm chí ngay cả trong văn nghị luận hay văn viết thư, nhiều lúc ta cũng chen vào các đoạn văn miêu tả. Vì thế, có thể nói văn miêu tả có một vị trí quan trọng trong sáng tác văn chương. Cũng vì thế văn miêu tả chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng trong chương trình Tập làm văn Tiểu học. 2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu: a,Thực trạng: + Đối với giáo viên: Điều đầu tiên tôi nhận thấy là kiến thức về phân môn Tập Làm Văn của giáo viên còn nhiều hạn chế, khi hướng dẫn những câu văn mẫu gợi ý cho học sinh phần lớn phụ thuộc vào SGV, văn mẫu, khiến học sinh nghe nhiều cảm thấy nhàm chán. Ngay bản thân giáo viên cũng chưa cảm nhận được cái hay, cái đẹp trong mỗi hình ảnh văn học thì rất khó truyền thụ cho học sinh cảm nhận được sự sinh động của bài văn, khiến cho giờ dạy phân môn Tập làm văn rơi vào nhàm chán, khô khan. + Đối với học sinh: - Đa số các em đều là con nhà thuần nông. Ngoài thời gian học ở trường các em còn phải giúp đỡ cha mẹ làm những công việc gia đình nên ít có thời gian giành cho việc học. Ở nhà, các em không nhận được sự giúp đỡ của anh chị hoặc cha mẹ mỗi khi các em gặp khó khăn trong quá trình quan sát, lập dàn ý hay viết văn miêu tả. - Bản thân của các em chưa có kĩ năng viết một bài văn miêu tả, vốn từ của các em còn hạn chế, kĩ năng quan sát chưa có. - Các em không có thói quen đọc sách nhiều. - Ngôn ngữ viết của các em chưa được trau chuốt, phần lớn bị ảnh hưởng của ngôn ngữ nói. b, Kết quả của thực trạng: Để thực hiện mục tiêu đề ra, sau khi học xong bài " Luyện tập xây dựng bài văn miêu tả đồ vật" tuần 17, tôi tiến hành điều tra khảo sát việc viết bài văn miêu tả đồ vật của 25 học sinh lớp 4B, năm học 2016 - 2017. Đề bài như sau: "Em hãy tả một đồ dùng học tập hoặc đồ vật mà em yêu thích". Kết quả khảo sát như sau: Sĩ số HS Điểm 9-10 Điểm 7- 8 Điểm 5- 6 Điểm 3- 4 Điểm 1- 2 SL TL SL TL SL TL SL TL SL TL 25 2 8% 6 24% 11 44% 5 20% 1 4% Qua bài làm của các em tôi nhận thấy rằng: Số lượng bài làm hay của học sinh rất ít. Nhiều bài diễn đạt lủng củng, bố cục không chặt chẽ, dùng từ thiếu chính xác, câu văn không đúng ngữ pháp, cách sử dụng biện pháp so sánh và nhân hoá chưa phù hợp, bài viết thiếu cảm xúc. Kết quả như vậy là chưa đạt yêu cầu đề ra và là nỗi lo của tôi. Từ thực trạng trên, để công việc dạy và học đạt kết quả tốt hơn, tôi đã mạnh dạn đưa ra các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng viết văn miêu tả cho học sinh lớp 4. 3. Các biện pháp giải quyết: Biện pháp 1: Giúp học sinh lĩnh hội kiến thức văn học. Dựa vào chương trình tiểu học, đã thiết kế chương trình tập làm văn lớp 4 loại văn miêu tả theo cấu trúc: + Khái niệm miêu tả: 1 tiết/ kì 1. + Miêu tả đồ vật: 6 tiết/ kì 1; 4 tiết/ kì 2. + Miêu tả cây cối: 11 tiết / kì 2. + Miêu tả con vật: 8 tiết / kì 2. Cả năm học 30 tiết loại văn miêu tả / 62 tiết. Từ ngữ là nhân tố cơ bản để xây dựng câu văn, đoạn văn, bài văn. Nó có một vị trí và ý nghĩa vô cùng quan trọng. Hiểu, sử dụng đúng, sử dụng hay mới có thể diễn đạt và diễn đạt tốt nội dung, ý kiến của mình. Vậy mà vốn từ của các em rất ít. Điều này khiến tôi suy nghĩ rất nhiều. Những kiến thức lơ mơ, thiếu vốn từ làm thế nào có thể viết văn hay được. Bằng mọi cách phải bổ sung vào vốn từ ít ỏi của các em bằng sự phong phú của Tiếng Việt. Cách làm nhanh nhất là thông qua môn Tập đọc. Tôi cho các em nêu và tập giải nghĩa tất cả những từ ngữ mà các em chưa hiểu, sau đó tôi chốt lại một số từ yêu cầu các em ghi vào “sổ từ”, tập đặt câu để hiểu chắc chắn, biến từ đó thực sự là vốn từ của mình. Ví dụ: Ở bài “ Đường đi Sa Pa”. (Tiếng Việt lớp 4, tập 2, trang 102), tôi yêu cầu các em sau giờ học phải bổ sung vào vốn từ của mình các từ ngữ và hình ảnh. - trắng xóa tựa mây trời, lướt thướt liễu rủ, bồng bềnh huyền ảo. Bài “Con chuồn chuồn nước” ( Tiếng Việt lớp 4, tập 2, trang 127). - Từ: Long lanh, nhỏ xíu, mênh mông, thung thăng, cao vút. - Đặt câu: - Thân đa cao vút, đỉnh chót vót giữa trời xanh. - Trời xuân trải sắc xanh trên biển lúa mênh mông. Vậy qua phân môn Tập đọc học sinh tích lũy được “ vốn liếng” từ không hề nhỏ. Cuối mỗi tiết Tập đọc tôi thường cho học sinh tìm những câu văn hay trong bài, những câu văn mang tính nghệ thuật cao để các em đưa vào “ sổ từ” của mình. Ví dụ: Cá thu Biển Đông như đoàn thoi Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng ( Đoàn thuyền đánh cá) Con đen huyền, con trắng tuyết, con đỏ son, chân dịu dàng chùm đuôi cong lướt thướt liễu rủ. ( Đường đi Sa Pa) Thông qua các bài Tập đọc tôi giúp các em chỉ ra các từ ngữ miêu tả hay đã được chọn lọc, gọt giũa. Cách sử dụng nghệ thuật của tác giả chọn một vài trường hợp đặc sắc để phân tích kĩ giúp học sinh thấy được sự sáng tạo của các nhà văn khi dùng chúng. Ví dụ : Khi dạy đến bài " Hoa học trò " Tiếng Việt 4, trang 43. Trong phần tìm hiểu bài tôi giúp các em cảm nhận được cái hay, cái độc đáo qua cách dùng từ của Xuân Diệu. Để giúp người đọc cảm nhận được số lượng hoa phượng ra nhiều và rất đẹp, ông đã sử dụng một loạt các điệp từ, điệp ngữ để diễn tả điều đó. Phượng không phải là một đoá, không phải vài cành; phượng đây là cả một loạt, cả một vùng, cả một góc trời đỏ rực. Mỗi hoa chỉ là một phẩn tử của xã hội thắm tươi; người ta quên đoá hoa, chỉ nghĩ đến cây, đến hàng, đến những tán hoa lớn xoè ra như ngàn con bướm thắm đậu khít nhau. Tóm lại: Ta thấy các từ ngữ miêu tả trong các bài Tập đọc rất đa rạng và phong phú, chúng được sử dụng rất hay, sinh động, gây ấn tượng. Cách sử dụng các biện pháp nghệ thuật trong các bài Tập đọc cũng rất sáng tạo. Bằng cách này tôi đã giúp học sinh tích luỹ thêm vốn từ và học cách sử dụng chúng, đồng thời thông qua các bài Tập đọc tôi cũng giúp các em hiểu thêm rằng để một bài văn miêu tả hay thì cần phải sử dụng các biện pháp nghệ thuật hợp lí. Biện pháp 2: Hướng dẫn học sinh cách chọn từ ngữ và sử dụng từ ngữ. Ở loại văn miêu tả, kiến thức cho học sinh bao gồm một số hiểu biết ban đầu về đặc điểm chính của bài dạy cụ thể: + Thế nào là miêu tả? + Quan sát để miêu tả cho sinh động. + Trình tự miêu tả. + Cấu tạo đoạn văn, bài văn miêu tả. Song song với việc tích lũy vốn từ qua phân môn Tập đọc. Trong tiết luyện viết đoạn văn tôi thường xuyên hướng dẫn các em củng cố về từ ngữ qua dạng bài luyện từ, từ dễ, từ khó. * Điền từ để câu văn giàu hình ảnh: Chọn các từ ngữ sau điền vào chỗ trống cho thích hợp (long lanh như thuỷ tinh; vàng óng; liến láu; căng mọng; cao vút; rì rào; phả lửa; thăm thẳm; bồng bềnh; hồng tươi; như nhung; lộng lẫy; thắm). - Nắng ban mai .. nhuộm chan hoà trên từng sắc lá. - Hoa hồng đẹp .. cánh hoa đỏ , mịn .. - Mùa hè đến, hàng trăm, hàng nghìn cánh phượng như đang .. lên trời. - Bầu trời xanh .., mây trắng .. trôi. - Cây cao .. - Gió thổi .. trong đám lá. - Những quả cam .., da .. như mời gọi người đến thưởng thức. - Đôi mắt .., lúc nào cũng .. nhìn quanh. Tôi hướng dẫn: Các em dựa vào đặc điểm, tính chất của sự vật để chọn từ điền vào chỗ chấm. Sau khi điền xong các em đọc lại xem câu văn đó đã phù hợp. Tôi tổ chức cho các em thảo luận theo nhóm 4 để hoàn thành bài tập. Đa số các nhóm đều làm đúng: - Nắng ban mai (hồng tươi) nhuộm chan hoà trên từng sắc lá. - Hoa hồng đẹp (lộng lẫy) cánh hoa đỏ (thắm), mịn (như nhung). - Mùa hè đến, hàng trăm, hàng nghìn cánh phượng như đang (phả lửa) lên trời. - Bầu trời xanh (thăm thẳm), mây trắng (bồng bềnh) trôi. - Cây cao (cao vút). - Gió thổi (rì rào) trong đám lá. - Những quả cam (vàng óng), da (căng mọng) như mời gọi người đến thưởng thức. - Đôi mắt (long lanh như thuỷ tinh), lúc nào cũng (liến láu) nhìn quanh. Việc chọn từ điền vào, giáo viên nên để học sinh thoải mái, không ép hay áp đặt. Sau mỗi lần để học sinh chọn điền tôi cũng để học sinh khác bình luận, nhận xét xem câu nào hay hơn. Các em học chưa tốt môn văn có thể học hỏi được nhiều từ, câu của các bạn giỏi. Bài tập này đa dạng, dễ cho ví dụ. Giáo viên nên khuyến khích và động viên làm tốt. Nếu với những câu quá khó giáo viên có thể gợi ý. Với dạng bài này tôi cho các em luyện tập ở các tiết “Luyện tập xây dựng đoạn văn miêu tả cây cối” giúp các em lựa chọn các câu văn hay để viết đoạn văn, vừa khiến cho các em thoải mái trong giờ học, vừa nhớ lâu. Biện pháp 3: Hướng dẫn học sinh viết câu có kết cấu đơn giản. Tháp cao nào cũng phải xây dựng từ dưới mặt đất. Để viết được những câu văn mang tính nghệ thuật trong kết cấu, trước tiên học sinh cần nắm được câu trong dạng đơn giản nhất, đó là những dạng câu học sinh đã được học: Câu kể (Ai làm gì? Ai thế nào? Ai là gì?), câu khiến, câu hỏi, câu cảm. Dạy những loại câu này đối với học sinh không khó. Ta chỉ cần hướng dẫn tốt tiết Luyện từ và câu. Trong chương trình xác định các yêu cầu cơ bản học sinh cần nắm được và thường xuyên củng cố thật nhiều. Câu có hai bộ phận chính: Chủ ngữ và vị ngữ. - Chủ ngữ trả lời câu hỏi: Ai? Cái gì? Con gì? - Vị ngữ trả lời câu hỏi: Làm gì? Như thế nào? Là gì? Đi đôi với việc dạy lý thuyết tôi cho học sinh luyện viết câu, phân tích thật nhiều, lấy ngay các từ học sinh tích luỹ được trong tiết Tập đọc để đặt câu: Ví dụ: Sau khi học xong bài tập đọc “ Sầu riêng” Tiếng việt 4, tập 2: + Tôi hướng dẫn để học sinh tích luỹ được các từ: ngọt ngào, quyến rũ, quyện và học cách sử dụng chúng. Để các em hiểu nghĩa của các từ này tôi yêu cầu các em đặt câu có từ vừa tích lũy được và phân tích: Dạ hương / ngọt ngào lan toả khắp khu vườn. CN VN Vườn hoa / quyến rũ lũ ong bướm rập rờn bay đến. CN VN Mít chín / thơm nồng, ngọt sắc như vị của trứng gà quyện với mật ong già. CN VN Cứ như vậy, luyện tập nhiều sẽ giúp học sinh có một kiến thức vững chắc về câu. Biện pháp 4: Hướng dẫn học sinh viết một vài dạng câu có kết cấu phức tạp. Nếu một bài văn chỉ viết bằng một loại câu thì sẽ gây ra đơn điệu, không hấp dẫn. Bởi vậy, ta cần trang bị những kiến thức nâng cao về câu cho những “mầm non văn học”. Tuy nhiên ta không bắt buộc học sinh tiếp thu những gì quá phức tạp không phù hợp với tâm lí lứa tuổi. Một số dạng câu có thể dạy là: - Câu có trạng ngữ. - Câu có nhiều chủ ngữ, nhiều vị ngữ. a. Với câu có trạng ngữ. Đầu tiên tôi nên cho học sinh tiếp xúc với các loại câu này, tập tìm chủ ngữ, vị ngữ. Trên vòm cây, chim hót líu lo. Học sinh rất dễ nhầm lẫn “Trên vòm cây” là chủ ngữ nếu chưa tiếp xúc với loại câu này. Bởi vậy, tôi cho học sinh đặt câu hỏi: + Con gì hót líu lo? (“con chim” vậy “con chim” là chủ ngữ). + Con chim làm gì? (“hót líu lo” vậy “hót líu lo” là vị ngữ). Vậy “Trên vòm cây” là bộ phận gì? học sinh sẽ rút ra đó là bộ phận phụ nói rõ chim hót ở đâu. Tương tự như vậy tôi hướng dẫn học sinh hiểu về trạng ngữ chỉ thời gian, nơi chốn và các từ chỉ trạng ngữ để học sinh có thể đặt câu: Ví dụ: - Ngoài trời, khóm hồng toả hương thơm ngào ngạt. - Để chăm sóc con, chị gà cần mẫn bới đất tìm thức ăn. - Từ trong kẽ lá, những nụ hồng lấp ló trông thật xinh. b. Câu có nhiều chủ, vị. Khi miêu tả cùng một sự vật học sinh hay mắc lỗi lặp từ, kể lể khi diễn đạt. Ví dụ: - Cánh hoa đỏ thắm. Cánh hoa mịn như nhung. - Hoa lan màu đỏ. Hoa cúc vàng. Hoa huệ màu trắng. - Đóa hồng hồn nhiên, rực rỡ. Đóa hồng căng đầy sức sống. - Chú mèo cuộn mình. Nó lăn tròn như quả bóng. - Chiếc cặp giản dị, mộc mạc. Chiếc cặp rất tiện lợi. Tôi hướng dẫn học sinh thay thế nhiều câu thành một câu. Bằng cách làm này, bài văn sẽ không bị lặp lại từ và bớt đi sự cứng nhắc khô khan kể lể. Học sinh viết câu văn hấp dẫn hơn. - Cánh hoa đỏ thắm, mịn như nhung. - Hoa lan, hoa cúc, hoa huệ đua nhau khoe sắc. - Đóa hồng hồn nhiên, rực rỡ căng đầy sức sống. - Chú mèo cuộn mình, lăn tròn như quả bóng. - Chiếc cặp tuy giản dị, mộc mạc nhưng rất tiện lợi. Sau khi được tập luyện nhiều, học sinh có thói quen kết hợp ý để diễn đạt. Bài văn không rời rạc, khô khan bởi chỉ được viết từ các câu đơn. Biện pháp 5. Hướng dẫn học sinh viết câu văn có sử dụng biện pháp nghệ thuật. Muốn bài văn hay thì trong bài văn không thể thiếu tính nghệ thuật. Học sinh lớp 4 kiến thức về lĩnh vực này còn hiểu lơ mơ, hời hợt. Nếu giáo viên không dạy, học sinh khó mà nắm bắt được. Để đưa nghệ thuật vào trong văn có rất nhiều biện pháp. Nhưng theo tôi, đối với học sinh ở lứa tuổi này, hai biện pháp nghệ thuật phù hợp nhất là so sánh, nhân hóa. 1, Hướng dẫn học sinh viết câu văn có hình ảnh so sánh: Tôi đã hướng dẫn học sinh tìm các câu có các hình ảnh so sánh: Ví dụ: - Bông hướng dương như vầng mặt trời vãi tung toé những tia nắng vàng rực rỡ. - Hoa cẩm chướng là ngôi sao màu trên vòm trời xanh lục giữa vườn. - Từ xa nhìn lại, cây gạo sừng sững như một tháp đèn khổng lồ. Hàng ngàn bông hoa là hàng ngàn ngọn lửa hồng tươi. Hàng ngàn búp nõn là hàng ngàn ngọn nến trong xanh. - Với những cánh tay xù xì không cân đối, với những cánh tay quều quào xoè rộng, nó như con quái vật già nua cau có và khinh khỉnh giữa đám bạch dương tươi cười. - Dáng mọc của lộc rất lạ, thẳng đứng trên cành, như thể đêm qua có ai đó thả hàng vạn búp lá nhỏ xíu từ trên trời xanh biếc chi chít cành và xoay thành những tán tròn quanh thân cây. Với những câu văn này tôi hướng dẫn để các em nắm chắc được biện pháp so sánh bằng cách sau: Ví dụ: Câu “Bông hướng dương như vầng mặt trời vãi tung toé những tia nắng vàng rực rỡ”. Tôi phân tích cách sử dụng biện pháp so sánh, tác giả lấy hình ảnh mặt trời để tả bông hướng dương. Để thấy được tính ưu việt của biện pháp nghệ thuật này tôi lấy một câu khác để mô tả bông hướng dương. “Bông hướng dương rất to, màu vàng, có rất nhiều cánh nhỏ”. Và yêu cầu học sinh nhận xét xem câu nào hay hơn. Dĩ nhiên là câu thứ nhất, 100% học sinh được hỏi đều trả lời như vậy. “Hay hơn vì sao?”. Các em trả lời: “Vì sử dụng biện pháp nghệ thuật so sánh”. Muốn các em vững vàng hơn về cách so sánh tôi lại đưa ra một câu văn nữa. “Bông hướng dương như chiếc đĩa màu vàng.” Yêu cầu học sinh nhận xét, so sánh với câu thứ nhất. Khi các em khẳng định câu thứ ba không hay bằng câu đầu, tôi đặt câu hỏi: “Tại sao cả hai câu đều sử dụng biện pháp so sánh mà câu đầu lại hay hơn?” và giải thích “Ở câu thứ nhất, tác giả dùng hình ảnh mặt trời đang toả nắng” một hình ảnh đẹp, sinh động và rất độc đáo để so sánh vì vậy đã làm cho bông hướng dương tươi đẹp hẳn lên. Còn câu thứ ba so sánh với cái đĩa có đặc điểm giống bông hướng dương song đơn điệu và giảm đi giá trị vẻ đẹp của bông hoa. Từ đó giúp học sinh hình thành sự hiểu biết. Khi so sánh muốn làm cho một sự vật đẹp hơn phải so sánh với sự vật khác giống nhưng đẹp hơn, có những nét độc đáo, nổi bật hơn và ngược lại. Việc này học sinh phải được luyện tập thường xuyên, vì nếu không luyện tập thì các kiến thức đó cũng mai một dần. Sau đây là một vài dạng bài tập mà tôi đã xây dựng trong tiết “Luyện tập xây dựng đoạn văn”: a, Nhận xét những hình ảnh so sánh trong đoạn văn, câu văn. Tôi giới thiệu một số hình ảnh cụ thể cho học sinh quan sát (các hình ảnh nà
Tài liệu đính kèm:
- skkn_mot_so_bien_phap_nang_cao_chat_luong_viet_van_mieu_ta_c.doc