SKKN Một số biện pháp nâng cao chất lượng giờ dạy học môn Ngữ văn lớp 6

SKKN Một số biện pháp nâng cao chất lượng giờ dạy học môn Ngữ văn lớp 6

Đổi mới phương pháp, nâng cao chất lượng giờ học luôn là mục tiêu mà mỗi người giáo viên đứng lớp quan tâm, trăn trở và tìm cách thực hiện, nhằm mang đến hiệu quả tối đa cho giờ dạy học của bản thân và học sinh. Đây cũng là mục tiêu cơ bản và quan trọng nhất của quá trình đổi mới giáo dục xuyên suốt từ vài thập niên gần đây của Bộ Giáo dục và Đào tạo( GD&ĐT). Mỗi người GV trực tiếp giảng dạy, ngoài việc vận dụng tốt những phương pháp, phương tiện thiết bị dạy học, cách thức kiểm tra đánh giá học sinh theo đề án đổi mới giáo dục ở các chuyên đề được tiếp thu, mỗi người cũng cần phải có những cách thức riêng cho bản thân mình để có thể áp dụng vào thực tế công tác, vào điều kiện giảng dạy của bản thân, nhà trường, địa phương. Và nhất là phù hợp với đối tượng học sinh (về khả năng tiếp thu, hoàn cảnh xã hội, gia đình cũng như sức khỏe của các em ).

 Một thực tế cho thấy, trong những năm gần đây, các môn học thuộc bộ môn khoa học xã hội, nhất là môn Ngữ văn đang bị học sinh “xa lánh”, một phần vì nội dung chương trình còn nặng về kiến thức, một bài học các em phải tiếp nhận nhiều đơn vị kiến thức với áp lực phải ghi nhớ. Ngữ văn lại là môn học phải đọc nhiều, viết nhiều nhưng xu thế phát triển của thời đại Công nghệ số khiến các em ngại đọc, ngại viết, ngại trau rồi kiến thức mà ỉ lại vào các trang mạng xã hội: Google, Facebook, YouTube Dẫn đến hạn chế trong khả năng lĩnh hội bài học, kĩ năng tư duy và diễn đạt kém, kiến thức tích lũy thì nghèo nàn. Dẫn đến học sinh chán học, giáo viên mất hứng thú trong giờ dạy, nhiệt huyết truyền đạt những tri thức hay, sâu sắc, mới mẻ cho học sinh mất dần, mai một dần, đến bỏ hẳn. Giờ học Ngữ văn trở nên khô khan, nhàm chán, chất lượng hiệu quả gờ học không cao.

 Trước thực tại đó, là một giáo viên Ngữ văn với 17 năm công tác, bản thân thật sự cảm thấy rất buồn khi môn Ngữ văn bị xem nhẹ, thậm chí là “ rẻ rúng”. Tôi luôn suy nghĩ và trăn trở: Làm thế nào để khơi dậy hứng thú học tập của học sinh, nuôi dưỡng niềm đam mê và lòng ham học môn văn ở các em, nhất là đối với những em học sinh lớp 6 để từ đó nâng cao chất lượng giờ dạy và học môn mình phụ trách? Bằng thực tế 17 năm đứng lớp với những bài học kinh nghiệm học hỏi được từ đồng nghiệp và từ chính thực tế giảng dạy của mình, tôi cũng rút ra được một số kinh nghiệm cho bản thân trong việc nâng cao chất lượng giờ dạy. Vì vậy tôi chọn đề tài: “ Một số biện pháp nâng cao chất lượng giờ dạy học môn Ngữ văn lớp 6”, với mong muốn tạo mọi điều kiện cho các em HS- nhất là các em học sinh lớp 6, còn quá bỡ ngỡ với cách thức tiếp nhận một bài học của môn Ngữ văn ở Cấp THCS, nhằm giúp các em biết được và có được nhiều cách tiếp cận với môn Ngữ văn nói chung với mỗi bài học văn nói riêng một cách nhanh nhất và đúng nhất, để đạt được hiệu quả cuối cùng là nâng cao chất lượng giờ dạy của GV và giờ học của HS, đồng thời nâng cao được hiệu quả dạy học văn của bản thân nói riêng và đồng nghiệp nói chung. Xin được mạnh dạn đưa ra để đồng nghiệp tham khảo và đóng góp ý kiến.

 

doc 14 trang thuychi01 108228
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số biện pháp nâng cao chất lượng giờ dạy học môn Ngữ văn lớp 6", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
1.MỞ ĐẦU.
 1.1. Lí do chọn đề tài: 
 Đổi mới phương pháp, nâng cao chất lượng giờ học luôn là mục tiêu mà mỗi người giáo viên đứng lớp quan tâm, trăn trở và tìm cách thực hiện, nhằm mang đến hiệu quả tối đa cho giờ dạy học của bản thân và học sinh. Đây cũng là mục tiêu cơ bản và quan trọng nhất của quá trình đổi mới giáo dục xuyên suốt từ vài thập niên gần đây của Bộ Giáo dục và Đào tạo( GD&ĐT). Mỗi người GV trực tiếp giảng dạy, ngoài việc vận dụng tốt những phương pháp, phương tiện thiết bị dạy học, cách thức kiểm tra đánh giá học sinh theo đề án đổi mới giáo dục ở các chuyên đề được tiếp thu, mỗi người cũng cần phải có những cách thức riêng cho bản thân mình để có thể áp dụng vào thực tế công tác, vào điều kiện giảng dạy của bản thân, nhà trường, địa phương. Và nhất là phù hợp với đối tượng học sinh (về khả năng tiếp thu, hoàn cảnh xã hội, gia đình cũng như sức khỏe của các em ).
 Một thực tế cho thấy, trong những năm gần đây, các môn học thuộc bộ môn khoa học xã hội, nhất là môn Ngữ văn đang bị học sinh “xa lánh”, một phần vì nội dung chương trình còn nặng về kiến thức, một bài học các em phải tiếp nhận nhiều đơn vị kiến thức với áp lực phải ghi nhớ. Ngữ văn lại là môn học phải đọc nhiều, viết nhiều nhưng xu thế phát triển của thời đại Công nghệ số khiến các em ngại đọc, ngại viết, ngại trau rồi kiến thức mà ỉ lại vào các trang mạng xã hội: Google, Facebook, YouTube Dẫn đến hạn chế trong khả năng lĩnh hội bài học, kĩ năng tư duy và diễn đạt kém, kiến thức tích lũy thì nghèo nàn. Dẫn đến học sinh chán học, giáo viên mất hứng thú trong giờ dạy, nhiệt huyết truyền đạt những tri thức hay, sâu sắc, mới mẻ cho học sinh mất dần, mai một dần, đến bỏ hẳn. Giờ học Ngữ văn trở nên khô khan, nhàm chán, chất lượng hiệu quả gờ học không cao.
 Trước thực tại đó, là một giáo viên Ngữ văn với 17 năm công tác, bản thân thật sự cảm thấy rất buồn khi môn Ngữ văn bị xem nhẹ, thậm chí là “ rẻ rúng”. Tôi luôn suy nghĩ và trăn trở: Làm thế nào để khơi dậy hứng thú học tập của học sinh, nuôi dưỡng niềm đam mê và lòng ham học môn văn ở các em, nhất là đối với những em học sinh lớp 6 để từ đó nâng cao chất lượng giờ dạy và học môn mình phụ trách? Bằng thực tế 17 năm đứng lớp với những bài học kinh nghiệm học hỏi được từ đồng nghiệp và từ chính thực tế giảng dạy của mình, tôi cũng rút ra được một số kinh nghiệm cho bản thân trong việc nâng cao chất lượng giờ dạy. Vì vậy tôi chọn đề tài: “ Một số biện pháp nâng cao chất lượng giờ dạy học môn Ngữ văn lớp 6”, với mong muốn tạo mọi điều kiện cho các em HS- nhất là các em học sinh lớp 6, còn quá bỡ ngỡ với cách thức tiếp nhận một bài học của môn Ngữ văn ở Cấp THCS, nhằm giúp các em biết được và có được nhiều cách tiếp cận với môn Ngữ văn nói chung với mỗi bài học văn nói riêng một cách nhanh nhất và đúng nhất, để đạt được hiệu quả cuối cùng là nâng cao chất lượng giờ dạy của GV và giờ học của HS, đồng thời nâng cao được hiệu quả dạy học văn của bản thân nói riêng và đồng nghiệp nói chung. Xin được mạnh dạn đưa ra để đồng nghiệp tham khảo và đóng góp ý kiến.
1.2.Mục đích nghiên cứu : 
 Với đề tài này, tôi mong muốn có thể tìm ra được một số biện pháp phù hợp nhằm giúp các em HS lớp 6 biết được và có được nhiều cách tiếp cận với mỗi bài học văn một cách nhanh nhất và đúng nhất, để đạt được hiệu quả cuối cùng là nâng cao chất lượng giờ dạy của GV và giờ học của HS, khơi dậy hứng thú học văn và kích thích năng lực tư duy sáng tạo cho HS , nhằm đạt đến một hiệu quả cao nhất là nâng cao chất lượng mỗi giờ học văn, tạo ra hướng tiếp cận mới cho HS, hướng các em có thái độ đúng đắn trong việc học văn và sâu xa hơn , yêu thích môn văn một cách tự nguyện.
 1.3.Đối tượng nghiên cứu: 
 Cách thức, phương pháp dạy học môn Ngữ văn phù hợp với học sinh lớp 6 để nâng cao chất lượng giờ dạy học. Áp dụng cụ thể vào môn ngữ văn 6, vào một ví dụ cụ thể là tiết 73,74, văn bản “ Bài học đường đời đầu tiên” ( Trích trong tác phẩm “ Dế Mèn phiêu lưu kí” của Tô Hoài, SGK Ngữ văn 6, tập 2, trang 3, Nhà xuất bản GD.
 Đối tượng thực nghiệm là các em học sinh lớp 6, trường THCS Định Hưng, năm học 2017-2018.
 1.4.Phương pháp nghiên cứu: 
Nghiên cứu đề tài này, tôi đã sử dụng tổng hợp các phương pháp: 
 - Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết. Trên cơ sở nội dung bài học, áp dụng các kiến thức tiếp thu được trong quá trình bồi dưỡng thường xuyên ( BDTX ), qua việc tìm hiểu những vấn đề chung về đổi mới giáo dục THCS để vận dụng tìm ra biện pháp hiệu quả nhất cho một bài dạy Ngữ văn ở lớp 6.
 - Phương pháp điều tra thực tế : Vận dụng phương pháp này để điều tra thăm dò ý kiến học sinh về thái độ học tập của các em trước và sau khi GV áp dụng một số biện pháp để nâng cao chất lượng giờ dạy- học.
- Phương pháp thống kê sử lí số liệu: Thống kê sử lí số liệu trên cơ sở điều tra thực tế HS.
2.NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
 2.1.Cơ sở lí luận của đề tài: 
 Như trên đã nói, người giáo viên muốn nâng cao chất lượng giờ dạy của bản thân điều cốt yếu và quan trọng nhất là đổi mới cách thức và phương pháp dạy học. Phải hiểu, phương pháp dạy học không bó hẹp trong việc ứng dụng ở một bài học cụ thể, một tiết học cụ thể mà là cả một quá trình; có thể ứng dụng ở mọi thời điểm nếu điều kiện của GV và HS cho phép. Vì vậy, trước hết mỗi GV phải nắm vững được những vấn đề lí luận cơ bản về phương pháp dạy học và đổi mới phương pháp dạy học.
 Vậy đổi mới phương pháp dạy học là gì? Đổi mới phương pháp dạy học để làm gì? Đổi mới phương pháp dạy học phải đáp ứng những yêu cầu gì?
 Theo Tài liệu “ Những vấn đề chung về đổi mới giáo dục Trung học cơ sở môn Ngữ văn” , trang 22, 23 của Bộ GD&ĐT, Nhà xuất bản Giáo dục, xuất bản năm 2007 thì:
 “ Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh” ( Trích Luật Giáo dục, điều 28.2).
 Mục đích của đổi mới phương pháp dạy học ở trường phổ thông là thay đổi lối dạy học truyền thụ một chiều sang dạy học theo Phương pháp dạy học tích cực( PPDHTC) nhằm giúp học sinh phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo, rèn luyện thói quen và khả năng tự học, tinh thần hợp tác, kĩ năng vận dụng kiến thức vào những tình huống khác nhau trong học tập và trong thực tiễn; tạo niềm tin, niềm vui, hứng thú trong học tậpHS tự hình thành hiểu biết, năng lực và phẩm chất. Chú trọng hình thành các năng lực ( tự học, sáng tạo, hợp tác,) dạy phương pháp và kĩ thuật lao động khoa học, dạy cách học. Học để đáp ứng nhu cầu của cuộc sống hiện tại và tương lai. Những điều đã học cần thiết, bổ ích cho bản thân HS và cho sự phát triển xã hội.
 Yêu cầu đối với việc đổi mới phương pháp dạy học ở trường phổ thông đố là: 
 Dạy học tiến hành thông qua việc tổ chức các hoạt động học tập của học sinh.
 Dạy học kết hợp giữa học tập cá thể với học tập hợp tác; giữa hình thức cá nhân với hình thức học theo nhóm, theo lớp.
 Dạy học thể hiện mối quan hệ tích cực giữa giáo viên và học sinh, giữa HS và HS.
 Dạy học chú trọng đến việc rèn luyện các kĩ năng, năng lực, tăng cường thực hành và gắn nội dung bài học với thực tiễn cuộc sống.
 Dạy học chú trọng đến việc rèn luyện phương pháp tư duy, năng lực tự học tự nghiên cứu; tạo niềm vui, hướng thú, nhu cầu hành động và thái độ tự tin trong học tập cho học sinh.
 Dạy học chú trọng đến việc sử dụng có hiệu quả phương tiện, thiết bị dạy học được trang bị hoặc các thiết bị do GV tự làm, đặc biệt lưu ý đến những ứng dụng của công nghệ thông tin.
 Dạy học chú trọng đến việc đa dạng nội dung, các hình thức, cách thức đánh giá và tăng cường hiệu quả việc đánh giá.
 Đối với học sinh cần : 
 Tích cực suy nghĩ, chủ động tham gia các hoạt động học tập để tự khám phá và lĩnh hội kiến thức, rèn luyện kĩ năng, xây dựng thái độ và hành vi đúng đắn. Tích cực sử dụng thiết bị, đồ dùng học tập; thực hành thí nghiệm; thực hành vận dụng kiến thức đã học để phân tích, đánh giá giải quyết các tình huống và các vấn đề đặt ra từ thực tiễn; xây dựng và thực hiện các kế hoạch học tập phù hợp với khả năng và điều kiện. Mạnh dạn trình bày và bảo vệ ý kiến, quan điểm cá nhân; tích cực thảo luận, tranh luận, đặt câu hỏi cho bản thân, cho thầy, cho bạn. Biết tự đánh giá và đánh giá các ý kiến, quan điểm, các sản phẩm học tập của bản thân và bạn bè.
 Đối với GV cần: 
 Thiết kế, tổ chức, hướng dẫn HS thực hiện các hoạt động học tập với các hình thức đa dạng, phong phú, có sức hấp dẫn phù hợp với đặc trưng bài học, với đặc điểm và trình độ học sinh, với điều kiện cụ thể của lớp, trường và địa phương. Động viên, khuyến khích tạo cơ hội và điều kiện cho HS được tham gia một cách tích cực và chủ động, sáng tạo vào quá trình khám phá và lĩnh hội tri thức; chú ý khai thác vốn kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng đã có của HS; tạo niềm vui, hứng khởi, nhu cầu hành động và thái độ tự tin trong học tập cho HS; giúp các em phát huy tối đa năng lực, tiềm năng bản thân. Thiết kế và hướng dẫn học sinh thực hiện các dạng câu hỏi, bài tập phát triển tư duy và rèn luyện kĩ năng; hướng dẫn sử dụng các thiết bị, đồ dùng học tập; tổ chức có hiệu quả các giờ thực hành; hướng dẫn học sinh có thói quen vận dụng kiến thức đã học vào giải quyết các vấn đề thực tiễn. Sử dụng các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học một cách hợp lí, hiệu quả, linh hoạt, phù hợp với đặc trưng của cấp học, môn học; nội dung, tính chất của bài học; đặc điểm và trình độ học sinh; thời lượng dạy học và các điều kiện dạy học cụ thể của trường, địa phương.
 ( Trích từ tài liệu “ Những vấn đề chung về đổi mới giáo dục THCS môn Ngữ văn, trang 26, 27, của Bộ GD&ĐT, Nhà xuất bản Giáo dục ,xuất bản năm 2007) 
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng: 
 Như trên đã trình bày, mục đích cuối cùng của việc đổi mới phương pháp dạy học là nâng cao chất lượng mỗi giờ dạy- học của GV và HS. Muốn vậy, người GV trước hết phải biết đổi mới cách truyền đạt tri thức của bài học đến với các em, GV không thể dậm chân tại chỗ trong việc gói gọn truyền đạt tri thức ở một tiết học 45 phút để thực hiện công việc này, không thể cứ theo kiểu “ mõ tre, sách in” mà phải vận dụng linh hoạt trong điều kiện thực tế học sinh hiện nay và điều kiện hoàn cảnh học tập hiện nay của học sinh mình để từ đó khơi dậy hứng thú học tập, hình thành cho các em thói quen chủ động tìm tòi và lĩnh hội tri thức chứ không phụ thuộc, ỷ lại vào sự cung cấp tri thức từ phía thầy cô giáo.
 Song , thực tế hiện nay, việc học văn, tiếp cận với văn học đối với học sinh, nhất là học sinh lớp 6 là một vấn đề vừa khó, vừa ngại đối với các em. Đa số các em đến trường không chịu chuẩn bị bài ở nhà, không đọc phần văn bản trước khi đọc hiểu, không soạn bài, bài tập không làm. Đối với học sinh lớp 6, các em còn gặp khó khăn ở khâu chuẩn bị bài, cách học và soạn bài như thế nào là đúng hướng, đáp ứng yêu cầu bài học. Các em chưa nắm được nội dung cần chuẩn bị ở nhà cho từng bài học. Trên lớp, cách ghi bài của các em cũng là một vấn đề khó khăn cho cả thầy và trò: các em chưa biết chắt lọc kiến thức thầy cô giảng để ghi bài, chỉ biết nghe, ghi theo nội dung trên bảng. Nhiều em ghi còn rất chậm, phải dò từng chữ rất mất thời gian, các em vẫn còn quen với lối đọc chép, quá phụ thuộc vào việc đọc của thầy cô để lĩnh hội bài học. Chính vì thế, việc tiếp thu bài ở trên lớp của các em không mang lại hiệu quả cao, dẫn đến việc chán nản và dần bỏ bê môn học. Đây là một vấn đề cấp bách và rất nan giải, nếu chúng ta không biết định hướng cho các em biết cách tiếp cận môn học, biết cách học môn văn ngay từ năm lớp 6 thì thực sự là một sự thất bại trong việc dạy và học văn trong trường THCS.
 Mặt khác về phía GV dạy văn, đa số cũng chưa thực sự có sự đổi mới trong phương pháp cách thức để hướng dẫn học sinh lĩnh hội tri thức, hầu hết vẫn trung thành với sự định hướng phương pháp cách thức của những tài liệu hướng dẫn giảng dạy chính thống do Bộ GD& ĐT cung cấp, chưa mạnh dạn vận dụng linh hoạt vào tình hình thực tế của học sinh một cách sáng tạo hơn nhằm mang lại hiệu quả cao hơn. Khi đi dự giờ một số đồng nghiệp, vẫn thấy các đồng chí áp dụng tuần tự các đề mục và cho học sinh thực hành lần lượt trong tiết học. Ví dụ khi dạy về văn bản truyện ngắn, mục đọc, chú thích từ khó có thể lược bỏ bớt phần đọc, tập trung cho các em giải thích từ khó xong để có thể chuyển sang phần tóm tắt cho nhanh, nhưng vẫn có đồng chí áp dụng một cách máy móc, đọc hết tác phẩm, giải thích hết từ khó, đến phần tóm tắt, gọi một vài học sinh không thực hiện được, bản thân đành tóm tắt cho HS và bước sang phần khác mà không có sự hướng dẫn tóm tắt để các em có thể tự làm. Cách vận dụng không hợp lí này vừa mất thời gian trên lớp lại không luyện được kĩ năng tóm tắt cho các em.
 Tuy nhiên cũng cần phải nói thêm rằng, xu hướng chung là các em ngại học văn nhưng cũng vẫn còn số ít các em đam mê với môn học. Và GV có thể lấy các em đó làm nòng cốt để khơi dậy hứng thú học tập cho tất cả các em còn lại khác. Và qua điều tra tiếp xúc, việc các em ngại học văn không hẳn xuất phát từ việc các em không yêu thích môn văn mà do điều kiện hoàn cảnh, các em vẫn có lòng ham mê tìm hiểu các tác phẩm văn học, có những em học sinh muốn học, muốn chuẩn bị bài học nhưng không biết bắt đầu từ đâu và làm như thế nào. Các em vẫn thích lắng nghe những câu chuyện văn học mà thầy cô kể, muốn đọc những tác phẩm văn học mà thầy cô giới thiệu. Nhiều em sau những bài học, nhất là phần bài học văn bản thường hỏi sách này mua ở đâu, ở Thư viện nhà trường có không để chúng em mượn đọc. các em thường đề nghị giáo viên kể chuyện cho nghe. Đây cũng là một tín hiệu mừng để GV có thể khai thác từ đó nhân rộng những cá nhân yêu thích học văn, từ đó khơi lại hứng thú học văn cho các em.
 Thêm một thực tế khó khăn nữa cũng cần đề cập tới đó là: hoàn cảnh học tập của các em. Theo thống kê danh sách hoàn cảnh gia đình các em HS của giáo viên chủ nhiệm thì có đến 80 % các em có bố mẹ phải đi làm ăn xa không có thời gian ở bên cạnh con cái, hoặc làm công ty( với thời gian tăng ca liên tục) nên phần lớn các em ở nhà với ông bà, hoặc bố mẹ đi làm từ sáng sớm đến 8-9h tối mới về đến nhà không có thời gian để ý xem xét đến việc học của con ; Đặc biệt hơn có một số trường hợp bố mẹ làm ở xa, trọ lại nơi làm, nhà lại không có ông bà nên để con cái ở nhà con lớn trông con nhỏ, các em tự quản thúc lẫn nhau. Vì vậy, thường các em này phải tự lập sớm, hoàn toàn tự chủ về hành vi, lối sống và việc học tập của mình mà không có người lớn kèm cặp, chỉ bảo.Điều này rất dễ dẫn các em đến việc bỏ bê học tập và xa vào hư hỏng. Hơn nữa, khi các em cần người để hỗ trợ giải quyết những vấn đề thắc mắc về học tập, đời sống mà không có các thầy cô trên lớp thì rất khó khăn. Việc các em học thế nào, học ra sao khi ở nhà cũng là một điều đáng bàn. Mối liên hệ giữa phụ huynh và GV cũng vì thế trở nên khó khăn hơn.
 Từ thực trạng trên, tôi thấy rằng, khơi dậy hứng thú học văn để từ đó nâng cao chất lượng giờ dạy học văn cho học sinh là điều không dễ nhưng không phải là không thể làm được. Vấn đề là người GV phải biết vận dụng một cách khéo léo, phù hợp để mang lại hiệu quả cao nhất.
 2.3. Các sáng kiến kinh ngiệm và các giải pháp đã sử dụng để đưa ra giải quyết vấn đề đó.
 Từ thực trạng trên, tôi xin đưa ra một số giải pháp và một số ví dụ cụ thể như sau: 
 Về một số giải pháp như sau: 
 Đối với GV trực tiếp đứng lớp: 
 Trong mọi tình huống để giảng dạy, truyền đạt được những tri thức đúng, đủ và cơ bản cho học sinh, Gv cần phải tìm hiểu, nắm bắt được sâu và rộng nội dung bài dạy. Chuẩn bị bài soạn chu đáo mỗi khi lên lớp để chủ động trong mọi tình huống xử lí nội dung bài học, giải đáp những thắc mắc của học sinh về bài học khi các em cần . Ngoài ra, GV cũng cần phải tìm hiểu, bố sung tư liệu về bài học cho mình, nhất là đối với những tiết dạy- học văn bản( đặc biệt những văn bản là đoạn trích trong một truyện ngắn hay một bộ tiểu thuyết đồ sộ,hay một bài thơ trong một tập thơ) để mở rộng kiến thức cho bản thân và học sinh về bài học, giới thiệu được cho các em nguồn tư liệu phong phú và tin cậy để củng cố và tìm hiểu sâu và rộng hơn về nội dung bài học.
 Mặt khác GV cần phải luôn có ý thức trau dồi , bồi dưỡng về trình đọ tin học và kĩ năng sử lí các tình huống khi sử dụng máy tính để biết khai thác hiệu quả của các phòng học bộ môn, ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy( nhất là sử dụng máy chiếu) vào những tiết dạy phù hợp, cần thiết để nâng cao hiệu quả giảng dạy, khơi dậy sự tập trung chú ý vào bài học của học sinh. Nhưng cũng cần phải lưu ý là sử dụng một cách hợp lí để mang lại hiệu quả tối đa nhất. Lập kế hoạch tổ chức các tiết ngoại khóa cho các em về một số nội dung học tập của bộ môn để các em được củng cố và mở rộng kiến thức một cách trực quan nhất tạo nên hứng thú học tập và say mê tìm hiểu của các em.
 Đối với học sinh:
 Trước hết, vì đối tượng là các em học sinh lớp 6, vừa bước vào ngưỡng cửa của trường THCS nên mọi thứ đều rất lạ lẫm với các em, nhất là đối với việc tiếp cận các môn học. nên tôi dành thời gian một tiết học đầu tiên( việc này đã được lên hẳn trong khung phân phối chương trình của nhà trường trình lên Phòng GD&ĐT Yên Định và được phòng phê duyệt ) để giới thiệu về bộ môn Ngữ văn, cấu trúc SGK Ngữ văn THCS nói chung và SGK Ngữ văn 6 nói riêng; hướng dẫn các em soạn bài, cách thức học các bài học cụ thể của từng phân môn trong bộ môn này; hướng dẫn các em chuẩn bị sách vở và những dụng cụ học tập cần thiết cho bộ môn. Tuy nhiên, một tiết học 45 phút không thể giúp các em nhớ hết và nắm bắt ngay, đầy đủ về những nội dung phổ biến trên, vì thế trong quá trình giảng dạy, tôi luôn nhắc nhở và hướng dẫn thêm để các em dần thành thạo được các kỹ năng cơ bản này nhằm đáp ứng được nhu cầu môn học.
 Tiếp đến, tôi thường xuyên kiểm tra sách vở đồ dùng học tập của môn học ở các em. Có thể kết hợp với Đội để kiểm tra định kỳ hoặc tự mình kiểm tra đột xuất để có những điều chỉnh nhắc nhở phù hợp và kịp thời đối với các em. Khi kiểm tra bài cũ đối với các em có thể ghi vắn tắt nhận xét, kí xác nhận và yêu cầu HS mang về trình cho bố mẹ xem, kí xác nhận bên cạnh để phụ huynh có thể nắm bắt, cập nhật bịp thời tình hình học tập trên lớp cũng như chuẩn bị bài ở nhà của con em mình( việc làm này rất cần thiết và có hiệu quả đối với các em học yếu và lười học). Đối với những phụ huynh ở xa, tôi sẽ liên hệ qua hệ thống sổ liên lạc điện tử của Nhà trường hoặc liên lạc trực tiếp qua số điện thoại cá nhân để trao đổi cụ thể về tình hình học tập của các em.
 Bản thân tôi lập một sổ theo dõi cá nhân học sinh ở bộ môn ngữ văn mình phụ trách. Trong sổ, tôi ghi chép, theo dõi từng cá nhân học sinh về thái độ học tập, nhật kí kiểm tra bài cũ, khả năng tiếp thu, quá trình rèn luyện môn học, để nắm bắt khả năng học tập bộ môn, sự tiến bộ hay thụt lùi của học sinh để có kế hoạch uốn nắn điều chỉnh và cũng để kịp thời thông báo với phụ huynh các em
 Đi vào cụ thể mỗi bài học, tiết nào cũng vậy, dù bài dài hay ngắn tôi cũng cố gắng dành khoảng 3-5 phút cuối để hướng dẫn các em học ở nhà và chuẩn bị bài học cho tiết sau.
 Đối với HS lớp chủ nhiệm tôi còn có những cách vận dụng sau: Để giúp các em có thể đọc trước, nắm bắt được nội dung các tác phẩm truyện, sâu xa hơn nữa là khơi dậy khả năng, sự yêu thích, đam mê đọc sách ( đặc biệt là những tác phẩm văn học lớn), tôi có thể cho các em đọc trước trên lớp trong giờ sinh hoạt 15 phút, hoặc giờ sinh hoạt lớp cuối tuần, cho các em thi đua kể lại truyện khi đã đọc, việc làm này sẽ giúp GV và HS rút ngắn được thời gian đọc văn bản( nhất là đối với những văn bản truyện dài, những đoạn trích của một văn bản lớn) khi trực tiếp giảng dạy trong tiết học trên lớp mà không ảnh hưởng đến sự tiếp cận văn bản của học sinh, lại giúp các em nhớ lâu và có thời gian nhiều hơn để thực hiện các nội dung khác trong bài học. Tận dụng những giờ sinh hoạt 15 phút để giải quyết những thắc mắc và hướng dẫn các em một số phương pháp, kĩ năng học và chuẩn bị bài cho môn văn khi các 

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_bien_phap_nang_cao_chat_luong_gio_day_hoc_mon_ng.doc