SKKN Một số biện pháp chỉ đạo thực hiện đổi mới PPDH môn Toán ở Tiểu học theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh

SKKN Một số biện pháp chỉ đạo thực hiện đổi mới PPDH môn Toán ở Tiểu học theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh

Phương pháp dạy học có vai trò rất quan trọng trong việc dạy học ở Tiểu học. Vấn đề này được các nhà giáo dục và xã hội đặc biệt quan tâm, đòi hỏi các nhà quản lý và giáo viên các trường Tiểu học phải có biện pháp quản lý giảng dạy phù hợp, không ngừng đổi mới phương pháp dạy học, nhằm hướng cho học sinh vào hoạt động học tập một cách tích cực, tự giác, chủ động và sáng tạo. Vì thế phương pháp dạy học trẻ đúng và phù hợp với đặc điểm tâm lý của trẻ đó là: “ Phát huy tính tích cực, tự giác chủ động, tư duy sáng tạo của người học, bồi dưỡng năng lực tự học, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên”[1]. Hay nói cách khác đổi mới phương pháp dạy học (PPDH) là sự kết hợp nhuần nhuyễn, sáng tạo giữa kinh nghiệm của giáo viên với những yếu tố mới của PPDH hiện đại. Đổi mới PPDH là sự kết hợp đồng bộ của các khâu: Bồi dưỡng giáo viên, thiết bị dạy học, đánh giá học sinh và quản lý chỉ đạo. Với cách nhìn từ phương pháp mới giáo viên có thể thực hiện việc cải tiến PPDH bằng nhiều cách khác nhau. Nhiều tiết dạy đạt loại giỏi ở hội thi giáo viện dạy giỏi, đôi khi chỉ cần một sự sáng tạo nhỏ trong sử dụng đồ dùng dạy học, khai thác triệt để một khía cạnh trong nội dung sách học, xử lý tinh tế, nhanh nhạy một tình huống sư phạm

Trong thực tế, thời gian gần đây nhiều giáo viên đã chú ý đến việc đổi mới PPDH nhưng cũng còn có một số giáo viên chưa thật sự chú ý hoặc có đổi mới thì cũng mới chỉ dừng lại ở mức độ hết sức khiêm tốn và có phần hạn chế [2]. Trước mục tiêu giáo dục và yêu cầu của việc dạy học hiện nay, việc thực hiện đổi mới PPDH của giáo viên rất cần thiết. Vậy làm thế nào để công tác chỉ đạo đổi mới PPDH môn Toán ở Tiểu học đạt hiệu quả.

Là người trực tiếp làm công tác quản lý chỉ đạo chuyên môn trong nhà trường tiểu học, bản thân không khỏi băn khoăn, trăn trở trước vần đề đặt ra. Để góp phần nâng cao chất lượng dạy học trong nhà trường nói chung, nâng cao hiệu quả việc đổi mới phương pháp dạy học nói riêng. Tôi đã nghiên cứu và áp dụng xin được đưa ra trao đổi cùng đồng nghiệp “ Một số biện pháp chỉ đạo thực hiện đổi mới PPDH môn Toán ở Tiểu học theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh”.

 

doc 23 trang thuychi01 7123
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số biện pháp chỉ đạo thực hiện đổi mới PPDH môn Toán ở Tiểu học theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A. LỜI MỞ ĐẦU
	1. Lý do chọn đề tài
	Phương pháp dạy học có vai trò rất quan trọng trong việc dạy học ở Tiểu học. Vấn đề này được các nhà giáo dục và xã hội đặc biệt quan tâm, đòi hỏi các nhà quản lý và giáo viên các trường Tiểu học phải có biện pháp quản lý giảng dạy phù hợp, không ngừng đổi mới phương pháp dạy học, nhằm hướng cho học sinh vào hoạt động học tập một cách tích cực, tự giác, chủ động và sáng tạo. Vì thế phương pháp dạy học trẻ đúng và phù hợp với đặc điểm tâm lý của trẻ đó là: “ Phát huy tính tích cực, tự giác chủ động, tư duy sáng tạo của người học, bồi dưỡng năng lực tự học, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên”[1]. Hay nói cách khác đổi mới phương pháp dạy học (PPDH) là sự kết hợp nhuần nhuyễn, sáng tạo giữa kinh nghiệm của giáo viên với những yếu tố mới của PPDH hiện đại. Đổi mới PPDH là sự kết hợp đồng bộ của các khâu: Bồi dưỡng giáo viên, thiết bị dạy học, đánh giá học sinh và quản lý chỉ đạo. Với cách nhìn từ phương pháp mới giáo viên có thể thực hiện việc cải tiến PPDH bằng nhiều cách khác nhau. Nhiều tiết dạy đạt loại giỏi ở hội thi giáo viện dạy giỏi, đôi khi chỉ cần một sự sáng tạo nhỏ trong sử dụng đồ dùng dạy học, khai thác triệt để một khía cạnh trong nội dung sách học, xử lý tinh tế, nhanh nhạy một tình huống sư phạm
Trong thực tế, thời gian gần đây nhiều giáo viên đã chú ý đến việc đổi mới PPDH nhưng cũng còn có một số giáo viên chưa thật sự chú ý hoặc có đổi mới thì cũng mới chỉ dừng lại ở mức độ hết sức khiêm tốn và có phần hạn chế [2]. Trước mục tiêu giáo dục và yêu cầu của việc dạy học hiện nay, việc thực hiện đổi mới PPDH của giáo viên rất cần thiết. Vậy làm thế nào để công tác chỉ đạo đổi mới PPDH môn Toán ở Tiểu học đạt hiệu quả.
Là người trực tiếp làm công tác quản lý chỉ đạo chuyên môn trong nhà trường tiểu học, bản thân không khỏi băn khoăn, trăn trở trước vần đề đặt ra. Để góp phần nâng cao chất lượng dạy học trong nhà trường nói chung, nâng cao hiệu quả việc đổi mới phương pháp dạy học nói riêng. Tôi đã nghiên cứu và áp dụng xin được đưa ra trao đổi cùng đồng nghiệp “ Một số biện pháp chỉ đạo thực hiện đổi mới PPDH môn Toán ở Tiểu học theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh”.
2. Mục đích nghiên cứu
Đưa ra một số biện pháp để chỉ đạo giáo viên áp dụng đổi mới PPDH môn Toán ở trường Tiểu học nhằm nâng cao chất lượng dạy học.
3. Đối tương nghiên cứu
- Giáo viên và việc áp dụng PPDH Toán của giáo viên ở trường Tiểu học.
- Một số hạn chế của giáo viên khi thực hiện đổi mới PPDH. 
4. Phương pháp nghiên cứu
- Điều tra, phân tích, tổng hợp tìm nguyên nhân - Dùng biện pháp cụ thể áp dụng chỉ đạo giáo viên dạy học theo PP mới phát huy tính tích cực của học sinh.
5. những điểm mới của sáng kiến “ Một số biện pháp chỉ đạo thực hiện đổi mới PPDH môn Toán ở Tiểu học theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh”:
Áp dụng đổi mới PPDH môn Toán ở Tiểu học cho dạy học toán cả mô hình dạy học truyền thống và cả dạy học theo mô hình mới Việt Nam (VNEN).
B. NỘI DUNG
I. Cơ sở lí luận của sáng kiến.
1. Cơ sở lí luận
Một xu hướng chung của đổi mới phương pháp dạy học Tiểu học là đổi mới theo quan điểm dạy học lấy người học làm trung tâm. Quan điểm này có cơ sở lý luận từ việc nhận thức quá trình dạy học là quá trình có hai chủ thể: Thầy và trò. Cả hai chủ thể này đều chủ động, tích cực, bằng hoạt động của mình hướng tới tri thức, thầy thì hoạt động truyền đạt tri thức, còn trò thì hoạt động chiếm lĩnh tri thức và biến nó thành vốn hiểu biết của mình để tiếp tục hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn [3] Đây là quan điểm dạy học được đa số các nước có nền giáo dục tiên tiến quan tâm. Xin nhấn mạnh rằng, hoạt động của thầy và hoạt động của trò đều là hoạt động có ý thức, dưới sự chỉ huy của ý thức để đạt mục tiêu của mình. Vì vậy, kết quả nhận thức của họ trong các quá trình nhận thức, trước khi đạt đến mức chuyển hóa được thành phương pháp, là công cụ cho họ thực hiện mục đích của mình. Do vậy, bàn về phương pháp dạy học chúng ta phải bàn đến cả phương pháp dạy của thầy và phương pháp học của trò. Sự phù hợp của hai phương pháp này sẽ cho chúng ta hiệu quả thực sự của việc dạy học. SKKN này tập trung vào phương pháp của thầy - một trong hai chủ thể của quá trình dạy học tích cực.
	2. Cơ sở thực tiễn
Sự khác nhau căn bản của 2 quan điểm dạy học dẫn đến sự khác nhau trong việc xác định các phương pháp cụ thể cho từng môn học, bài học, từng phần, từng đối tượng học sinh. 
Thực hiện chương trình dạy học theo quan điểm dạy học lấy người học làm trung tâm thì hoạt động của thầy và trò tương ứng như sau:
- Người học khai phá tri thức, tự nghiên cứu - Thầy chỉ hướng dẫn và cung cấp thông tin.
- Người học tự trả lời các thắc mắc do chính mình đặt ra, tự kiểm tra mình - Thầy là trọng tài.
- Người học tự hành động, tự kiểm tra, tự điều chỉnh - Thầy làm cố vấn.
Để thực hiện được quá trình dạy học theo quan điểm lấy người học làm trung tâm người thầy giáo phải làm gì?
- Vai trò người thầy trong quá trình dạy học theo quan điểm lấy người học là trung tâm không thể bị mờ nhạt mà trái lại còn rõ nét hơn, người thầy vẫn là “linh hồn” của giờ học sinh động và sáng tạo. Bởi vì, để có thể làm người hướng dẫn, cung cấp thông tin, trọng tài, cố vấn người thầy phải hiểu biết sâu sắc những kiến thức cơ bản của môn học mình đảm nhiệm, đồng thời phải tự bổ sung vốn kiến thức của mình thường xuyên và có định hướng rõ ràng qua tài liệu, sách báo
- Người thầy phải nắm vững bản chất và các quy luật của quá trình dạy học để có thể tìm ra hoặc ứng dụng những phương pháp dạy học phù hợp với đối tượng của mình nhất.
Một vấn đề quan trọng là, nhiều giáo viên nhận thức được sự cần thiết phải đổi mới phương pháp nhưng rất khó từ bỏ các phương pháp đã quen dùng. Do đó, muốn thực hiện đổi mới phương pháp dạy học thì trước hết là bản thân mỗi giáo viên phải ý thức được để chủ động từ bỏ các phương pháp dạy học truyền thống đã thành thói quen và chuyển hẳn sang các phương pháp mới.
	II. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
	* Để có cơ sở nghiên cứu vấn đề này, tôi đã tìm hiểu thực trạng về hoạt động đổi mới PPDH tại trường tiểu học và được biết: 
	1. Thực trạng chung
	1.1. Về nhận thức của giáo viên:
	Nhận thức của một bộ phận giáo viên về công tác đổi mới phương pháp còn mang tính chất đối phó, thực hiện cho có mà chưa chú trọng đến hiệu quả.
	1.2. Về phương pháp dạy học
	Trong giảng dạy đại đa số giáo viên đã có ý thức cải tiến PPDH song hiệu quả vẫn chưa cao.
	Vẫn còn nhiều giáo viên lệ thuộc vào hướng dẫn trong sách học, chưa linh hoạt mạnh dạn đổi mới việc tổ chức dạy học phù hợp với đối tượng học sinh và hoàn cảnh địa phương.
	Một số giáo viên chưa thực sự quan tâm đến đổi mới phương pháp dạy học, ít có đầu tư cho bài dạy.
	1.3. Về kiểm tra đánh giá:
	Công tác kiểm tra đánh giá gần đây tuy có nhiều đổi mới nhưng việc kiểm tra, đánh giá đôi khi vẫn còn nặng nề. Chủ yếu mới là giáo viên đánh giá học sinh, còn các em tự đánh giá và tự đánh giá lẫn nhau thì cũng có nhưng chưa phải là việc làm thường xuyên.
	1.4. Về công tác quản lý chỉ đạo:
	Công tác quản lý chỉ đạo đổi mới phương pháp đôi khi còn lỏng lẻo, chưa được quan tâm đúng mức.
	Kinh phí hỗ trợ cho các hoạt động bồi dưỡng đổi mới PPDH còn hạn hẹp.
	Tài liệu cho giáo viên nghiên cứu về việc đổi mới PPDH còn ít.
	2. Thực trạng của trường Tiểu học Thị Trấn:
	Trình độ giáo viên 100% đạt chuẩn và trên chuẩn, đây là điều kiện thuận lợi cho việc tiếp thu việc đổi mới PPDH các môn học Tiểu học nói chung, môn Toán nói riêng.
 	Giáo viên được tập huấn chương trình dạy học của trường học mới Việt Nam, được trang bị về mục tiêu, nội dung chương trình và PPDH các môn học nói chung và môn Toán Tiểu học nói riêng.
	Tuy nhiên việc tiếp cận chương trình và mô hình mới chưa thực sự chủ động và sáng tạo nên một số giáo viên và học sinh còn gặp khó khăn trong dạy - học. Giáo viên mới sử dụng phương pháp, tổ chức cho học sinh hình thành khái niệm mà chưa rèn được kỹ năng (hầu hết trong quá trình làm các bài tập học sinh đều gặp khó khăn nên hiệu quả học tập chưa cao).
	Trong quá trình học tập, một số học sinh còn dè dặt chưa hợp tác, chưa mạnh dạn trong việc thể hiện cá nhân trong nhóm lớp, còn chờ đợi ý kiến của một số bạn đưa ra mới thống nhất
	Học sinh chưa nắm chắc kiến thức về mạch kiến thức học ở lớp dưới hoặc còn nắm bắt kiến thức một cách mơ hồ.
	Thụ động, lười suy nghĩ, áp dụng máy móc, kém linh hoạt. .
	Kỹ năng thao tác vận dụng toán học còn hạn chế.
	3. Kết quả của thực trạng:
	3.1. Kết quả khảo sát: Trong lần khảo sát chất lượng định kỳ cuối năm học 2015-2016 do nhà trường tự ra đề và đánh giá cho thấy chất lượng học sinh trường Tiểu học Thị Trấn Hà Trung chưa cao cần phải được quan tâm chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học môn Toán để đưa chất lượng trường giữ vững chuẩn quốc gia mức độ 2.
	Thống kê kết quả kiểm tra môn Toán kỳ II năm học 2015-2016.
Năm học
Tổng số
học sinh
Kết quả
Điểm 9, 10
Điểm 7,8
Điểm 5,6
Điểm dưới 5
2015-2016
460
346
75,2
70
15,2
32
7,0
12
2,6
	3.2. Nguyên nhân: 
	Qua quá trình dự giờ thăm lớp, thăm dò ý kiến của giáo viên và qua trò chuyện với học sinh tôi nhận thấy:
	- Trong công tác chuyên môn, giáo viên đã chú ý đến đổi mới PPDH song phần lớn mới chỉ được thể hiện qua các tiết thao giảng, thi giáo viên dạy giỏi các cấp, qua các tiết dạy chuyên đề.
	 - Việc đổi mới phương pháp dạy học chưa đồng bộ, mới chỉ thể hiện rõ nét ở số giáo viên giỏi, phụ trách ở một số lớp.
	- Công tác kiểm tra đánh giá việc bồi dưỡng PPDH chưa được thường xuyên và liên tục, còn mang tính hình thức.
	- Chất lượng dạy học chưa thật sự được nâng cao, chưa đồng nhất ở tất cả các môn học.
	3.3. Vấn đề cấp thiết đặt ra: Vấn đề đặt ra là làm thế nào để các em có kết quả học tập môn Toán tốt nhất ở cấp Tiểu học, làm nền tảng cho HS học Toán các cấp học sau này?
	Từ thực trạng trên, để hoạt động dạy học trong nhà trường đạt hiệu quả tốt hơn, tôi đã mạnh dạn đưa ra “Một số biện pháp chỉ đạo thực hiện đổi mới phương pháp dạy học môn Toán theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh”, áp dụng công tác chỉ đạo thực hiện chuyên môn trong nhà trường năm học 2016-2017. Với mong muốn, công tác dạy và học trong nhà trường nói chung, công tác dạy và học môn Toán nói riêng đạt hiệu qủa tốt hơn. Góp phần nâng cao chất lượng dạy và học trong các nhà trường.
	III. Các giải pháp và tổ chức thực hiện nhằm nâng cao chất lượng dạy - học môn Toán.
	Qua quá trình quản lý chỉ đạo chuyên môn trong nhà trường, tôi nhận thấy rằng để công tác đổi mới phương pháp dạy học môn Toán ở Tiểu học đạt hiệu quả tôi đã chỉ đạo giáo viên tập trung áp dụng các biện pháp cụ thể sau:
	1. Biện pháp 1: Biết phối hợp các phương pháp dạy học và hình thức tổ chức dạy học.
	1.1. Dạy học đảm bảo sự thống nhất hợp lý các yêu cầu: Cá nhân- Nhóm- Lớp [3].
	Như chúng ta đã biết, ở cùng một lứa tuổi, học sinh có đặc điểm chung về tâm lý và học cùng một lớp. Nội dung kiến thức cơ bản trong từng bài học ở chương trình mới môn Toán đáp ứng nhu cầu tiếp thu của tất cả học sinh. Mỗi tiết dạy sách học hoặc giáo viên phải thiết kế một quy trình dạy học cho học sinh cả lớp hoạt động học: từ cá nhân-nhóm-lớp phù hợp với quỹ thời gian quy định cho một tiết dạy. Bên cạnh đó cần nhận rõ rằng mỗi trẻ em có sự khác biệt với trẻ em cùng lứa tuổi về nhu cầu và năng lực cá nhân.
	Vì vậy, ở mỗi bài dạy cụ thể tôi đã yêu cầu giáo viên phải biết tạo cơ hội để học sinh bộc lộ tốt nhất những năng lực sở trường của cá nhân được thể hiện ở cách học và dung lượng kiến thức đến với học sinh thông qua hệ thống câu hỏi, bài luyện tập thực hành, sử dụng đồ dùng dạy học
 Tôi chỉ đạo giáo viên sử dụng các hình thức học tập theo định hướng đổi mới phát huy tính tích cực học tập ở học sinh.
 * Học cá nhân: (trên lớp) HS hoạt động theo hướng dẫn của giáo viên. 
Trong lúc học cá nhân từng học sinh có thể hỏi ý kiến, trao đổi với bạn, với giáo viên. Giáo viên theo dõi, hướng dẫn, kiểm tra một số học sinh, ...
 * Học theo nhóm: Tùy từng bài giáo viên có thể chia nhóm:
 - Nhóm hỗn hợp: Hình thức này thường hoạt động đều trong các tiết học để các em giúp đỡ, tương tác, đánh giá lẫn nhau.
 - Nhóm theo trình độ ( Hay nhóm chuyên sâu): Thường áp dụng vào các tiết thực hành. Giáo viên có thể phụ đạo học sinh yếu: giao bài toán giống và tương tự mẫu; đồng thời bồi dưỡng học sinh khá, giỏi bằng cách: giao bài toán nâng cao hay bài có tính sáng tạo, yếu tố sáng tạo.
- Ngoài ra còn có thể chia nhóm theo địa bàn dân cư: xếp những học sinh cùng xóm, cùng trục đường để các em có thể giúp đỡ lẫn nhau học tập ngoài giờ học ở trường ( nhóm bạn cùng tiến).
* Học theo lớp: Tất cả ý kiến của các nhóm được trao đổi, thảo luận rộng rãi hơn để tìm ra những kết luận hợp lí. Tại đây giáo viên sẽ thể hiện rõ vai trò “trọng tài khoa học” giúp các em phân biệt đúng sai, hợp lí hay chưa hợp lí, nên làm theo cách nào là phù hợp.
Giúp các em làm từ những bài đơn giản, cơ bản đến những bài mang tính khái quát cao. Chính từ những việc làm đó góp phần giáo dục các em ý chí vượt khó, cẩn thận chu đáo khi làm việc, phát triển óc độc lập suy nghĩ, sáng tạo ...
	Ví dụ: a. Khi dạy Toán cho học sinh lớp 1
	* Khi dạy bài 5 (trang 132 -SGK Toán 1): Điền dấu +, - vào chỗ .
50  10 = 40	30  20 = 50	40 0 = 40
	Sau khi học sinh cả lớp thực hiện được yêu cầu của bài tập: điền dấu – vào chỗ  thứ nhất , dấu + vào chỗ  thứ 2 và dấu + hoặc dấu – vào chỗ  thứ 3 để có các phép tính đúng: 50- 10 = 40; 30+ 20 = 50; 40 – 0 = 40 hoặc 40 + 0 = 40.
	Giáo viên nên có những câu hỏi: vì sao em lại điền dấu – vào chỗ  thứ nhất mà không phải là dấu +?, tương tự như thế giáo viên đặt câu hỏi với các tình huống còn lại để học sinh suy nghĩ và trả lời. Hoặc giáo viên có thể lật lại vấn đề bằng câu hỏi vì sao chỗ  thứ 3 lại điền được cả hai dấu + hoặc -? Các chỗ  còn lại không điền được cả hai dấu như thế? 
	* Dạy bài 2 ( trang 172 – Toán 1) Viết số thích hợp vào ô trống:
 +3 -5
 6 9
 +2 +2 +3
 8 4
Với bài tập này học sinh chỉ cần điền số thích hợp vào ô trống
 +3	 -5
 	6 9 9 4
	 +2	 +2	 +3
	8	 10	4	 6	 9
Là đúng và đủ, đạt yêu cầu so với chuẩn kiến thức và kỹ năng. Nhưng để tao cơ hội cho học sinh phát triển tư duy ngôn ngữ toán học, giáo viên cần yêu cầu học sinh nhìn vào sơ đồ đặt bài toán tương ứng với sơ đồ đã cho.
	 +3
Ví dụ: 6	 Nhà An nuôi 6 con thỏ, Bố mua thêm 3 con thỏ nữa.
	Hỏi nhà An có tất cả bao nhiêu con thỏ?
	 - 5
	 9 Bình có 9 cái kẹo, Bình cho bạn 5 cái.
	Hỏi Bình còn lại bao nhiêu cái kẹo?
	b. Khi dạy Toán cho học sinh lớp 2
	Dạy bài 3 ( trang 46 – HDH Toán 2 tập 1A) : Tính nhẩm:*
	8 + 2 + 3 =	 8 + 2 + 4= 
	8 + 5 = 	8 + 6 = 
	9 + 1 + 3 =	9 + 1 + 5 =
	9 + 4 =	9 + 6 =
	Học sinh dễ dàng điền được kết quả phép tính
	8 + 2 + 3 = 13	 8 + 2 + 4= 14
	8 + 5 = 13	8 + 6 = 14
	9 + 1 + 3 =	13	9 + 1 + 5 = 15
	9 + 4 = 13	9 + 6 = 15
	Giáo viên tổ chức cho học sinh nhận xét kết quả của 2 phép tính theo cột dọc và yêu cầu học sinh phát hiện: vì sao 2 phép tính lại có kết quả bằng nhau? 
	* Khi dạy bài 64. Số bị chia- số chia- thương ( bài 3. tính nhẩm trang 45 – HDH Toán 2 tập 2A) : 
2 x 4 = 	2 x 10 = 	2 x 8 = 	9 x 2 = 
8 : 2 = 	20 : 2 = 	16 : 2 = 	18 : 2 =
	Học sinh dựa vào bảng nhân, bảng chia 2 để tìm kết quả ghi vào phép tính sau đó giáo viên cho học sinh nhận xét từng cột để củng cố mối quan hệ giữa phép tính nhân và phép tính chia. Từ đó học sinh có thể phát hiện: khi biết kết quả của phép nhân, không cần tính ta cũng có thể điền ngay được kết quả của 2 phép chia tương ứng và để học sinh nắm đuợc bản chất của mối quan hệ phép nhân và phép chia, yêu cầu học sinh giải thích vì sao các cột 1,2 từ 1 phép nhân?
	c. Khi dạy Toán cho học sinh lớp 3
	* Dạy bảng nhân: bài tập cuối cùng của mỗi bài học đều có dạng: 
Đếm thêm 7 rồi viết số thích hợp vào ô trống: ( trang 56 – HDH Toán 3 tập 1A)
7
14
35
63
	Học sinh đếm rồi lần lượt điền vào 5 ô trống theo thư tự từ trái sang phải là: 21; 28; 42; 49; 56; 70. Giáo viên tổ chức cho học sinh phát hiện: Các số trong dãy này chính là tích của 7 với các số tự nhiên liên tiếp từ 1 đến 10 mà trong bảng nhân các em đã được học và giáo viên dùng kết quả của bài tập này để củng cố bài, kiểm tra việc ghi nhớ bảng nhân sau tiết học như: ( 21 là tích của 7 và bao nhiêu?, 42 là tích của 7 và bao nhiêu?...).
	Trong chương trình toán 3 học sinh được học phép chia hết và phép chia còn dư, khi dạy phần nội dung này bắt buộc giáo viên phải tổ chức hướng dẫn để tất cả học sinh nắm được kĩ thuật chia, bên cạnh đó học sinh phải hiểu được phép chia còn dư, số dư bao giờ cũng nhỏ hơn số chia. (Nếu số dư lớn hơn hặc bằng số chia thì bước chia liền trước chưa thực hiện xong, cần phải thực hiện lại).
Bài 1: Tính rồi viết theo mẫu: (trang 53 – HDH Toán 3, tập1A)
b)	17 5 	23 5	29 6	19 4
	15 3	20 4	24 4	16 4
	 2	 3	 5	 3
(Nghĩa là: ở phép chia thứ nhất 17:5 = 3, dư 2 chưa không thể 17:5 = 2, dư 7)
	Bài tập 4: (trang 54 – HDH Toán 3, tập 1A): Trong các phép chia có dư với số chia là 3, số dư lớn nhất của các phép chia đó là:
	A. 3	B. 2	C. 1	D. 0
	Sau khi học sinh tìm được kết quả phép chia còn dư (bài tập 1) và số dư lớn nhất (bài 4), giáo viên khai thác thêm: Phải thêm vào số bị chia mấy đơn vị để phép chia thành phép chia hết? lúc này thương thay đổi thế nào?
	Bài 2: (trang 20 – HDH Toán 3 tập 1B) Nêu bài toán rồi giải theo tóm tắt sau:
	 9 quả táo
	Con: ?quả táo
	Mẹ: 	
	Với bài này ngoài yêu cầu của bài tập giáo viên nên tạo cơ hội phát triển tư duy cho đối tượng học sinh giỏi.
	Cách 1: 	Số quả táo của mẹ là:
	9 x 4 = 36 (quả)
	Số quả táo của 2 mẹ con là:
	9 + 36 = 45 (quả)
	Đáp số: 45 quả
	Cách 2: Từ sơ đồ ta nhận thấy số quả táo của mẹ gấp 4 lần số quả táo của con. Do đó số quả táo của 2 mẹ con có số phần bằng nhau là:
	4 + 1 = 5 ( phần)
	Số quả táo của 2 mẹ con là:
	9 x 5 = 45 (quả)
	Đáp số: 45 quả
	d. Khi dạy Toán cho học sinh lớp 4
	* Dạy bài: Chia một tích cho một số ( Trang 79- HDH Toán 4, tập 1B) 
	Học sinh tiến hành làm bài thông qua 2 ví dụ a và b rút ra được quy tắc, tôi chỉ đạo giáo viên nên đưa ra câu hỏi: “ Khi chia một tích 2 thừa số cho 1 số; 2 thừa số của tích như thế nào so với số chia thì làm được 3 cách, khi nào làm được 2 cách và khi nào chỉ làm được một cách?”. Khi đó học sinh dễ nhận thấy:
	- Khi cả 2 thừa số của tích đều chia hết cho số đó ( 3 cách)
	- Khi 1 trong 2 thừa số của tích chia hết cho số đó ( 2 cách)
	- Khi không có thừa số nào của tích chia hết cho số đó ( 1 cách)
	* Dạy dạng bài: So sánh 2 phân số( Trang 50- HDH Toán 4, tập 2A) 
	Các em học sinh thường hay :
- Quy đồng mẫu số hoặc tử số.
- So sánh phần hơn hoặc phần bù của phân số so với đơn vị.
- So sánh với phân số trung gian hoặc đơn vị.
- So sánh bằng cách tìm thương của 2 phân số. 
	Tôi hướng dẫn giáo viên có thể gợi ý, định hướng, khuyến khích cho học sinh giải bằng nhiều cách khác nhau ( đối với đối tượng học sinh khá giỏi); tùy theo mỗi dạng bài, mỗi bài cụ thể mà chọn cách so sánh hợp lý:
	* Dùng “sơ đồ đoạn thẳng” để so sánh 2 phân số:
	Ví dụ 1: So sánh 2 phân số và 
Ta có sơ đồ: 
	 	- Từ sơ đồ ta thấy > 
	Ví dụ 2: So sánh 2 phân số: và 
Ta có sơ đồ: 
	- Từ sơ đồ ta thấy < 
* Cũng có thể gợi ý cho học sinh tìm thương của 2 phân số. Nếu thương lớn hơn 1 thì số bị chia lớn hơn số chia. Nếu thương nhỏ hơn 1 thì số bị chia nhỏ hơn số chia.
Ví dụ: So sánh 2 phân số và 
Ta thực hiện phép chia như sau: : = 
So sánh thương với 1: 	 <1
Thương nhỏ hơn 1 nên < 
	1.2 Dạy học tự phát hiện - Dạy học hợp tác nhóm
	Với quan điểm đổi mới hiện nay, tất cả các PPDH cần phải tập trung vào hoạt động của học sinh. Phải tạo điệu kiện cơ hội để học sinh tự tìm tòi khám phá, phát hiện nhưng nội dung mới của bài học. Học sinh thông qua cách học tự phát hiện để từng nhóm tạo thói quen làm việc có phương pháp. Tùy theo trình độ học sinh, giáo viên hướng dẫn học sinh biết cách phát hiện và giải quyết vấn đề theo các mức độ:
	Nhận biết → Hiểu rõ → áp dụng vào thực tiễn → phân tích tổng hợp → nhận định đánh giá. Trong từng hoạt động học tập mỗi học sinh phải thật sự làm việc để dần dần hình thành kỹ năng tự phát hiện. Dạy học t

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_bien_phap_chi_dao_thuc_hien_doi_moi_ppdh_mon_toa.doc