SKKN Một số biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục Kĩ năng sống cho học sinh ở trường Tiểu học Nguyễn Văn Trỗi, Thành phố Thanh Hóa
Hiện nay, ngành Giáo dục và Đào tạo cả nước đang tiếp tục triển khai chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế. Mục tiêu tổng quát của của Nghị quyết được xác định đó là: “Giáo dục và đào tạo là giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; sống tốt và làm việc hiệu quả”.
Để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho thế hệ trẻ, đáp ứng nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế và nhu cầu phát triển của người học, giáo dục phổ thông đã và đang được đổi mới mạnh mẽ theo bốn trụ cột của giáo dục thế kỉ XXI, mà thực chất là cách tiếp cận kĩ năng sống; đó là: “Học để biết, Học để làm, Học để sống và Học để tự khẳng định mình ”.
1. MỞ ĐẦU 1.1. Lí do chọn đề tài. Hiện nay, ngành Giáo dục và Đào tạo cả nước đang tiếp tục triển khai chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế. Mục tiêu tổng quát của của Nghị quyết được xác định đó là: “Giáo dục và đào tạo là giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; sống tốt và làm việc hiệu quả”. Để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho thế hệ trẻ, đáp ứng nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế và nhu cầu phát triển của người học, giáo dục phổ thông đã và đang được đổi mới mạnh mẽ theo bốn trụ cột của giáo dục thế kỉ XXI, mà thực chất là cách tiếp cận kĩ năng sống; đó là: “Học để biết, Học để làm, Học để sống và Học để tự khẳng định mình ”. Kĩ năng sống là những kĩ năng tâm lý – xã hội cơ bản giúp cho cá nhân tồn tại và thích ứng trong cuộc sống, giúp cho cá nhân vững vàng trước cuộc sống có nhiều thách thức nhưng cũng nhiều cơ hội trong thực tại KNS đơn giản là tất cả điều cần thiết mà chúng ta phải biết để có được khả năng thích ứng với những thay đổi diễn ra hằng ngày trong cuộc sống. Nhiều nghiên cứu đã cho phép đi đến kết luận là trong các yếu tố quyết định sự thành công của con người, kỹ năng sống đóng góp đến khoảng 85%. Vì vậy, KNS sẽ là hành trang không thể thiếu. Biết sống, làm việc, và thành đạt là ước mơ không quá xa vời, là khát khao chính đáng của những ai biết trang bị cho mình những Kĩ năng sống cần thiết và hữu ích. KNS tốt thúc đẩy thay đổi cách nhìn nhận bản thân và thế giới, tạo dựng niềm tin, lòng tự trọng, thái độ tích cực và động lực cho bản thân, tự mình quyết định số phận của mình. KNS giúp giải phóng và vận dụng năng lực tiềm tàng trong mỗi con người để hoàn thiện bản thân, tránh suy nghĩ theo lối mòn và hành động theo thói quen trên hành trình biến ước mơ thành hiện thực. Quá trình hội nhập với thế giới đòi hỏi phải nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, ngoài kiến thức chuyên môn, yêu cầu về các KNS ngày càng trở nên quan trọng. Thiếu kỹ năng sống con người dễ hành động tiêu cực, nông nổi. Giáo dục cần trang bị cho người học những kỹ năng thiết yếu như ý thức về bản thân, làm chủ bản thân, đồng cảm, tôn trọng người khác, biết cách hợp tác và giải quyết hợp lý các mâu thuẫn, xung đột. Nghiên cứu gần đây về sự phát triển của não trẻ cho thấy rằng khả năng giao tiếp với mọi người, khả năng biết tự kiểm soát, thể hiện các cảm giác của mình, biết cách ứng xử phù hợp với các yêu cầu, biết giải quyết các vấn đề cơ bản một cách tự lập có những ảnh hưởng rất quan trọng đối với kết quả học tập của trẻ tại trường. KNS chính là nhịp cầu giúp con người biến kiến thức thành thái độ, hành vi và thói quen tích cực, lành mạnh. Do đó, việc dạy trẻ kĩ năng sống là điều rất cần thiết, đặc biệt với trẻ tiểu học vì các em chính là chủ nhân tương lai của đất nước, là những người sẽ quyết định sự phát triển của đất nước trong những năm tới. Nếu không có KNS các em sẽ không thể thực hiện tốt trách nhiệm đối với bản thân, gia đình, cộng đồng và đất nước. Lứa tuổi học sinh là lứa tuổi đang hình thành những giá trị nhân cách, giàu ước mơ, ham hiểu biết thích tìm tòi, khám phá song còn thiếu hiểu biết sâu sắc về xã hội, còn thiếu kinh nghiệm sống, dễ bị lôi kéo kích động Đặc biệt là trong bối cảnh hội nhập quốc tế và cơ chế thị trường hiện nay, thế hệ trẻ hiện nay thường xuyên chịu tác động đan xen của những yếu tố tích cực và tiêu cực. Nếu không được giáo dục kĩ năng sống, nếu thiếu kĩ năng sống các em dễ bị lôi kéo vào những hành vi tiêu cực bạo lực, vào lối sống ích kỉ, thực dụng, dễ bị phát triển lệch lạc về nhân cách. Khi bắt đầu đi học cũng là lúc trẻ bắt đầu tiếp xúc với xã hội rất cần hoàn thiện và phát triển các KNS cho riêng mình. Chính những KNS các em tiếp nhận được những năm đầu tiên đi học sẽ theo các em suốt cả cuộc sống sau này. Ngay từ Tiểu học các em đã có những kĩ năng tốt, cuộc sống sau này sẽ rộng mở với các em hơn. Nếu ngược lại, sau này các em sẽ rất khó khăn để sửa chữa những kĩ năng sống không tốt và gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống. Là một giáo viên Tổng phụ trách Đội chuyên trách, người hằng năm lập kế hoạch dạy học hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp cho nhà trường nhận thức rõ tầm quan trọng và sự cần thiết của việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh phổ thông nói chung, học sinh Tiểu học nói riêng. Để góp phần thực hiện nhiệm vụ năm học, tôi đã mạnh dạn đi sâu nghiên cứu: “Một số biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục Kĩ năng sống cho học sinh ở trường Tiểu học Nguyễn Văn Trỗi, Thành phố Thanh Hóa”. 1.2. Mục đích nghiên cứu: - Làm sáng tỏ cơ sở lí luận về công tác quản lí giáo dục nói chung và công tác quản lí giáo dục ở trường tiểu học Nguyễn Văn Trỗi nói riêng. - Đánh giá thực trạng về biện pháp quản lí giáo dục kĩ năng sống cho học sinh của trường tiểu học Nguyễn Văn Trỗi. - Đề xuất và thử nghiệm các biện pháp quản lí Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh để góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, hình thành nhân cách tốt cho học sinh, thực hiện mục tiêu của giáo dục tiểu học, trên cơ sở đó rút ra kết luận và khuyến nghị cần thiết. 1.3. Đối tượng nghiên cứu: Kỹ năng sống của học sinh trường tiểu học Nguyễn Văn Trỗi, Thành phố Thanh Hóa. 1.4. Phương pháp nghiên cứu: 1.4.1. Phương pháp nghiên cứu lí thuyết - Tìm hiểu các khái niệm, thuật ngữ có liên quan. - Nghiên cứu các văn bản, nghị quyêt, các tài liệu có liên quan đến sáng kiến kinh nghiệm. 1.4.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: - Phương pháp quan sát. - Phương pháp phỏng vấn. - Phương pháp điều tra. - Phương pháp phân tích và tổng hợp kinh nghiệm. - Phương pháp thực nghiệm. 2. NỘI DUNG 2.1. Cơ sở lí luận. Kĩ năng là năng lực hay khả năng chuyên biệt của một cá nhân về một hoặc nhiều khía cạnh nào đó được sử dụng để giải quyết tình huống hay công việc nào đó phát sinh trong cuộc sống. KNS là những trải nghiệm có hiệu quả nhất, giúp giải quyết hoặc đáp ứng các nhu cầu cụ thể trong suốt quá trình tồn tại và phát triển của con người. Kĩ năng sống bao gồm cả hành vi vận động của cơ thể và tư duy trong bộ não của con người. Kĩ năng sống có thể hình thành một cách tự nhiên, thông qua giáo dục hoặc rèn luyện của con người. Vậy vì sao phải rèn luyện KNS cho học sinh? Vì khi trẻ bắt đầu đi học tiểu học, các em được học thêm những điều chưa hề có trong sáu năm đầu đời. Các em chuyển từ hoạt động vui chơi sang hoạt động chủ đạo là học, chắc chắn trẻ không tránh khỏi bỡ ngỡ vì thế phải chuẩn bị cho các em tâm thế sẵn sàng đi học. Việc rèn KNS cho học sinh tiểu học cũng được bắt đầu từ những buổi đầu các em đến trường. Đối với học sinh tiểu học việc hình thành các kĩ năng cơ bản trong học tập và sinh hoạt là vô cùng quan trọng, ảnh hưởng đến quá trình hình thành và phát triển nhân cách sau này của các em. Đặc điểm nhân cách của trẻ tiểu học gồm có: tính cách, nhu cầu, nhận thức, tình cảm, sự phát triển của năng khiếu. Sự nhận thức của trẻ ảnh hưởng rất lớn đến phát triển nhân cách, ảnh hưởng đến sự hình thành và rèn luyện KNS. Sự nhận thức đúng đắn sẽ giúp trẻ có được kiến thức vận dụng trong cuộc sống, sinh hoạt, giao tiếp, ứng xử phù hợp với yêu cầu chuẩn mực xã hội. Một đặc điểm quan trọng trong lứa tuổi tiểu học là tính hay bắt chước. Tính bắt chước là con dao "hai lưỡi", vì trẻ em bắt chước cái tốt cũng nhiều, cái xấu cũng lắm. Những tính cách, hành vi xung quanh là môi trường ảnh hưởng trực tiếp đến tính cách, hành vi ứng xử của trẻ. Ở trường, các em thường bắt chước những cử chỉ, tác phong của thầy giáo, cô giáo mình và các hành vi ứng xử của bạn bè, tập thể nhóm bạn, tổ, lớp. Chính vì vậy, hoạt động tập thể cũng ảnh hưởng không ít đến việc hình thành, phát triển nhân cách, rèn luyện KNS của trẻ. Trong giai đoạn hiện nay, Việt Nam đang hội nhập với các nước trên thế giới từng bước phát triển vươn lên. Những mặt tốt của xã hội được phát triển mạnh song những vấn đề mặt trái của xã hội cũng xuất hiện nhiều ảnh hưởng đến sự tồn tại, phát triển của mỗi tập thể, cá nhân trong đó có một bộ phận là học sinh tiểu học. Theo guồng quay của xã hội, một số gia đình bố mẹ chỉ mải lo đến làm kinh tế, quên mất gia đình là chiếc nôi của trẻ, quên đi cần tạo sự đầm ấm trong gia đình, người lớn phải gương mẫu, quan tâm dạy dỗ trẻ. Một số gia đình phó mặc việc dạy dỗ trẻ cho nhà trường. Cũng có nhiều gia đình có điều kiện kinh tế, quá chiều chuộng con dẫn đến trẻ thiếu sự sáng tạo, luôn ỷ lại, phụ thuộc vào người lớn; mỗi khi gặp tình huống trong thực tế lúng túng không biết xử lí thế nào, hạn chế trong việc tự bảo vệ bản thân mình. Giáo dục KNS cho học sinh là giáo dục cho các em có cách sống tích cực trong xã hội hiện đại, là xây dựng hoặc thay đổi ở các em các hành vi theo hướng tích cực phù hợp với mục tiêu phát triển toàn diện nhân cách người học trên cơ sở giúp học sinh có tri thức, thái độ và kĩ năng phù hợp. Bên cạnh học các môn văn hóa, nếu trẻ được chú ý giáo dục đạo đức, được rèn KNS, biết phân biệt cái tốt, cái xấu, biết từ chối cám dỗ, biết ứng xử, biết tự quyết định đúng trong một số tình huống thì chính trẻ sẽ là người tác động tốt đến gia đình và xã hội. 2.2. Thực trạng việc rèn kỹ năng sống cho học sinh ở trường Tiểu học Nguyễn Văn Trỗi, Thành phố Thanh Hóa. * Về phía nhà trường: Trường Tiểu học Nguyễn Văn Trỗi nằm ngay trung tâm thành phố Thanh Hóa, cùng với bề dày thành tích dạy và học, mục tiêu của nhà trường là giáo dục học sinh một cách toàn diện. Năm học 2017-2018, nhà trường có 35 lớp với tổng số 1456 học sinh. Trong hoạt động chuyên môn, nhà trường thường xuyên nghiên cứu, cải tiến nâng cao chất lượng giảng dạy theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh, không ngừng đổi mới PPDH phù hợp với nội dung chương trình. Và đặc biệt chú trọng đến việc "Rèn kỹ năng sống" cho học sinh. Nhà trường coi đây là một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu trong việc thực hiện mục tiêu giáo dục. Chính vì thế ngay sau khi Bộ Giáo dục và Đào tạo đưa nội dung giáo dục KNS lồng ghép vào các môn học và hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, nhà trường tiến hành triển khai đồng bộ đến toàn thể cán bộ giáo viên về việc tăng cường rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh. Đẩy mạnh thực hiện phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”. Yêu cầu mỗi thầy, cô giáo cần tâm huyết, trách nhiệm hơn trong việc giáo dục đạo đức, nhân cách cho học sinh. Mỗi giáo viên trong nhà trường không chỉ nâng cao chất lượng chuyên môn nghiệp vụ, mà còn thường xuyên quan tâm đến đời sống, tâm tư tình cảm của học sinh. Yêu cầu là như vậy nhưng kết quả của việc rèn KNS cho HS tuy có nhiều tiến bộ nhưng thực sự vẫn chưa đáp ứng với yêu cầu của xã hội hiện nay. * Về phía giáo viên: - Một bộ phận giáo viên chưa thực sự quan tâm đến việc giáo dục KNS cho học sinh mà chỉ chú trọng truyền thụ kiến thức ở sách giáo khoa nên chưa đầu tư thời gian tìm tòi nghiên cứu các hình thức và phương pháp tổ chức cho các hoạt động rèn kĩ năng sống nên chưa tạo được sự hứng thú học tập cho học sinh. - Vẫn còn một bộ phận GV chưa nắm chắc về nội dung giáo dục KNS theo từng khối lớp, chưa biết vận dụng từ những kế hoạch định hướng chung của nhà trường để đưa vào kế hoạch cụ thể rèn kĩ năng sống cho học sinh của lớp mình. *Về phía học sinh: - Học sinh chỉ chú trọng học kiến thức, khả năng ứng phó với một số tình huống trong cuộc sống chưa tốt. - Một bộ phận học sinh học tập thụ động, chủ yếu chỉ nghe và làm theo thầy cô giáo, ít sáng tạo, tính tự giác chưa cao, lười hoạt động. - Kỹ năng giao tiếp của một số học sinh vẫn còn hạn chế, vẫn còn hiện tượng nói tục, chửi bậy ở một số học sinh. *Về phía phụ huynh: - Đa số phụ huynh cho rằng con em mình chỉ cần học giỏi kiến thức.Có phụ huynh nóng vội trong việc dạy con; họ chỉ chú trọng đến việc dạy con mình biết đọc, biết viết, hoặc biết làm toán mà không cần quan tâm đến việc con học được KNS nào khi đến trường. - Phụ huynh học sinh chỉ khuyến khích các con tìm tòi kiến thức mà quên hướng cho con em mình làm tốt hoạt động đoàn thể, hoạt động xã hội và cách ứng xử trong gia đình. - Một bộ phận phụ huynh chiều chuộng con cái khiến trẻ không có kĩ năng tự phục vụ. Khi tiến hành khảo sát học sinh khối 3 tôi thu được kết quả như sau: Tổng số học sinh được khảo sát : 200 em Kỹ năng sống Mức độ đạt được Tốt Khá Đạt yêu cầu Chưa đạt yêu cầu SL % SL % SL % SL % Kĩ năng giao tiếp 42 21.0 55 27.5 58 29.0 45 22.5 Kĩ năng phòng chống tai nan thương tích. 40 20.0 50 25.0 63 31.5 47 23.5 Kĩ năng xử lý tình huống 45 22.5 60 30.0 53 26.5 42 21.0 Kĩ năng thể hiện sự tự tin 67 33.5 54 27.0 47 23.5 32 16.0 Kĩ năng tự phục vụ 50 25.0 55 27.5 65 32.5 30 15.0 Kết quả thống kê khảo sát đã cho thấy số học sinh có KNS ở mức độ tốt và khá còn chiếm tỷ lệ thấp, số học sinh có KNS chưa đạt yêu cầu chiếm tỷ lệ cao. 2.3. Một số biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục kỹ năng sống cho học sinh ở trường Tiểu học Nguyễn Văn Trỗi, Thành phố Thanh Hóa. 2.3.1. Tuyên truyền nâng cao nhận thức trong cán bộ giáo viên về giáo dục kĩ năng sống. - Nhà trường cần triển khai đầy đủ các văn bản, hướng dẫn của Sở GD & ĐT Thanh Hóa, Phòng GD & ĐT Thành phố Thanh Hóa về thực hiện giáo dục kĩ năng sống tại các cơ sở giáo dục phổ thông. - Thông qua sinh hoạt chuyên môn, các tổ chuyên môn nhấn mạnh tầm quan trọng của việc giáo dục KNS cho học sinh thể hiện ở các nội dung sau : + KNS thúc đẩy sự phát triển cá nhân và xã hội. + Giáo dục KNS là yêu cầu cấp thiết đối với thế hệ trẻ. + Giáo dục KNS nhằm thực hiện yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông. + Đội ngũ giáo viên là bộ phận không thể thiếu trong quá trình giáo dục và rèn luyện KNS cho học sinh. + Liệt kê những môn học, bài học, có thể lồng ghép tích hợp việc giáo dục KNS cho học sinh. - Tiếp tục nâng cao nhận thức trong đội ngũ để giáo viên xác định giáo dục kĩ năng sống là một trong 5 nội dung chủ yếu của phong trào thi đua“ Xây dựng trường học thân thiên, học sinh tích cực.” Nếu làm tốt công tác tuyên truyền thì mỗi giáo viên mới ý thức được trách nhiệm cũng như vai trò của mình trong giáo dục KNS cho học sinh. Giáo dục KNS chỉ thật sự có hiệu quả khi người thầy có tâm huyết, sự kiên nhẫn và thời gian. 2.3.2. Xây dựng văn hoá giao tiếp, ứng xử, chào hỏi trong nhà trường. “Tiên học lễ, hậu học văn”. Để rèn học sinh có những kỹ năng trong giao tiếp, ứng xử với bạn bè, thầy cô một cách chuẩn mực, phù hợp nhà trường cần tổ chức phát động xây dựng văn hóa giao tiếp, ứng xử, văn hóa chào hỏi ngay từ đầu năm học và là một trong những tiêu chí thi đua để xây dựng “trường học thân thiện, học sinh tích cực”. Vai trò của nhà trường thực sự quan trọng trong việc quy định các vấn đề : Chào như thế nào? thưa như thế nào? xưng hô ra sao ? ứng xử với nhau như thế nào trong một số tình huống .Nhà trường sẽ lựa chọn và quy định dựa trên những chuẩn mực chung về đạo đức của xã hội. Chính vì vậy việc xây dựng chuẩn mực về lời nói, hành vi trong giao tiếp, ứng xử, chào hỏi một cách mẫu mực trong trường tôi được quy định cụ thể như sau: * Xưng hô giữa các đồng nghiệp trong nhà trường: GV trong giao tiếp xưng hô thầy/cô + tên, khi cần phải giới thiệu thì thầy / cô + tên+ chức danh. * Xưng hô giữa giáo viên với học sinh : Dùng cách xưng hô phổ biến nhất biểu hiện mối quan hệ xã hội giữa hai chủ thể giao tiếp trong quá trình dạy học là : “Thầy”, “Cô” – “Em” * Xưng hô giữa học sinh với học sinh: ngay tuần đầu của năm học, học sinh được học tập nội quy trường, lớp trong đó có nội dung quy định xưng hô trong giao tiếp giữa học sinh với nhau như sau: học sinh học lớp lớn xưng với các em lớp nhỏ hơn mình là anh/chị. Nếu cùng khối lớp xưng là bạn/ mình/, cậu/ tớ hoặc gọi tên. Nếu lớp nhỏ hơn thì xưng bằng em.Trong giao tiếp phải luôn có cử chỉ thân thiện, sử dụng “Lời hay, ý đẹp”, không nói tục, chửi bậy. Phải đoàn kết bạn bè, quan tâm giúp đỡ nhau cùng tiến bộ, giữ bình tĩnh trong giao tiếp, khi có vướng mắc, thấy những biều hiện khác thường phải thưa với thầy/ cô để giải quyết. Nghiêm cấm mọi hành vi trêu chọc, gây gỗ, đánh nhau làm mất đoàn kết trong và ngoài nhà trường. * Việc chào hỏi của học sinh được quy định “Chào em” với lớp dưới và “Em chào anh/ chị với” lớp trên. Khi chào các thầy cô và người lớn tuổi phải đứng ngay ngắn, khoanh tay và hơi cúi đầu nói “ Em chào thầy/cô ạ” hoặc “ Cháu chào cô/chú/bác ạ”. Khi giáo viên vào lớp lớp trưởng sẽ hô cho cả lớp đứng dậy và đồng loạt đứng nghiêm, đầu hơi cúi xuống để chào các thầy, cô. Các thầy cô cũng làm tương tự đối với các em. Việc xây dựng văn hóa giáo tiếp, ứng xử chào hỏi trong nhà trường là một nhiệm vụ của mỗi giáo viên, đặc biệt là giáo viên chủ nhiệm. Điều này cần thực hiện thường xuyên để trở thành kỹ năng với mỗi học sinh. Việc này không tách rời bài giảng, bởi khi dạy học, giáo viên không chỉ dạy kiến thức mà còn phải giáo dục nhân cách cho học sinh nhằm đảm bảo mục tiêu đào tạo thế hệ trẻ thành những con người giỏi về năng lực, tốt về đạo đức. Muốn học sinh giao tiếp và ứng xử có văn hoá, trước hết thầy, cô giáo phải gương mẫu, phải chuẩn mực trong từng lời nói, cử chỉ trước học sinh để các em noi theo. Mỗi CBGV cần chú trọng việc giao tiếp, ứng xử giữa giáo viên với giáo viên, giữa giáo viên với phụ huynh, giữa giáo viên với học sinh vì mỗi lời nói của thầy cô giáo có tác động trực tiếp đến học sinh nhất là học sinh tiểu học các em rất dễ bắt chước làm theo. Đối với học sinh tiểu học, người giáo viên là thần tượng, là tấm gương soi lớn nhất, là lí tưởng nhất. Học trò tiểu học là một bản sao của các thầy cô giáo. Trong rất nhiều trường hợp điều thầy nói là chân lí, điều thầy làm là chuẩn mực. Học sinh tiểu học rất tin vào lời dặn dò, vào việc làm của giáo viên hơn cả điều in trong sách, hơn cả điều cha mẹ dặn dò khuyên nhủ. Mỗi giáo viên cần phải xây dựng một thái độ trung thực, thẳng thắn trong cách đối xử với học sinh, phải công bằng và đặc biệt khi đứng trước học sinh, giáo viên phải thực sự gương mẫu từ cách ăn mặc đến cử chỉ, lời nói. 2.3.3. Tăng cường giáo dục kĩ năng sống qua các môn học Nhà trường chỉ đạo sát sao việc giáo viên giáo dục KNS cho học sinh trong thông qua dạy các môn học Tiếng Việt, Đạo đức, Tự nhiên và Xã hội (khối 1,2,3) Khoa học ( lớp 4,5) nhưng không phải lồng ghép, tích hợp thêm kĩ năng sống vào nội dung các môn học mà đó là việc sử dụng các phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực để tạo điều kiện, cơ hội cho học sinh được thực hành, trải nghiệm kĩ năng sống trong quá trình học tập. Vì vậy, để thực hiện tốt được điều này, thiết nghĩ cần đảm bảo các yêu cầu sau: Đưa nội dung giáo dục KNS vào sinh hoạt tổ chuyên môn ngay từ đầu năm học. Yêu cầu giáo viên đi sâu thảo luận, trao đổi kinh nghiệm trong việc vận dụng các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực có tác dụng giáo dục kĩ năng sống để cùng nhau vận dụng. Để giáo dục KNS cho học sinh trong các môn học: Tiếng Việt; Đạo đức; Khoa học ( lớp 4,5); TN và XH ( lớp 1,2,3) có hiệu quả thì giáo viên phải có sự đầu tư trong việc xây dựng kế hoạch bài học, đồng thời đòi hỏi người lãnh đạo, quản lí phải giám sát chặt chẽ việc thực hiện các quy định về giáo dục KNS trong các môn học của giáo viên thông qua việc kí duyệt kế hoạch bài học và dự giờ thăm lớp báo trước và đột xuất. Trong chương trình môn Tiếng Việt có nhiều bài học có thể giáo dục KNS cho các em, đó là các kĩ năng giao tiếp xã hội, như: Viết tự thuật; Lập danh sách học sinh; Lập thời khóa biểu; Viết thiệp chúc Tết; Viết thư; Điền vào giấy tờ in sẵn; Viết đơn; làm báo cáo hoạt động; Làm biên bản cuộc họp; Làm biên bản vụ việc; Làm biên bản vụ việc; Giới thiệu địa phương; Kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia... được lồng cụ thể qua các tình huống giao tiếp. Để hình thành những kiến thức và rèn luyện KNS cho học sinh qua môn Tiếng Việt, giáo viên cần phải vận dụng nhiều phương pháp dạy phát huy tín
Tài liệu đính kèm:
- skkn_mot_so_bien_phap_nang_cao_chat_luong_giao_duc_ki_nang_s.doc