SKKN Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy và học Tập làm văn lớp 3

SKKN Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy và học Tập làm văn lớp 3

Giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, đào tạo những con người lao động, tự chủ, năng động, sáng tạo, có những kĩ thuật, có năng suất cao, đáp ứng nhu cầu phân công trong xã hội.Đặc biệt là giáo dục bậc tiểu học là nền tảng cho các bậc học phổ thông. Chính vì vậy, chúng ta cần coi trọng việc nâng cao chất lượng đào tạo.

Ở cấp tiểu học, mỗi môn học đều góp phần vào việc phát triển những cơ sở ban đầu quan trọng của nhân cách con người. Trong các môn học, môn Tiếng Việt là một môn học có vị trí quan trọng trong việc phát triển nhân cách con người, kích thích sự sáng sáng tạo của học sinh, nó góp phần giúp học sinh phát triển ngôn ngữ, là nền tảng cho bậc học tiếp theo.Qua cách miêu tả quan sát các em nhận thức được một số mặt của thế giới xung quanh và biết cách hoạt động có hiệu quả trong đời sống.

Môn Tiếng Việt cùng với các môn học khác, có nhiệm vụ cung cấp cho học sinh 4 kĩ năng đó là: “nghe-nói-đọc-viết”. Trong đó môn Tiếng Việt có các phân môn như: Tập đọc, Kể chuyện, Chính tả, Luyện từ và câu, Tập viết, Tập làm văn Trong đó, phân môn Tập làm văn là phân môn có tính chất tích hợp của các phân môn khác. Qua tiết Tập làm văn, học sinh có khả năng xây dựng một văn bản, đó là bài nói, bài viết. Nói và viết là những hình thức giao tiếp rất quan trọng, thông qua đó con người thực hiện quá trình tư duy-chiếm lĩnh tri thức, trao đổi tư tưởng, tình cảm, quan điểm, giúp mọi người hiểu nhau, cùng hợp tác trong cuộc sống lao động.

 Ngôn ngữ (dưới dạng nói-ngôn bản, và dưới dạng viết-văn bản) giữ vai trò quan trọng trong sự tồn tại và phát triển xã hội. Chính vì vậy, hướng dẫn cho học sinh nói đúng và viết đúng là hết sức cần thiết. Nhiệm vụ nặng nề đó phụ thuộc phần lớn vào việc giảng dạy môn Tiếng Việt nói chung và phân môn Tập làm văn lớp 3 nói rêng. Vấn đề đặt ra là: người giáo viên dạy tập làm văn theo hướng đổi mới như thế nào để đáp ứng được khả năng tiếp thu của học sinh? Cách thức tổ chức, tiến hành tiết dạy Tập làm văn ra sao để đạt hiệu quả như mong muốn.

 

doc 19 trang thuychi01 23253
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy và học Tập làm văn lớp 3", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1. Mở đầu
 1. 1. Lý do chän ®Ò tµi:
Giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, đào tạo những con người lao động, tự chủ, năng động, sáng tạo, có những kĩ thuật, có năng suất cao, đáp ứng nhu cầu phân công trong xã hội.Đặc biệt là giáo dục bậc tiểu học là nền tảng cho các bậc học phổ thông. Chính vì vậy, chúng ta cần coi trọng việc nâng cao chất lượng đào tạo.
Ở cấp tiểu học, mỗi môn học đều góp phần vào việc phát triển những cơ sở ban đầu quan trọng của nhân cách con người. Trong các môn học, môn Tiếng Việt là một môn học có vị trí quan trọng trong việc phát triển nhân cách con người, kích thích sự sáng sáng tạo của học sinh, nó góp phần giúp học sinh phát triển ngôn ngữ, là nền tảng cho bậc học tiếp theo.Qua cách miêu tả quan sát các em nhận thức được một số mặt của thế giới xung quanh và biết cách hoạt động có hiệu quả trong đời sống.
Môn Tiếng Việt cùng với các môn học khác, có nhiệm vụ cung cấp cho học sinh 4 kĩ năng đó là: “nghe-nói-đọc-viết”. Trong đó môn Tiếng Việt có các phân môn như: Tập đọc, Kể chuyện, Chính tả, Luyện từ và câu, Tập viết, Tập làm vănTrong đó, phân môn Tập làm văn là phân môn có tính chất tích hợp của các phân môn khác. Qua tiết Tập làm văn, học sinh có khả năng xây dựng một văn bản, đó là bài nói, bài viết. Nói và viết là những hình thức giao tiếp rất quan trọng, thông qua đó con người thực hiện quá trình tư duy-chiếm lĩnh tri thức, trao đổi tư tưởng, tình cảm, quan điểm, giúp mọi người hiểu nhau, cùng hợp tác trong cuộc sống lao động.
	Ngôn ngữ (dưới dạng nói-ngôn bản, và dưới dạng viết-văn bản) giữ vai trò quan trọng trong sự tồn tại và phát triển xã hội. Chính vì vậy, hướng dẫn cho học sinh nói đúng và viết đúng là hết sức cần thiết. Nhiệm vụ nặng nề đó phụ thuộc phần lớn vào việc giảng dạy môn Tiếng Việt nói chung và phân môn Tập làm văn lớp 3 nói rêng. Vấn đề đặt ra là: người giáo viên dạy tập làm văn theo hướng đổi mới như thế nào để đáp ứng được khả năng tiếp thu của học sinh? Cách thức tổ chức, tiến hành tiết dạy Tập làm văn ra sao để đạt hiệu quả như mong muốn.
1.2. Môc ®Ých cña ®Ò tµi :
Qua thực tế giảng dạy tôi nhận thấy phân môn Tập làm văn là phân môn khó trong các phân môn của môn Tiếng Việt. Do đặc trưng phân môn Tập làm văn với mục tiêu cụ thể là: hình thành và rèn luyện cho học sinh khả năng trình bày văn bản (nói và viết) ở nhiều thể loại khác nhau như: miêu tả, kể chuyện, viết thư, tường thuật, kể lại bản tin, tập tổ chức cuộc họp giới thiệu về mình và những người xung quanh.Trong quá trình tham gia vào các hoạt động học tập này, học sinh với vốn kiến thức còn hạn chế nên thường ngại nói. Nếu bắt buộc phải nói, các em thường đọc lại bài viết đã chuẩn bị trước. Do đó, giờ dạy chưa đạt hiệu quả cao. 
 Xuất phát từ thực tiễn đó, là một giáo viên,qua thực tế một số năm giảng dạy tôi đã chọn viết sáng kiến kinh nghiệm “Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy và học Tập làm văn lớp 3 ”.
1.3. §èi t­îng nghiªn cøu. 
 - Học sinh lớp 3
 - Lµ nh÷ng bµi tËp thuéc m¹ch kiÕn thøc “ Môn Tập Làm Văn” trong ch­¬ng tr×nh líp 3 ë TiÓu häc.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
 Trong qua trình nghiên cứu, tôi đã áp dụng một số phương pháp sau:
 - Phương pháp nghiên cứu tài liệu, lí luận.
 - Phương pháp phân tích, tổng hợp.
 - Phương pháp điều tra, khảo sát
 - Phương pháp luyện tập, thực hành
 - Phương pháp thống kê.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm.
 2.1. Cơ sở lý luận :
Tập làm văn là một trong những phân môn có vị trí quan trọng của môn Tiếng Việt. Phân môn này đòi hỏi học sinh phải vận dụng những kiến thức tổng hợp từ nhiều phân môn. Để làm được một bài văn, học sinh phải sử dụng cả bốn kỹ năng: nghe, nói, đọc, viết. Phải vận dụng các kiến thức về tiếng việt, về cuộc sống thực tiễn. 
Phân môn Tập làm văn rèn luyện cho học sinh các kỹ năng tạo tập văn bản, trong quá trình lĩnh hội các kiến thức khoa học, góp phần dạy học sinh sử dụng tiếng việt trong đời sống sinh hoạt. Vì vậy, tập làm văn được coi là phân môn có tính tổng hợp, có liên quan mật thiết đến các môn học khác. Trên cơ sở nội dung, chương trình phân môn tập làm văn có rất nhiều đổi mới, nên đòi hỏi tiết dạy Tập làm văn phải đạt được mục đích cụ thể hơn, rõ nét hơn. Ngoài phương pháp của thầy, học sinh cần có vốn kiến thức, ngôn ngữ về đời sống thực tế. Chính vì vậy, việc dạy tốt các phân môn khác không chỉ là nguồn cung cấp kiến thức mà còn là phương tiện rèn kỹ năng nói, viết, cách hành văn cho học sinh.
Tóm lại: Dạy tập làm văn theo hướng đổi mới phải khích lệ học sinh tích cực, sáng tạo, chủ động trong học tập; biết diễn đạt suy nghĩ của mình thành ngôn bản, văn bản. Nói cách khác, các phân môn trong môn Tiếng Việt là phương tiện để hỗ trợ cho việc dạy tập làm văn được tốt.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
+ Về phía giáo viên:
Qua thực tế dự giờ thăm lớp của giáo viên tôi nhận thấy:
 - Giáo viên còn thụ động kiến thức ở SGV mà không chịu tìm tòi đọc thêm tài liệu khác liên quan đến giảng dạy đặc biệt là khi dạy Tập làm văn nên ngôn ngữ của giáo viên còn hạn hẹp, bí từ.
 - Hình thức tổ chức dạy còn nghèo do giáo viên chưa thực sự đầu tư vào chất lượng bài soạn. Việc làm đồ dùng và sử dụng đồ dùng của giáo viên còn nhiều hạn chế.
 - Giáo viên chưa chịu khó suy nghĩ, tìm tòi, vận dụng các phương pháp dạy học và hình thức dạy học khác nhau vào các tiết dạy mà chỉ giảng dạy theo một quy trình áp đặt rập khuôn.
 - Việc tổ chức dạy các giờ tập làm văn (được coi là dạy mẫu ) ở các trường tiểu học chưa nhiều nên giáo viên chưa có cơ hội để học tâp lẫn nhau nhằm nâng cao năng lực giảng dạy.
+ Về phía học sinh:
 Học sinh lớp 3 đang ở lứa tuổi rất thích học và ham học. Môn Tiếng Việt nói chung và phân môn Tập làm văn nói riêng có nội dung phong phú, sách giáo khoa được trình bày với kênh hình đẹp, trang thiết bị dạy học hiện đại, hấp dẫn học sinh, phù hợp với tâm sinh lý lứa tuổi các em. Các em ở lớp 2 đã nắm vững kiến thức, kỹ năng của phân môn Tập làm văn như kỹ năng giao tiếp, kỹ năng tạo lập ngôn bản, kỹ năng kể chuyện miêu tả. Đây là cơ sở giúp các em học tốt phân môn Tập làm văn ở lớp 3.
Tuy nhiên do đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi, các em nhanh nhớ nhưng cũng mau quên, mức độ tập trung thực hiện các yêu cầu của bài học chưa cao. Hơn nữa, Tập làm văn là một trong những phân môn khó nên học sinh không hứng thú học bằng các phân môn khác của Tiếng Việt.
Sự hiểu biết của học sinh lớp 3 về phân môn Tập làm văn còn hạn chế. Bước đầu kế thừa, tập làm quen phân môn tập làm văn của lớp 2.
Kiến thức về cuộc sống thực tế của học sinh còn hạn chế, ảnh hưởng đến việc tiếp thu bài học.
Vốn từ vựng của học sinh chưa nhiều cũng ảnh hưởng đến việc thực hành độc lập. Cụ thể là: các em viết câu rời rạc, chưa liên kết, thiếu lôgic; tính sáng tạo trong thực hành viết văn chưa cao, thể hiện ở cách bố cục bài văn, cách chấm câu, sử dụng hình ảnh gợi tả chưa linh hoạt, sinh động.
 - Học sinh ở đây còn dùng nhiều tiếng địa phương nên khi nói, viết còn mắc nhiều lỗi do phát âm, các em còn nói tiếng địa phương và dùng từ ngữ của địa phương nhiều . Do vậy ngôn ngữ văn học của các em còn tối nghĩa, câu văn chưa trọn vẹn, ý văn còn nghèo nàn, dẫn đến phần trình bày văn nói chưa hấp dẫn, phần văn viết còn chưa trau chuốt do đôi chỗ diễn đạt theo ảnh hưởng của khẩu ngữ.
-Nhiều học sinh còn phụ thuộc vào bài văn mẫu, áp dụng một cách máy móc, chưa biết vận dụng bài mẫu để hình thành lối hành văn của riêng mình. Ví dụ: phần lớn học sinh dùng luôn lời cô hướng dẫn để viết bài của mình.
 Năm học 2016 - 2017 là năm học tôi nhận nhiệm vụ chủ nhiệm và giảng dạy lớp 3. Vào tháng 9 - tuần 3 tôi đã khảo sát học sinh lớp 3B với đề bài như sau: 
 Hãy kể về gia đình em với người bạn mới quen.
* Kết quả khảo sát như sau: Tổng số học sinh lớp 3B: 32 em.
Nội dung khảo sát
Số học sinh
Tỷ lệ%
1.Biết viết câu, dùng từ hợp lý.
22/32
68,2
2. Biết nói-viết thành câu.
20/32
62
3. Biết dùng từ ngữ, câu văn có hình ảnh.
18/32
55,8
4.Biết trình bày đoạn văn.
22/32
68,2
5.Bài viết học sinh đạt từ hoàn thành trở lên
22/32
68,2
Qua khảo sát cho thấy học sinh chưa biết cách diễn đạt câu văn có hình ảnh, vốn từ vựng chưa nhiều, hiểu biết thực tế còn ít; do vậy chất lượng bài viết của các em chưa cao, ý văn nghèo nàn, câu văn lủng củng. Kết quả này cũng thể hiện phương pháp giảng dạy của giáo viên chưa phát huy được tính tích cực của học sinh trong giờ học.
2.3. Nh÷ng gi¶i ph¸p đã sử dụng để giải quyết vấn đề:
*Các giải pháp thực hiện:
- Nắm vững mục tiêu, cấu trúc nội dung chương trình của môn Tiếng Việt lớp 3 nói chung và phân môn Tập làm văn nói riêng.
 - Nắm vững phương pháp và các hình thức tổ chức dạy học của phân môn. Biết kết hợp các phương pháp và hình thức tổ chức một cách hài hoà và phù hợp nhằm làm cho tiết học đạt hiệu quả cao.
 - Chuẩn bị và xây dựng bài học cụ thể phù hợp với từng đối tượng học sinh lớp mình.
- Có hiểu biết về tâm lí lứa tuổi học sinh lớp 3 nhất là từng đối tượng học sinh trong lớp.
- Có lòng yêu nghề mến trẻ, có tinh thần trách nhiệm cao đối với công việc được giao.
 - Luôn thực hiện việc tổng kết đánh giá rút kinh nghiệm sau mỗi tiết dạy, mỗi phần kiến thức để bổ sung điều chỉnh ở các bài sau, năm học sau.
Các dạng bài “Nghe - Kể lại chuyện” và “Kể hay nói, viết về một chủ đề” trong phân môn tập làm văn về cấu trúc như sau: Số lượng bài tập ít hơn so với môn Tâp Làm Văn Lớp 2 nhưng nội dung có hệ thống cao hơn lớp 2. Mỗi bài học được trình bày từ 1 đến 2 bài tập - gồm bài tập rèn luyện kỹ năng nói và bài tập rèn kỹ năng viết. Đối với hai dạng bài này thì nội dung được phân bổ như sau:
 - Dang bài “Kể hay nói, viết về một chủ đề gồm có 16 bài tập như: Nói về đội TNTP Nói về thành thị hoặc nông thôn; Nói về quê hương; Nói, viết về cảnh đẹp đất nước...
 - Dạng bài “Nghe -Kể lại chuyện” gồm có 10 bài tập như : Nghe - Kể: Dại gì mà đổi; Nghe - kể : Không nỡ nhìn ; Nghe kể: Tôi cũng như bác ; Nghe- kể: Giấu cày... Tuy nhiên chương trình giảm tải của Bộ Giáo dục và Đào tạo ngày 19/9/2011 thì đã cắt bỏ một số bài tập không yêu cầu học sinh làm đó là: Nghe - kể: Tôi có đọc đâu( TLV tuần 11); Nghe - kể: Tôi cũng như bác( TLV tuần 14); Nghe - kể: Giấu cày( TLV tuần 15); Nghe - kể: Kéo cây lúa lên ( TLV tuần 16). Như vậy dạng bài này trong chương trình Tập làm văn lớp Ba dạy 6 bài tập còn lại. Nội dung kiến thức và yêu cầu rèn luyện kỹ năng ở phân môn tập làm văn lớp 3 khá khó, nhiều bài tập mang tính thực hành từ thực tế xung quanh các em như: Kể về gia đình mình; Nói, viết về thành thị hoặc nông thôn. Qua đó học sinh hình thành được các kỹ năng tạo lập văn bản. Muốn dạy tập làm văn cho học sinh có hiệu quả, giáo viên cần: 
 - Nắm vững mục tiêu, nội dung bài học, lựa chọn và phối hợp các phương pháp dạy học; các hình thức dạy học phù hợp với yêu cầu của từng bài. Có như thế mới nâng cao được chất lượng giờ học, bồi dưỡng được những tình cảm lành mạnh, tốt đẹp cho học sinh.
 - Chuẩn bị và xây dựng bài học cụ thể phù hợp với từng đối tượng học sinh lớp mình.
- Có hiểu biết về tâm lí lứa tuổi học sinh lớp 3 nhất là từng đối tượng học sinh trong lớp.
- Có lòng yêu nghề mến trẻ, có tinh thần trách nhiệm cao đối với công việc được giao.
 - Luôn thực hiện việc tổng kết đánh giá rút kinh nghiệm sau mỗi tiết dạy, mỗi phần kiến thức để bổ sung điều chỉnh ở các bài sau, năm học sau.
Trong phạm vi đề tài này, tôi chỉ đưa ra một số kinh nghiệm nhỏ giới hạn trong việc vận dụng phương pháp và hình thức dạy học phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả cho học sinh khi học các dạng bài “Nghe - kể lại chuyện” và “Kể hay nói, viết về một chủ đề” trong phân môn tập làm văn lớp 3 ở trường tiểu học hiện nay.
 a, Dạng bài “Nghe - Kể lại chuyện”
 Đây là một đạng đề khá khó trong chương trình tập làm văn lớp 3. Ngữ liệu học tập của dạng đề này phần lớn là các chuyện vui nên năm học này Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành chương trình giảm tải nhằm bỏ bớt một số bài tập không yêu cầu học sinh thực hành. Trong sách giáo viên, hầu hết các tiết dạy dạng đề này được triển khai theo cùng một hướng như sau:
 - Giáo viên kể chuyện 2 hoặc 3 lần
 - Giáo viên đưa ra câu hỏi gợi ý chi tiết để học sinh làm điểm tựa nhớ lại nội dung truyện.
 - Một vài học sinh kể: Học sinh kể theo nhóm ; Đại diện vài nhóm học sinh kể lại chuyện trước lớp.
Để hoạt động của tiết học dạng đề trên đa dạng hơn, học sinh vui và tích cực học hơn, giờ học có hiệu quả hơn. Tôi xin đưa ra những kinh nghiệm dạy học như sau:
Cách 1:
 - Cho học sinh xem tranh và đoán nội dung truyện. Giáo viên ghi những điều cơ bản nhân vật, một vài sự kiện mà học sinh đoán được lên bảng, cho học sinh làm việc cá nhân hay nhóm .
Ví dụ: Nghe kể lại chuyện: “ không nỡ nhìn”( tiết TLV- tuần 7)
 - Học sinh nghe giáo viên kể chuyện hai lần.
 - Học sinh đối chiếu giữa nội dung chuyện vừa được nghe với nội dung mình đã đoán để điều chỉnh những điều đã đươc ghi trên lớp vào phiếu học tập.
 - Học sinh trao đổi về một vài điều thú vị trong truyện hay ý nghĩa của truyện.
 - Học sinh kể lại chuyện theo nhóm. Đại diện vài nhóm học sinh kể lại chuyện trước lớp (có thể nhập vai kể)
 - Học sinh nhận xét, giáo viên bổ sung, nhận xét chung.
Cách 2: 
- Giáo viên kể một phần đầu của câu chuyện sau đó đặt câu hỏi đề nghị học sinh đoán sự kiện gì có thể xảy ra tiếp theo. Giáo viên ghi một vài ý học sinh đoán lên bảng.
- Học sinh nghe giáo viên kể tiếp rồi trao đổi đối chiếu điêu được nghe với điều đã đoán để điều chỉnh phần được ghi trên bảng.
- Giáo viên kể lại chuyện 2 lần đề nghị học sinh nêu thêm một số tình tiết nữa phần đầu của truyện( ở hoạt động này giáo viên có thể dùng thẻ từ ghi các sự kiện thể hiện trong phần đầu của ttruyện và học sinh chọn đưa vào dàn ý đã có trên bảng).
- Học sinh trao đổi về ý nghĩa hoặc một vài chi tiết thú vị trong chuyện.
- Học sinh kể lại chuyện theo nhóm. Đại diện vài nhóm học sinh kể lại chuyện trước lớp.
- Cả lớp nhận xét, giáo viên bổ sung và nhận xét chung.
Ví dụ: Nghe kể lại chuyện: Dại gì mà đổi. ”( tiết TLV- tuần 4)
 - Các em thử đoán xem cậu bé trả lời như thế nào?
 - Giáo viên ghi một vài ý học sinh đoán lên bảng :
Ví dụ :
+ Cậu bé òa khóc.
+ Cậu bé hét lên.
+ Cậu bé mừng rỡ.
+ Cậu bé không đồng ý dổi.
- Giáo viên kể tiếp câu chuyện và cho học sinh đối chiếu điều được nghe với điều đã đoán để điều chỉnh phần ghi ở bảng.
- Giáo viên kể chuyện lần 2, đề nghị học sinh nêu lên một số tình tiết nửa phần đầu của truyện. Giáo viên có thể đưa lên một số thẻ từ ghi một số tình tiết của chuyện.
Ví dụ: 
+ Mẹ sẽ chẳng đổi được đâu!
+ Vì sao mẹ đổi?
+ Mẹ không muốn đổi đứa con ngoan để lấy một đứa con nghịch ngợm.
Cách 3: 
 - Giáo viên kể chuyện một lần và đề nghị học sinh cho biết: câu chuyện có mấy nhân vật? giáo viên phác hoạ hình các nhân vật đó lên bảng (băng cách vẽ ô tròn và trên đó ghi tên nhân vật)
- Học sinh nghe giáo viên kể chuyện lần 2 rồi viết xung quanh nhân vật một số từ hay cụm từ thể hiện hành động hay suy nghĩ của nhân vật (xây dựng mạng câu chuyện). Nếu học sinh có khó khăn thì giáo viên đặt một số gợi ý.
- Học sinh trao đổi điều chỉnh mạng câu chuyện theo nhóm.Một số học sinh nhìn mạng câu chuyện rồi kể lại chuyện trước lớp.
- Học sinh dựa vào mạng câu chuyện để kể lại chuyện theo nhóm.
Học sinh thảo luận theo ý nghĩa của chuyện.
Ví dụ: Nghe kể lại chuyện: “Người bán quạt may mắn” (tiết TLV- tuần 24)
Ông Vương Hi Chi
Bà lão bán quạt
nổi tiếng chữ đẹp
lấy bút mực ra viết
vào quạt
nghỉ mát
thu xếp
bút mực ra đi
phàn nàn quạt ế
 bắt đền ông Vương
thiu thiu ngủ
bán quạt chạy
Khi dạy dạng bài trên có rất nhiều cách để tiến hành giờ học dạy dạng bài “Nghe - kể lại chuyện”. Giáo viên có thể tuỳ vào tình hình của lớp, trình độ học sinh để chọn cách dạy phù hợp nhất.Cho dù dạy theo cách nào, giáo viên cũng phải có sự chuẩn bị bài trước (Tranh ảnh phục vụ nội dung truyện hoặc xây dụng mạng câu chuyện: Phiếu bài tập) để giờ học sinh động, gây hứng thú học tập cho học sinh hơn.Chú ý giao việc cho học sinh rõ ràng đặc biệt là khi hoạt động nhóm và nên theo dõi gíúp đỡ học sinh, tạo cho các niềm tin, mạnh dạn hơn trong học tập
b. Dạng bài: Kể hay nói, viết về một chủ đề.
* Mục đích: Nội dung các bài tập thuộc dạng bài này nhằm rèn cho học sinh kỹ năng diễn đạt bằng lời nói( viết) về một chủ đề nào đó: Nói viết về thành thị hoặc nông thôn; Kể về gia đình ; Kể về một buổi thi đấu...Xem xét cách triển khai câu hỏi gợi ý ở mỗi đề, chúng ta có thể thấy dạng đề này hầu như là sự kết hợp của nhiều thể loại: miêu tả, tưòng thuật, thuyết minh và phát biểu cảm nghĩ. Trong sách giáo viên, các kiểu đề này chủ yếu được tiến hành theo một trình tự như sau:
- Giáo viên giới thiệu bài:
- Giáo viên hướng dẫn học sinh làm bài:
+ Học sinh đọc và xác định yêu cầu của bài tập
+ GV cho học sinh tìm ý theo hệ thống câu hỏi trong SGK hay hệ thống câu hỏi trong SGV hoặc giải thích cho học sinh cách làm bài.
+ Một hoc sinh kể mẫu và giáo viên nhận xét
- Học sinh tập nói theo tổ (nhóm).
- Đại diện một số nhóm nói trước lớp. Cả lớp và giáo viên nhận xét.
- Cả lớp viết bài vào vở nếu bài yêu cầu cả nói và viết.
 Theo tôi khi dạy dạng đề này ngoài phương án được nêu trên trong sách giáo viên. Giáo viên có thể sử dụng mạng ý nghĩa để giúp học sinh tìm kiếm và phát triển diễn đạt ý tưởng tạo cho các em sự mạnh dạn tự tin trong học tập.
 Sử dụng “Mạng ý nghĩa” là như sử dụng một đồ dùng dạy học, một biện pháp dạy học cụ thể- Sử dụng mạng ý nghĩa là cách thức giáo viên tổ chức cho học sinh suy nghĩ diễn đạt một cách chủ động và sáng tạo trong dạy học Tập làm văn. Phương pháp này hướng đến việc cá thể hoá tối đa hoạt động nói và viết của học sinh sao cho sản phẩm làm văn của các em vừa bảo đảm được chuẩn mực cơ bản của một thể loại văn bản, vừa thể hiện bản chất cái tôi của mỗi học sinh trên cơ sở khai thác khái niệm và hiểu biết có trước của các em cũng như những ý tưởng và ngôn từ trong các bài đọc theo chủ đề mà các em đã được học trong SGK. 
 Cách 1: Hướng dẫn tìm hiểu bài:
 Bất kì bài làm văn nào việc đầu tiên giáo viên phải chio học sinh xác định yêu cầu bài tập. Giúp học sinh tự xác định đúng yêu cầu bài tập để khi thực hành các em sẽ không chệch hướng, đảm bảo đúng nội dung đề bài cần luyện tập, học sinh định hình cụ thể đối tượng nói hay viết trong trí nhớ đồng thời biết đối tượng đó là ai? Là gì? ở đâu? Lúc nào?.. vào khung chủ đề.Trong trường hợp dùng vật thật hay tranh ảnh thì khung chủ đề cũng chính là chúng. Để thực hiện hoạt động này giáo viên có thể sử dụng một trong các bước sau:
- GV trò chuyện khơi gợi rồi đề nghị học sinh nhắm mát nghĩ về đối tượng,
- Kể một mẫu chuyện nhỏ kết hợp đặt câu hỏi hướng học sinh đến đề tài.
- Dùng tranh ảnh hoăc mẫu vật thật do giáo viên mang đến lớp hay do học sinh tự sưu tầm.
- Sử dụng một đoạn văn mẫu lấy từ bài tập đọc đã học hay từ các bài làm của học sinh.
Cách 2: Hướng dẫn tìm hiểu hệ thống câu hỏi:
 Hệ thống câu hỏi gợi ý tiết Tập Làm Văn kiểu bài nói- viết theo chủ điểm trong SGK sắp xếp hợp lí như một dàn bài của một bài Tập Làm Văn. Học sinh dựa vào gợi ý để luyện nói, sau đó viết thành đoạn văn ngắn. Giáo viên cần cho học sinh đọc toàn bộ câu gợi ý và giúp các em hiểu nghĩa từ trong câu hỏi dể học sinh trình bày đúng theo yêu cầu. Các từ này có thể là từ mới hoặc từ khó hiểu đối với học sinh. Cần lưu ý câu hỏi phải có tính chất mở, hướng đến việc khơi gợi kinh nghiệm riêng của các em.Ví dụ đối với văn miêu tả, câu hỏi có thể được triển khai theo hướng mở sau: Em thấy gì? Em nghe gì? Em nghĩ gì? Em cảm thấy gì?...Trong các câu hỏi gợi ý có một số câu hỏi gộp khiến học sinh lúng túng khi diến dạt ý. Giáo viên nên chia thành các câu hỏi nhỏ để giúp các em dễ trả lời.
Ví dụ. Kể về buổi đầu đi học( Tiết TLV tuần 6). Giáo viên nêu câu hỏi mở.
+ Ai là người đưa em đến trường?
+ Quang cảnh sân trường hôm đó thế nào?
+ Lúc đầu, em bỡ ngỡ ra sao?
+ Ai đã giúp đỡ em? 
+ Ý nghĩ, tâm trạng của em lúc đó thế nào?
- Đưa ra một khung mạng trong đó cho sẵn vài ý, phần còn lại để học sinh suy nghĩ và đưa thêm ý vào để hoàn thành mạng.
- Học sinh viết các ý dưới dạng từ hay cụm từ xung quanh chủ đề. G

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_bien_phap_nang_cao_chat_luong_day_va_hoc_tap_lam.doc