SKKN Một số biện pháp khắc phục tình trạng viết sai chính tả cho học sinh lớp 3 của Trường Tiểu học Hoằng Lý
Như chúng ta đã biết: Tiếng Việt là môn học giữ vị trí vô cùng quan trọng trong chương trình giáo dục ở tiểu học. Môn Tiếng Việt nhằm hình thành và phát triển kĩ năng sử dụng Tiếng Việt cho học sinh trên cơ sở những tri thức căn bản nhằm giúp các em làm chủ được công cụ ngôn ngữ để học tập trong nhà trường và giao tiếp đúng đắn, mạch lạc trong môi trường sống.
Môn Tiếng Việt được chia thành nhiều phân môn như: Tập đọc, Chính tả, Tập viết, Kể chuyện, Luyện từ và câu, Tập làm văn. Mỗi phân môn đều có mục đích, nhiệm vụ riêng của nó, song đều có một điểm chung là hình thành và phát triển bốn kĩ năng (nghe, nói, đọc, viết) thông qua giao tiếp của học sinh. Riêng phân môn Chính tả có vị trí đặc biệt quan trọng nhằm thực hiện mục tiêu của môn Tiếng Việt là rèn luyện và phát triển tiếng phổ thông cho học sinh trong đó có năng lực chữ viết.
Phân môn Chính tả trong trường Tiểu học có nhiệm vụ giúp học sinh nắm vững các quy tắc chính tả, hình thành kĩ năng, kĩ xảo, giúp học sinh hình thành năng lực và thói quen viết đúng chính tả. Vì vậy, dạy học chính tả có ý nghĩa to lớn trong việc thực hiện 4 yêu cầu cơ bản của môn Tiếng Việt (nghe, nói, đọc, viết).
Dạy chính tả là một quá trình rèn luyện lâu dài, không chỉ ở giờ chính tả mà có thể rèn luyện phân tích từ các phân môn: Tập đọc, Luyện từ và câu, Tập làm văn.
Ví dụ: Một học sinh làm một bài văn rất hay nhưng mắc nhiều lỗi chính tả thì bài văn đó không đạt điểm cao. Hay một học sinh viết sai nhiều lỗi chính tả thì không thể học tốt các môn học khác.
Cho nên, việc nghiên cứu phương pháp giúp các em khắc phục được những lỗi chính tả là vô cùng quan trọng. Vì vậy mỗi giáo viên phải thực sự quan tâm tới từng đối tượng học sinh. Có biện pháp cụ thể, sát thực trong việc luyện cho học sinh viết đúng, viết đẹp. Xuất phát từ những lí do chủ yếu trên đây cho nên tôi chọn đề tài sáng kiến kinh ngiệm “Một số biện pháp khắc phục tình trạng viết sai chính tả cho học sinh lớp 3 của Trường Tiểu học Hoằng Lý "
MỤC LỤC CẤU TRÚC TRANG A. MỞ ĐẦU I. Lí do chọn đề tài 2 II. Mục đích nghiên cứu 2 III. Đối tượng nghiên cứu 3 IV. Phương pháp nghiên cứu 3 B. NỘI DUNG I. Cơ sở lí luận 3 II. Thực trạng 3 III. Các biện pháp thực hiện 4 IV. Hiệu quả 14 C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ I. Kết luận 15 II. Kiến nghị 15 A. MỞ ĐẦU I. Lí do chọn đề tài Như chúng ta đã biết: Tiếng Việt là môn học giữ vị trí vô cùng quan trọng trong chương trình giáo dục ở tiểu học. Môn Tiếng Việt nhằm hình thành và phát triển kĩ năng sử dụng Tiếng Việt cho học sinh trên cơ sở những tri thức căn bản nhằm giúp các em làm chủ được công cụ ngôn ngữ để học tập trong nhà trường và giao tiếp đúng đắn, mạch lạc trong môi trường sống. Môn Tiếng Việt được chia thành nhiều phân môn như: Tập đọc, Chính tả, Tập viết, Kể chuyện, Luyện từ và câu, Tập làm văn. Mỗi phân môn đều có mục đích, nhiệm vụ riêng của nó, song đều có một điểm chung là hình thành và phát triển bốn kĩ năng (nghe, nói, đọc, viết) thông qua giao tiếp của học sinh. Riêng phân môn Chính tả có vị trí đặc biệt quan trọng nhằm thực hiện mục tiêu của môn Tiếng Việt là rèn luyện và phát triển tiếng phổ thông cho học sinh trong đó có năng lực chữ viết. Phân môn Chính tả trong trường Tiểu học có nhiệm vụ giúp học sinh nắm vững các quy tắc chính tả, hình thành kĩ năng, kĩ xảo, giúp học sinh hình thành năng lực và thói quen viết đúng chính tả. Vì vậy, dạy học chính tả có ý nghĩa to lớn trong việc thực hiện 4 yêu cầu cơ bản của môn Tiếng Việt (nghe, nói, đọc, viết). Dạy chính tả là một quá trình rèn luyện lâu dài, không chỉ ở giờ chính tả mà có thể rèn luyện phân tích từ các phân môn: Tập đọc, Luyện từ và câu, Tập làm văn. Ví dụ: Một học sinh làm một bài văn rất hay nhưng mắc nhiều lỗi chính tả thì bài văn đó không đạt điểm cao. Hay một học sinh viết sai nhiều lỗi chính tả thì không thể học tốt các môn học khác. Cho nên, việc nghiên cứu phương pháp giúp các em khắc phục được những lỗi chính tả là vô cùng quan trọng. Vì vậy mỗi giáo viên phải thực sự quan tâm tới từng đối tượng học sinh. Có biện pháp cụ thể, sát thực trong việc luyện cho học sinh viết đúng, viết đẹp. Xuất phát từ những lí do chủ yếu trên đây cho nên tôi chọn đề tài sáng kiến kinh ngiệm “Một số biện pháp khắc phục tình trạng viết sai chính tả cho học sinh lớp 3 của Trường Tiểu học Hoằng Lý " II. Mục đích nghiên cứu. - Điều tra lỗi chính tả cơ bản thường hay mắc phải của học sinh; nguyên nhân của các lỗi đó nhằm đề xuất một số biện pháp phắc phục lỗi chính tả cho học sinh lớp 3 trường Tiểu học Hoằng Lý. - Vận dụng các nguyên tắc dạy trong phân môn Chính tả hình thành kĩ năng viết đúng chính tả cho học sinh tiểu học. - Lập kế hoạch dạy học theo hướng đổi mới phương pháp và nội dung bài dạy cho sát thực với việc rèn chính tả cho học sinh địa phương. III. Đối tượng nghiên cứu - Học sinh lớp 3B trường Tiểu học Hoằng Lý. IV. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp điểu tra, quan sát. - Phương pháp kiểm tra, thống kê kết qua. - Phương pháp lập kế hoạch bài học. - Phương pháp tổng kết kinh nghiệm. NỘI DUNG I. Cơ sở lí luận Chữ viết hiện nay của người Việt là chữ viết ghi lại theo phát âm. Do đó việc viết đúng phải dựa trên đọc đúng, đọc đúng là cơ sở của viết đúng. Tuy nhiên do yếu tố vùng miền, cách phát âm mỗi nơi mỗi khác. Mặc dù những quy tắc, quy ước về chính tả được thống nhất theo ngữ pháp chung. Nhưng việc “viết đúng chính tả” cho học sinh Tiểu học nói chung và học sinh lớp tôi nói riêng còn nhiều khó khăn, tồn tại. Vì vậy, mỗi giáo viên và học sinh cần phải nổ lực để khắc phục tồn tại trên. Người giáo viên muốn đánh giá kết quả học tập của học sinh cũng phải thông qua năng lực viết đúng chính tả của các em. Vì vậy mỗi thầy, cô giáo cần phải nhiệt tình trong công tác giảng dạy, cần quan tâm đến các em nhiều hơn, giúp các em hiểu được giá trị của Tiếng Việt, rèn luyện các em viết đúng, viết chuẩn Tiếng Việt để giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt mà cha ông ta đã để lại. II. Thực trạng việc dạy và học phân môn chính tả ở trường Tiểu học Hoằng Lý Trong những năm làm công tác trực tiếp giảng dạy ở khối lớp 3 cũng như dự giờ đồng nghiệp ở trường Tiểu học Hoằng Lý, tôi nhận thấy một số tồn tại về lỗi chính tả của học sinh như sau: 1. Về phía học sinh - Do học sinh phát âm theo thói quen địa phương. - Kĩ năng đọc chưa thông thạo, về nhà không chịu khó rèn đọc nên không nhớ mặt chữ. - Phần đông học sinh chưa có ý thức rèn viết đúng chính tả. - Do các em chưa hiểu nghĩa từ. - Do không nắm vững các quy tắc chính tả. 2. Về phía phụ huynh: - Đa số các phụ huynh học sinh đều làm công nhân và làm nghề nông nên chưa thật sự quan tâm đến việc học của con mình. - Mặc dù ở lớp cô giáo đã tập cho học sinh phát âm đúng song khi về nhà một số phụ huynh nói chưa chuẩn âm, vần, dấu thanh dẫn đến con cái cũng bị ảnh hưởng phát âm sai. 3. Về phía giáo viên: - Trong quá trình dạy phân môn chính tả, giáo viên chưa chú ý đến đặc điểm phương ngữ địa phương, không xác định rõ các lỗi chính tả cơ bản của học sinh trong lớp nên việc rèn chính tả không đi vào trọng điểm. Giáo viên ít củng cố và khắc sâu cho học sinh nắm các quy tắc, mẹo luật chính tả qua bài viết hoặc qua bài tập. Hơn nữa việc phát âm của một bộ phận giáo viên chưa được chuẩn dẫn đến hạn chế về học và viết chính tả của học sinh. - Việc chấm bài của học sinh được giáo viên thực hiện thường xuyên, song việc liệt kê lỗi và yêu cầu học sinh sửa lỗi thì chưa thực sự cụ thể. Năm học 2016-2017 tôi được phân công chủ nhiệm lớp 3B với sĩ số 21 học sinh. Trong những tuần đầu làm chủ nhiệm, tôi nhận thấy chữ viết của các em còn xấu, lỗi chính tả rất nhiều. Từ kết quả chấm “Vở sạch chữ đẹp” giữa kì I của nhà trường, tôi đã thống kê kết quả xếp loại chữ viết môn Chính tả của học sinh như sau: Tổng số HS Xếp loại 21 Loại A Loại B Loại C SL TL SL TL SL TL 6 28,6% 11 52,4% 4 19% Kết quả khảo sát trên cho thấy: Tỉ lệ chữ viết của học sinh đạt loại A còn thấp, tỉ lệ đạt loại B,C còn cao chưa đáp ứng chỉ tiêu đề ra của nhà trường và của lớp. Đứng trước thực trạng đó, tôi thực sự băn khoăn, trăn trở làm thế nào để khắc phục tình trạng viết sai chính tả cho học sinh. Vì vậy, tôi đã vận dụng các biện pháp sau đây vào quá trình dạy học phận môn Chính tả ở lớp 3B như sau: . III. Các biện pháp thực hiện 1. Điều tra một số lỗi chính tả của học sinh Điều tra lỗi chính tả của học sinh là điều cần thiết trong việc nâng cao chất lượng của giờ Chính tả. Nếu như không điều tra lỗi chính tả của các em thì sẽ không nắm được những lỗi cơ bản của học sinh hay mắc phải mà tìm biện pháp khắc phục cho phù hợp. Vì vậy, từ thực tế, tôi đã tiến hành điều tra lỗi của các em qua các giờ học thuộc môn Tiếng Việt, qua giao tiếp hàng ngày... Tôi đã thống kê được số lỗi chính tả học sinh thường mắc phải như sau: - Lỗi phụ âm đầu: Có khoảng 25% học sinh thường viết sai các cặp phụ âm đầu như: g/ng/ngh; c/k/q ; ch/tr ; s/x ; gi/d/r ;... - Lỗi phần vần: Có khoảng 20 % học sinh lớp tôi thường hay viết sai ở các cặp vần như: ai/ay; uôi / ui ; ươi / ưi ; ươu / ưu; iêu/iu; ao/oa; uya/ya, uyêt/yêt, - Lỗi do không hiểu nghĩa của từ như: Có khoảng 30 % không hiểu nghĩa từ: Ví dụ: để dành/tranh giành, dở dang/giang sơn,... - Lỗi viết hoa: Có khoảng 15% học sinh mắc lỗi chủ yếu là không viết hoa đầu câu, danh từ riêng (tên riêng), tên địa danh và lỗi viết hoa tùy tiện. - Về dấu thanh: Có khoảng 35 % học sinh lỗi dấu thanh ?/~ (kể cả người dân địa phương) Ngoài ra ở một số bài viết, học sinh trong lớp còn mắc các lỗi khác như: Trình bày chưa sạch, chữ viết còn thiếu nét, thừa nét. 2. Rèn nề nếp tư thế cho học sinh khi ngồi viết chính tả Trước hết, muốn học sinh viết đúng, đẹp thì người giáo viên cần “Rèn nề nếp tác phong cho học sinh khi viết”. Bởi tư thế ngồi viết của học sinh là cái quan trọng đầu tiên giúp học sinh có nét chữ đẹp và đúng. Vì vậy, ngay từ buổi ban đầu bước vào lớp, tôi chú ý ngay đến tư thế ngồi viết cho từng em. Để giúp các em biết ngồi ngay ngắn khi viết, trước hết giáo viên phải giải thích cho các em hiểu cần ngồi viết đúng tư thế để giúp chữ viết đẹp hơn, đúng hơn, có lợi cho sức khỏe và ngược lại, nếu ngồi xiêu vẹo người thì sẽ bị tật vẹo cột sống hoặc nếu các em nhìn sát vào vở quá thì mắt sẽ bị cận thị Sau đó, giáo viên làm mẫu cho học sinh quan sát và làm theo. Trong các tiết dạy chính tả, tôi luôn nhắc nhở để các em nhớ và ngồi đúng, tạo thói quen cho học sinh khi viết bài. Bạn nào ngồi đúng tư thế tôi khuyến khích tuyên dương ngay trước lớp. 3. Luyện phát âm Muốn học sinh viết đúng chính tả, trước hết giáo viên phải chú ý luyện phát âm cho mình và cho học sinh để phân biệt các dấu thanh, các âm đầu, âm chính, âm cuối vì chữ Quốc ngữ là chữ ghi âm, giữa cách đọc và cách viết thống nhất với nhau. Nếu giáo viên chưa phát âm chuẩn, do ảnh hưởng của cách phát âm ở địa phương thì các em cũng có thói quen phát âm sai dẫn đến hiện tượng viết sai chính tả. 4. Phân tích so sánh Song song với việc luyện phát âm cho học sinh, khâu phân tích so sánh tiếng, từ cũng rất quan trọng trong giờ học chính tả: với những tiếng khó, giáo viên áp dụng biện pháp phân tích cấu tạo tiếng, so sánh. Với những tiếng dễ lẫn lộn, giáo viên cần nhấn mạnh những điểm khác để học sinh ghi nhớ. * Ví dụ : Dạy bài Chính tả (Tập chép): Cậu bé thông minh – TV3 -Tập 1, tr.4 + sắc ≠ sắt: sắc là sắc bén còn sắt là thanh sắt (vật kim loại). + xẻ (thịt chim) ≠ sẻ: xẻ là mổ xẻ, bổ ra còn sẻ là chim sẻ, san sẻ. 5. Giúp học sinh hiểu nghĩa của từ Do phương ngữ của từng vùng miền khác nhau, cách phát âm đôi khi chưa thống nhất với chữ viết nên học sinh cần nắm rõ nghĩa của từ để viết cho đúng. * Dạy Chính tả (Tập chép): Chị em - (TV3 – Tập1, tr.27) Học sinh viết: Để chị trải chiếu, buông màn cho em. Học sinh cần hiểu “buông” có nghĩa là thả màn xuống, còn “buôn” là buôn bán vì vậy phải viết là “buông màn”. * Dạy Chính tả (Nghe – viết): Người mẹ (TV3 – Tập 1, tr.30) Nội dung viết: Nhờ Thần Đêm Tối chỉ đường, bà vượt qua bao nhiêu khó khăn, hi sinh cả đôi mắt của mình để giành lại đứa con đã mất. Học sinh mắc lỗi viết “dành”. Giáo viên giúp học sinh hiểu nghĩa: “giành” là tranh giành, giành phần hơn về mình còn “dành” là để dành (dành dụm, dỗ dành). Việc giải nghĩa từ thường được thực hiện trong tiết Tập đọc, Luyện từ và câu, Tập làm văn, nhưng nó cũng là việc làm rất cần thiết trong tiết chính tả khi mà học sinh không thể phân biệt từ khó dựa vào phát âm hay phân tích cấu tạo tiếng. Có nhiều cách để giải nghĩa từ cho học sinh. Giáo viên chú giải từ mới ở phân môn Tập đọc kết hợp đặt câu. Nếu học sinh đặt câu đúng tức là học sinh đã hiểu nghĩa từ; tìm từ cùng nghĩa, trái nghĩa, miêu tả đặc điểm hoặc sử dụng vật thật, mô hình, tranh ảnh, Với những từ nhiều nghĩa giáo viên phải đặt từ đó trong văn cảnh cụ thể để giải nghĩa từ. 6. Giúp học sinh ghi nhớ mẹo luật chính tả Khi dạy Tập đọc hay dạy các môn học khác, tôi luôn uốn nắn cho các em phát âm đúng, và còn cung cấp cho các em một số "mẹo" để phân biệt x/s, r/d/gi,... + Phân biệt x/s cần nhớ "mẹo" sau: Hầu hết tên các sự vật (các danh từ) được viết là s Như: Từ chỉ người: ông sư; sứ thần ... Từ chỉ cây: sim; sung; sắn, su su, .. Hiện tượng tự nhiên: sao; sương; sấm;... Chỉ đồ vật: hòn sỏi; cái sọt; sợi dây... Chỉ con vật: cá sấu; con sóc; con sên, sư tử, sói... Trừ ngoại lệ: xưởng; cái xe; cái xuồng; cây xoan; cây xoài; trạm xá; mùa xuân. Để nhớ được ngoại lệ này tôi đưa ra cho học sinh một câu ngộ nghĩnh dễ nhớ như: " Mùa xuân đi xuồng gỗ xoan, mang xoài đến xã đổi xẻng ở xưởng để đem cho trạm xá." + Tên các thức ăn thường đi với x Như: xôi; xốt vang; xúc xích; xà lách... Phụ âm đầu x thường đi với vần có âm đệm như vần oa; oac; oach; oai; oam; oan; oang; oay; oăn; oe; oen; oet... Ví dụ: xoa bóp; xoạc chân; loảng xoảng, lốc xoáy, loẹt xoẹt... + Để phân biệt r/d/gi r và gi không kết hợp với âm đệm (trừ ngoại lệ "cu roa ") d thường đi với vần có âm đệm như oa; oe;uê; uy... Như: dọa dẫm; hậu duệ; kinh doanh, duy nhất... + Lớp bì bọc ngoài cơ thể động vật; thực vật ghi là d Ví dụ: màu da; da thịt; da cam... + Viết gi với nghĩa thêm vào Ví dụ: gia hạn; gia vị... + Để phân biệt tr/ch - Những từ chỉ quan hệ gia đình thường viết là ch Như: chú; cha; cháu; chị... - Những từ chỉ đồ dùng trong gia đình viết là ch Như: chậu; chén; chổi; chiếu... Từ việc giúp các em phát âm đúng và cung cấp cho các em một số "mẹo" chính tả, tôi còn cung cấp cho các em một số quy định về chuẩn chính tả như cách viết tên riêng Việt Nam và tên riêng nước ngoài: + Tên người: Viết hoa chữ cái đầu của tất cả các âm tiết Như: Trần Hưng Đạo; Nguyễn Thị Minh Khai... + Tên dân tộc: Viết hoa chữ cái đầu của tất cả các âm tiết Như: Kinh; Tày; Mường; Sán Dìu... + Tên người: tên địa lí và tên các dân tộc Việt Nam thuộc các dân tộc thiểu số có cấu tạo từ đa âm tiết (các âm tiết đọc liền nhau). Đối với mỗi bộ phận tạo thành tên riêng, viết hoa chữ cái đầu và có gạch nối giữa các âm tiết. Ví dụ: Ê-đê; Ba-na; Khơ-mú... + Tên cơ quan, tổ chức, đoàn thể: Viết hoa chữ cái đầu của âm tiết đầu tiên và các âm tiết đầu của các bộ phận tạo thành tên riêng. Ví dụ: Hội phụ nữ, Quốc hội, Phòng giáo duc, ... + Từ và cụm từ chỉ các con vật, đồ vật; sự vật được dùng làm tên riêng của nhân vật: Viết hoa chữ cái đầu của âm tiết tạo thành tên riêng Ví dụ: (chú) Chuột; (bác) Gấu; (cô) Chào Mào... Khi dạy bài chính tả có tên riêng nước ngoài tôi kịp thời cho các em nhắc lại để nhớ cách viết tên riêng nước ngoài. Đối với từng bài chính tả có liên quan đến kiến thức về các luật hay "mẹo"chính tả nào tôi kịp thời cung cấp hoặc giúp các em nhắc lại khắc sâu những mảng kiến thức đó, để các em nhớ, tránh viết sai chính tả. Với mỗi bài dạy chính tả, tôi luôn coi trọng việc cho các em nhận xét các hiện tượng chính tả trong bài viết, từ đó giúp các em dễ khắc sâu, nhớ cách viết đúng, hình thành kĩ năng, kĩ xảo cho các em khi viết chính tả. Khi dạy phần luyện viết đúng (viết những tiếng các em dễ viết sai) cho các em luyện viết vào bảng con. Tôi chú trọng đến các quy tắc chính tả như: Khi nào viết c/k/q; g/gh; ng/ngh... * Khi đứng trước nguyên âm i; e; ê - Âm "cờ"viết là k - Âm "gờ" viết là gh - Âm "ngờ" viết là ngh * Khi đứng trước các nguyên âm còn lại - Âm "cờ" viết là c - Âm" gờ" viết là g - Âm"ngờ" viết là ng * Khi đứng trước âm đệm viết là u, thì âm "cờ" viết là q * Luật trầm – bổng (luật hỏi – ngã trong từ láy): Có thể cho học sinh học thuộc hai câu thơ sau: Chị Huyền mang Nặng Ngã đau Anh Ngang, Sắc thuốc Hỏi đau chỗ nào. Nghĩa là: Thanh Huyền, Nặng, Ngã kết hợp với dấu Ngã. Thanh Ngang, Sắc, Hỏi kết hợp với dấu Hỏi. Ví dụ: Âm trầm + Huyền – Ngã: vững vàng, vẽ vời, vồn vã, lững lờ, sẵn sàng, + Nặng – Ngã: đẹp đẽ, nhẹ nhõm, mạnh mẽ, lạnh lẽo, vội vã, + Ngã – Ngã: dễ dãi, lẽo đẽo, nhõng nhẽo, mũm mĩm, nghễnh ngãng, + Ngang – Hỏi: vui vẻ, nho nhỏ, lẻ loi, trong trẻo, + Sắc – Hỏi: vắng vẻ, mát mẻ, nhắc nhở, trắng trẻo, sắc sảo, vất vả, + Hỏi – Hỏi: hổn hển, lỏng lẻo, thỏ thẻ, thủ thỉ, rủ rỉ, Cũng có thể cung cấp thêm cho học sinh mẹo luật sau: Từ có âm đầu là M, N, Nh, V, L, D, Ng thì viết là dấu ngã (Mình Nên Nhớ Viết Là Dấu Ngã). Ví dụ: M: mĩ mãn, mã lực, từ mẫu, cần mẫn, N: nỗ lực, trí não, truy nã, nữ giới, Nh: nhẫn nại, nhẵn bóng, quấy nhiễu, nhõng nhẽo, V: vĩnh viễn, vỗ về, vũ trang, võ nghệ, vũ trụ, L: lễ phép, lữ hành, kết liễu, thành lũy, lạnh lẽo, D: dã man, dã tràng, dũng cảm, dỗ dành, hướng dẫn, diễm lệ, Ng: ngưỡng mộ, hàng ngũ, ngữ nghĩa, ngôn ngữ, ngỡ ngàng, ngã (té),.. Dù sử dụng phương pháp nào đi chăng nữa, tôi cũng đều phải theo dõi quan tâm, uốn nắn đến từng em. Từ đây giúp cho các em hạn chế được các lỗi khi viết chính tả. 7. Biện pháp giúp học sinh viết đúng chính tả qua các bài tập Các dạng bài tập chính tả thường gặp ở lớp 3 trong HKI là các dạng bài: Bài tập điền vào chỗ trống (Bài tập điền khuyết), bài tập tìm từ, bài tập tìm tiếng, bài tập giải câu đố, bài tập lựa chọn. Sang HKII có thêm dạng bài tập đặt câu (Bài tập phân biệt hai từ trong từng cặp từ). Mỗi bài viết chính tả giáo viên cần luyện học sinh phát âm từ khó, phân tích, so sánh tiếng, từ khó, giải nghĩa từ, ghi nhớ mẹo luật chính tả. Ngoài nhiệm vụ trên giáo viên còn hướng dẫn học sinh làm các bài tập khác nhau để giúp học sinh tận dụng các kiến thức đã học, làm quen với việc sử dụng từ trong văn cảnh cụ thể. Sau mỗi bài tập, giáo viên giúp các em rút ra các qui tắc chính tả để ghi nhớ. 7.1. Bài tập điền vào chỗ trống: Với dạng bài tập này sẽ giúp học sinh điền đúng âm đầu, vần vào chỗ chấm: Ví dụ: Bài tập 2 a) – TV3, Tập 1, tr. 22 Điền vào chỗ trống tr hay ch ? - Cuộn òn, ân thật, chậm ễ Bài tập 3a) –TV3, Tập 1, tr.48 Điền vào chỗ trống s hay x ? Giàu đôi con mắt, đôi tay Tay iêng làm lụng, mắt hay kiếm tìm Hai con mắt mở, ta nhìn Cho sâu, cho áng mà tin cuộc đời. - Dạy Chính tả (Nghe – viết) : Ông ngoại (đoạn 3) - TV3, Tập 1, tr. 35 Nội dung viết: Ông còn nhấc bổng tôi trên tay, cho gõ thử vào mặt da loang lổ của chiếc trống trường. Một số học sinh viết sai lỗi “da” viết là “gia”, cũng có em viết là “ra”. Tôi phân biệt cho các em biết nghĩa của hai từ da và gia: da viết là d – với các nghĩa có liên quan tới “da thịt”, trong “da dẻ”; còn gia viết là gi trong các trường hợp còn lại, với các nghĩa là “nhà” (gia đình), chỉ người có học vấn, chuyên môn (chuyên gia), nghĩa khác (gia vị, gia súc,) Sau phần bài viết tôi tự ra bài tập để các em hiểu thêm. Nội dung bài tập như sau: - Điền vào chỗ trống r, d hay gi ? + a vào; a dẻ;a đình. + a rả; a thịt, tham a. - Điền vào chỗ trống en hay eng ? (BT 2b – TV 3, tập 1, tr. 41) + Tháp Mười đẹp nhất bông s Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ. + Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà Cỏ cây chđá lá chhoa . - Điền vào chỗ trông iên hay iêng ? (Bài tập 2b – TV3, Tập 1, tr. 56) Trên trời có g.. nước trong Con k .. chẳng lọt, con ong chẳng vào. - Điền vào chỗ trống en hay oen ? (Bài tập 2 – TV3, Tập 1, tr. 60) - nhanh nh.....; ..... miệng cười, sắt h.gỉ; h....nhát 7.2. Bài tập tìm từ Học sinh tìm từ ngữ chứa âm, vần dễ lẫn qua gợi ý nghĩa của từ, qua gợi ý từ cùng nghĩa, trái nghĩa: * Bài tập 3a – TV 3, Tập 1- trang 52 Tìm các từ chứa tiếng bắt đầu bằng s hoặc x có nghĩa như sau: - Cùng nghĩa với chăm chỉ : .. - Trái nghĩa với gần : .. - (Nước) chảy rất mạnh và nhanh : .. Bài tập 3b - TV3, Tập 1- tr. 31 Tìm các từ chứa tiếng có vần ân hoặc âng có nghĩa như sau: - Cơ thể của người: .. - Cùng nghĩa với nghe lời: .. - Dụng cụ đo trọng lượng (sức nặng) : .. 7.3. Bài tập tìm tiếng Bài tập 2b) - TV3,Tập 1, tr. 18 Tìm những tiếng có thể ghép với mỗi tiếng sau: - gắn, gắng - nặn, nặng - khăn, khăng Giáo viên chia nhóm và tổ chức cho học sinh thi ghép đúng, nhóm nào ghép đúng được nhiều từ nhất nhóm đó thắng cuộc. + gắn: gắn bó, hàn gắn, gắn kết, + gắng: cố gắng, gắng sức, gắng lên, + nặn: nặn tượng, nặn óc nghĩ, nhào nặn,. + nặng: nặng nhọc, nặng nề, nặng cân, + khăn: khăn tay, khăn quàng, cái khăn, + khăng: khăng khăng, khăng khít, 7.4. Bài tập giải câu đố Bài tập 2b) - TV3, Tập 1, tr. 22 Đặt trên chữ in đậm dấu hỏi hay dấu ngã ? Giải câu đố sau: Vừa dài mà lại vừa vuông Giúp nhau ke chỉ, vạch đường thăng băng (Là cái gì?) Ngoài ra giáo viên phải kết hợp cho học sinh biết xây dựng cái đúng, loại bỏ cái sai. Bên cạnh việc cung cấp cho học sinh những qui tắc chính tả, hướng dẫn học sinh thực hành, luyện tập nhằm hình thành kĩ năng viết đúng chính tả, cần đưa ra những trường hợp viết sai để hướng dẫn học sinh phát hiện sửa chữa rồi từ đó hướng học sinh đi đến cái đúng. 7.5. Bài tập lựa chọn Bài tập 3b) - TV3, Tập 1, tr. 132 Chọn từ thích hợp trong ngoặc đơn điền vào chỗ trống trong các câu sau: - (bão, bảo) : Mọi người .. nhau dọn dẹp đường làng sau cơn .. - (vẽ, vẻ) : Em .. mấy bạn ..mặt tươi vui đang trò chuyện. - (sữa, sửa): Mẹ em cho em bé uống .. rồi ..soạn đi làm.
Tài liệu đính kèm:
- skkn_mot_so_bien_phap_khac_phuc_tinh_trang_viet_sai_chinh_ta.doc