SKKN Một số biện pháp khắc phục những sáo mòn ở khâu đọc và hướng dẫn đọc trong dạy học văn THCS

SKKN Một số biện pháp khắc phục những sáo mòn ở khâu đọc và hướng dẫn đọc trong dạy học văn THCS

Đọc là một trong những hình thức hoạt động nhận thức của con người, phản ánh năng lực tư duy bằng ngôn ngữ và thông qua ngôn ngữ. Riêng với văn học, đọc tác phẩm là loại hoạt động giao tiếp. Đọc tác phẩm là hình thức hoạt đặc thù của nhận thức văn học, nhằm tạo nên sự hoà đồng giữa tác giả và bạn đọc, làm cho khoảng cách giữa tác phẩm với người đọc, giữa tác giả với học sinh được rút ngắn lại. Đọc tác phẩm là biến chữ viết thành lời nói sinh động, biến dòng chữ vô tình thành lời nói hữu tình, từ đó giúp học sinh đi sâu vào thế giới hình tượng, thế giới cảm xúc, làm chúng hiện lên trong tâm tưởng học sinh, từ đó các em cảm nhận được sự vật, hình ảnh, con người, Việc đọc tác phẩm được quy định bởi đặc trưng thể loại. Bằng việc đọc, học sinh có thể đối thoại với tác giả để cố gắng đi tới cái tận cùng mà người sản sinh ra văn bản gửi gắm vào các câu chữ, hình ảnh. Qua việc đọc tác phẩm, học sinh sẽ lĩnh hội được hiện thực cuộc sống, lịch sử thông qua các hình tượng nghệ thuật, hiểu được những vấn đề về con người, về cuộc sống, về lý tưởng.

Đọc tác phẩm trong nhà trường còn gắn liền với kỹ năng rèn luyện thị giác, điều phối hơi thở, khả năng phát âm, luyện âm, luyện giọng, khả năng lắng nghe giọng đọc mà thực ra là năng lực diễn tả, tái hiện và sáng tạo của chính mình, sau những tòi hiện và diễn tả của tác giả để hiểu tác phẩm.

Trong nhà trường, đọc là một trong bốn kỹ năng cơ bản của mục tiêu dạy học và là một khâu quan trọng trong quá trình dạy- học. Việc đọc tác phẩm có tác dụng rất cao mang lại hiệu quả lớn trong quá trình dạy học bộ môn ngữ văn ở trường THCS. Vì vậy đòi hỏi người giáo viên Ngữ văn phải đổi mới phương pháp dạy học nhất là khâu đọc và hướng dẫn đọc tác phẩm. Có như vậy mới góp phần làm cho việc dạy học môn học này ngày càng trở nên hấp dẫn, tạo được sự hứng thú cho người học.

 

doc 25 trang thuychi01 6680
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số biện pháp khắc phục những sáo mòn ở khâu đọc và hướng dẫn đọc trong dạy học văn THCS", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
	Trang
I. MỞ ĐẦU
1
1. Lí do chọn đề tài
1
2. Mục đích nghiên cứu
2
3. Đối tượng nghiên cứu	
2
4. Phương pháp nghiên cứu
2
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
4
1. Cơ sở lí luận của sáng kiến 
4
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến
7
3. Các biện pháp đã thực hiện để giải quyết vấn đề
9
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm 
18
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
21
1. Kết luận
21
2. Kiến nghị
21
Tài liệu tham khảo
Danh mục cácđề tài SKKN đã được đánh giá xếp loại
MỘT SỐ BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC 
NHỮNG SÁO MÒN Ở KHÂU ĐỌC VÀ HƯỚNG DẪN ĐỌC TRONG DẠY HỌC VĂN THCS
I. MỞ ĐẦU:
1. Lí do chọn đề tài.
	Đọc là một trong những hình thức hoạt động nhận thức của con người, phản ánh năng lực tư duy bằng ngôn ngữ và thông qua ngôn ngữ. Riêng với văn học, đọc tác phẩm là loại hoạt động giao tiếp. Đọc tác phẩm là hình thức hoạt đặc thù của nhận thức văn học, nhằm tạo nên sự hoà đồng giữa tác giả và bạn đọc, làm cho khoảng cách giữa tác phẩm với người đọc, giữa tác giả với học sinh được rút ngắn lại. Đọc tác phẩm là biến chữ viết thành lời nói sinh động, biến dòng chữ vô tình thành lời nói hữu tình, từ đó giúp học sinh đi sâu vào thế giới hình tượng, thế giới cảm xúc, làm chúng hiện lên trong tâm tưởng học sinh, từ đó các em cảm nhận được sự vật, hình ảnh, con người,Việc đọc tác phẩm được quy định bởi đặc trưng thể loại. Bằng việc đọc, học sinh có thể đối thoại với tác giả để cố gắng đi tới cái tận cùng mà người sản sinh ra văn bản gửi gắm vào các câu chữ, hình ảnh. Qua việc đọc tác phẩm, học sinh sẽ lĩnh hội được hiện thực cuộc sống, lịch sử thông qua các hình tượng nghệ thuật, hiểu được những vấn đề về con người, về cuộc sống, về lý tưởng.
Đọc tác phẩm trong nhà trường còn gắn liền với kỹ năng rèn luyện thị giác, điều phối hơi thở, khả năng phát âm, luyện âm, luyện giọng, khả năng lắng nghe giọng đọc mà thực ra là năng lực diễn tả, tái hiện và sáng tạo của chính mình, sau những tòi hiện và diễn tả của tác giả để hiểu tác phẩm. 
Trong nhà trường, đọc là một trong bốn kỹ năng cơ bản của mục tiêu dạy học và là một khâu quan trọng trong quá trình dạy- học. Việc đọc tác phẩm có tác dụng rất cao mang lại hiệu quả lớn trong quá trình dạy học bộ môn ngữ văn ở trường THCS. Vì vậy đòi hỏi người giáo viên Ngữ văn phải đổi mới phương pháp dạy học nhất là khâu đọc và hướng dẫn đọc tác phẩm. Có như vậy mới góp phần làm cho việc dạy học môn học này ngày càng trở nên hấp dẫn, tạo được sự hứng thú cho người học.
Ngữ văn luôn luôn đóng vai trò là một trong những bộ môn chính yếu trong trường THCS. Hơn thế nữa, với đặc thù riêng về sự chính xác tương đối, sự phụ thuộc vào cảm xúc của người dạy và người học mà vấn đề dạy và học Ngữ văn luôn được quan tâm đặc biệt. Mục tiêu chung của môn Ngữ văn là bồi dưỡng năng lực Ngữ văn cho học sinh, bao gồm năng lực đọc, hiểu các văn bản thông dụng (văn, thơ, truyện), năng lực viết một số văn bản thông dụng Đồng thời cung cấp một hệ thống tri thức phong phú về văn học. Học sinh luôn tiếp xúc trước hết với văn bản và chính vì thế mà định hướng phương pháp đọc là vô cùng cần thiết.
Hoạt động đọc của học sinh hiện nay đã trở thành trọng tâm khi bình giá, phân tích, cắt nghĩa tác phẩm văn chương và học sinh là độc giả tác phẩm văn học. Mỗi nền văn học, mỗi thể loại, giai đoạn văn học khác nhau lại cần có những đặc trưng về kĩ năng đọc riêng.. Nguyễn Thanh Hùng đã viết “Dạy đọc là nền tảng văn hóa cho người đọc” [3, tr.13]. Điều này đặc biệt đúng khi áp dụng vào giảng dạy các tác phẩm văn học.
Khi xét nội dung của tác phẩm cần tìm hiểu một cách tương đối kĩ về những kinh nghiệm văn hóa lịch sử, phát hiện được những mối tương đồng tạo điều kiện cho học sinh chiếm lĩnh tác phẩm. Việc dạy đọc hiểu để khám phá, để hiều đúng văn bản chính là một yêu cầu quan trọng trong quá trình giảng dạy phần văn học.
Từ những lí do như trên, tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Một số biện pháp khắc phục những sáo mòn ở khâu đọc và hướng dẫn đọc trong dạy học Văn THCS” để góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn Ngữ văn .
2.Mục đích nghiên cứu
Xuất phát từ thực tế việc dạy học Ngữ văn ở THCS, tôi nghiên cứu đề tài này nhằm mục đích:
- Nghiên cứu và đánh giá về thực trạng dạy và học ở khâu đọc và hướng dẫn đọc trong dạy Văn ở trường THCS”. Nghiên cứu về lí thuyết phương pháp đọc văn bản văn học. 
- Cùng đồng nghiệp nhìn nhận, đánh giá đúng, tích cực, gia công cho giờ dạy Ngữ văn, đặc biệt là khâu đọc và hướng dẫn đọc.
- Đề xuất một phương pháp dạy học tích cực phát huy được tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh và giúp cho giáo viên có cơ sở giảng dạy tốt tác phẩm văn chương trong chương trình Ngữ văn trong nhà trường THCS. Mục đích cơ bản của đề tài này là hình thành phương pháp và qui trình dạy đọc tác phẩm văn học SGK Ngữ văn. Qua đó, giáo viên có thể có cái nhìn bao quát về quá trình giảng dạy đọc đối với tác phẩm văn học; đồng thời học sinh có được phương pháp đọc cơ bản khi tiếp xúc với những văn bản, nhờ vậy tránh được những cách hiểu sai lệch vấn đề trọng tâm trong các tác phẩm. 
Từ đó nâng cao chất lượng giảng dạy môn Ngữ văn nói riêng và chất lượng giáo dục, học tập nói chung.
3.Đối tượng nghiên cứu
Do điều kiện và thời gian nên phạm vi nghiên cứu của sáng kiến kinh nghiệm chỉ gói gọn ở đối tượng học sinh khối 8 của trường và giáo viên dạy Ngữ văn của trường.
Đồng thời đối tượng học sinh được thể nghiệm là 2 lớp 8A, 8B và giáo viên Ngữ văn trường THCS Yên Trung năm học 2015 - 2016
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này tôi đó tiến hành áp dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
a. Phương pháp điều tra khảo sát thực tế:
Khảo sát tình hình học tập phân môn văn học của học sinh lớp 8 trường THCS Yên Trung. Đặc biệt là kết quả của học sinh qua giờ học văn bản trong quá trình dạy học.
b. Phương pháp thống kê xử lí số liệu:
Thống kê tỉ lệ học sinh đọc ở đối tượng học sinh nghiên cứu (lớp 8A, 8B trường THCS Yên Trung) và tỉ lệ giáo viên hướng dẫn đọc ở đối tượng giáo viên nghiên cứu ( giáo viên Ngữ văn trường THCS Yên Trung )
c. Nghiên cứu tài liệu
Nghiên cứu tài liệu nghiệp vụ dạy học môn Ngữ văn 8, sách giáo khoa, sách giáo viên, tài liệu tham khảo, ý kiến của các nhà nghiên cứu, các nhà quản lí giáo dục, quản lí chuyên môn, các giáo viên giỏi trong lĩnh vực giảng dạy của mình, của đồng nghiệp trong tỉnh, huyện và các trường bạn xung quanh, các bài viết đăng trên các tạp chí khoa học.
d. Phân tích đối chiếu:
Phân tích đối chiếu giữa yêu cầu chuẩn kiến thức, kĩ năng đối với học sinh lớp 8 bậc THCS với những bài đọc thực tế của học sinh, tìm ra những hạn chế chủ yếu của học sinh khi đọc tác phẩm văn học.
e. Giả thiết khoa học
Đưa ra những giải pháp những đề xuất có tính khoa học để giáo viên vận dụng vào việc rèn kĩ năng đọc tác phẩm văn học cho học sinh nhằm phát huy khả năng tư duy, sáng tạo, tính tích cực trong giờ học của các em trước những tác phẩm văn học.
g. Sử dụng mẫu:
Sau khi cung cấp kiến thức lí thuyết cho học sinh, sử dụng những cách đọc mẫu thực hành giúp học sinh nhận biết, tự điều chỉnh cách đọc của mình cho đúng, hợp lí.
h. Hỏi ý kiến chuyên gia, tham khảo kinh nghiệm của đồng nhiệp:
Thảo luận trao đổi sinh hoạt chuyên môn với đồng nghiệp qua buổi các sinh hoạt chuyên môn, sau những lần dự giờ thăm lớp, dạy mẫu.
i. Phương pháp thu thập thông tin.
II.NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
1.1. Cơ sở lí luận của việc đọc và phương pháp hướng dẫn đọc
1.1. 1.Quan điểm về đọc tác phẩm văn chương
Đọc không chỉ là hoạt động nhận thức nội dung ý tưởng từ văn bản mà còn là hoạt động trực quan sinh động, giàu cảm xúc, có tính trực giác và khái quát trong nếm trải của con người. Vì thế chúng ta thấy xuất hiện kinh nghiệm đọc và sự biến đổi cách thức và chất lượng người đọc. Đọc còn hoạt động mang tính chất tâm lí, một hoạt động tinh thần của độc giả, bộc lộ rõ năng lực văn hóa từng người.
Chúng ta đều hiểu rẳng không chỉ đọc văn bản mà còn đọc sách, chẳng những đọc sách mà còn những tác phẩm văn chương. Tuy rằng văn bản, sách và tác phẩm văn chương đều mang tính hoàn chỉnh về cấu trúc nhưng độ dài ngắn, dung lượng và ý nghĩa, chức năng, bản chất, tác dụng của chúng là hết sức khác nhau. Vì vậy, cách thức đọc chúng, phương pháp và biện pháp đọc chúng không hoàn toàn đồng nhất. 
Nói tóm lại, đọc tác phẩm văn chương là một quá trình phát hiện và khám phá nội dung ý nghĩa xã hội, con người, thời đại trong cấu trúc hình tượng thẩm mĩ của tác phẩm đan xen giữa hoạt động nhận thức, đánh giá và thưởng thức giá trị đích thực tồn tại trong hình thức nghệ thuật độc đáo của tác phẩm. 
1.1.2. Những thành tựu nghiên cứu hoạt động đọc tác phẩm văn chương
Trong lịch sử nhân loại, khi nào xuất hiện văn bản kí tự dưới hình thức cố định thì bắt đầu có hoạt động đọc. Đọc là quá trình chuyển hóa nội dung ý nghĩa từ ghi khắc sang âm thanh lời nói, âm vang trong óc.
Với tư cách là một môn học nhằm “phát triển cảm thụ nghệ thuật, hình thành những thể nghiệm, những khuynh hướng và năng khiếu nghệ thuật cho học sinh bằng phương diện nghệ thuật” [4, tr.38]. Quan niệm phân tích tác phẩm văn học trong nhà trường là một quá trình sáng tạo, tác giả còn trình bày các biện pháp bộc lộ và thúc đẩy sự đồng sáng tạo của người đọc, trong đó đọc diễn cảm được xem là “biện pháp hoạt động đặc thù nhằm tăng cường sự đồng sáng tạo của người đọc, tạo điều kiện cho sự đồng thể nghiệm và phát triển trí tưởng tượng của người đọc” [4, tr.39]
Thực chất của quá trình đọc văn là quá trình phát hiện và tổng hợp những tầng lớp ý nghĩa đã được nhà văn mã hóa trong một hệ thống kí hiệu ngôn ngữ nghệ thuật. Mỗi giai đoạn của quá trình ấy lại đặt ra những nhiệm vụ nhất định cần phải giải quyết. Vì vậy hoạt động đọc sẽ được vận dụng dưới nhiều hình thức phong phú, đa dạng, linh hoạt, hơn một cách duy nhất nào đó.
Đọc văn vừa là tiền đề cơ bản, vừa là kết quả xác thực của việc hiểu văn. Có đọc mới hiểu và có hiểu thì mới đọc tiếp được tác phẩm văn chương mà không làm tiêu tan những giá trị và ý nghĩa của nó. Các công trình nghiên cứu của Nguyễn Thanh Hùng đã thể hiện sự quan tâm sâu sắc của tác giả đến vấn đề phức tạp này: nhìn nhận trí tưởng tượng, khả năng liên tưởng như là chìa khóa mở ra thế giới nghệ thuật phong phú, sinh động của tác phẩm văn chương đồng thời năng lực liên tưởng, tưởng tượng thông qua ngôn ngữ nghệ thuật là dấu hiệu chất lượng của đọc văn. Tác giả viết: “Sự phát triển của quá trình đọc được vận động trong hoạt động liên tưởng, tưởng tượng và giải thích nghệ thuật”. Theo tác giả, việc đọc hiểu văn bản góp phần hình thành và củng cố, phát triển năng lực nắm vững và sử dụng tiếng Việt thành thạo. Đồng thời “năng lực văn hóa có ý nghĩa cơ bản đối với việc phát triển nhân cách , bởi vì phần lớn những tri thức hiện đại được truyền thụ qua việc đọc”, hơn nữa việc đọc còn là “phương tiện tinh thần nhiều loại khác nhau về quan điểm, thái độ, kinh nghiệm, tri thức”. [ 5, tr.14].
Gần đây nhất, kế thừa và phát triển những thành tựu của lí thuyết tiếp nhận, trong chuyên luận “Đọc và tiếp nhận văn chương”, Nguyễn Thanh Hùng đã trả đọc về vị trí xứng đáng của nó trong quá trình khám phá chiều sâu của tác phẩm văn chương. “Tiếp nhận văn học là một quá trình, vì nó chỉ thực sự diễn ra theo một hoạt động duy nhất là đọc văn – một thứ văn bản được kiến tạo bằng thời gian” [4, tr.16]. Thông qua quá trình đọc văn với những yêu cầu riêng của một hoạt động tinh thần dựa trên một đối tượng thẩm mĩ, mục đích tiếp nhận là hiểu được tác phẩm văn chương. Cũng theo đó mà tác giả này đã khẳng định: “Đọc văn chương- một con người mới ra đời, đọc văn chương là lao động khoa học, đọc văn chương là cách phát huy trực cảm, đọc văn chương là hoạt động ngôn ngữ trong môi trường văn hóa thẩm mĩ, đọc văn chương là quá trình sáng tạo, đọc văn chương là quá trình tiếp nhận nội sinh và ngoại sinh từ tác phẩm” [4, trang 18].
 Phan Trọng Luận cũng đã phân tích rõ tầm quan trọng của hoạt động đọc trong chuyên luận “Cảm thụ văn học, giảng dạy văn học”: “Đọc từ chữ đầu đến chữ cuối, đọc cho âm vang, đọc để tri giác, cảm giác được bằng mắt bằng tai từ ngữ, hình ảnh, chi tiết” và “trong khi đọc, những tín hiệu ngôn ngữ, những hình ảnh cuộc sống trong bài thơ hiện lên tuần tự sáng rõ dần”. Tác giả cũng chỉ rõ vai trò của liên tưởng tưởng, tưởng tượng đối với hiệu quả cảm thụ của quá trình đọc sách: “Đọc sách là liên tưởng, là hồi ức, là tưởng tượng. Sức hoạt động của liên tưởng càng mạnh bao nhiêu thì sức cảm thụ càng sâu, càng nhạy bén bấy nhiêu” [ 6, tr.57].
Đọc văn không những được vận dụng trong nhà trường mà còn được ứng dụng rộng rãi trong giao tiếp văn hóa, trong tiếp nhận văn học, trong việc trao đổi thông tin tri thức và đời sống tinh thần nhân loại. Những trang sách kì diệu đã từng tỏa sáng tuổi thơ cơ cực, tăm tối của M. Gorki. Ông nói “Mỗi cuốn sách đều là bậc thang nhỏ mà khi bước lên, tôi tách khỏi con thú để lên tới gần con người”. Đọc sách trước hết là lao động trí tuệ mang lại niềm vui thanh khiết nhất của tâm hồn, là sự tự giải phóng cá nhân ra khỏi những trói buộc của hoàn cảnh để trí tuệ hóa và nhân đạo hóa con người ngày càng cao hơn.
1.1.3. Phương pháp đọc trong nhà trường THCS
Đọc là hoạt động mang tính chất đối diện một mình, tự lực với văn bản, nó có cái hay là tập trung và tích đọng, lắng kết thầm lặng năng lực cá nhân. Đây là hoạt động thu nạp và ứng dụng những kinh nghiệm đời sống, lịch sử, kinh nghiệm nghệ thuật và kinh nghiệm văn hóa của mỗi cá thể. Đọc là lối đọc để tự học suốt đời, nó vừa thúc đẩy ý chí và là biểu hiện thầm kín của lòng tự trọng. 
Đọc trong nhà trường rất cần phải có bài bản, phải có cơ sở lí thuyết và phải luyện tập thành những kĩ năng cơ bản. Cách đọc trong nhà trường vừa là tiền đề đọc hiểu của học sinh, vừa là kết quả đọc hiểu của giáo viên văn học. Điều đáng nói về cách đọc trong nhà trường là phải chú trọng cung cấp cho học sinh hệ thống tri thức đọc hiểu, cần mở rộng các hình thức đọc, phương pháp đọc, kiểu đọc, mục đích, yêu cầu đọc đối với họ. Hứng thú đọc, động cơ đọc của học sinh và sách tập đọc, bài đọc thêm, cần nghiên cứu và chỉ ra tác dụng tích cực của chúng trong việc dạy đọc hiểu.
Đọc ban đầu từ đọc chữ, đọc câu, hiểu nghĩa của từ và sắc thái biểu cảm, hiểu nghĩa của hình thức câu, mạch văn, bố cục và nắm được ý nghĩa chính cũng như chủ đề tác phẩm. Lí giải là hiểu đặc sắc về nghệ thuât và ý nghĩa xã hội nhân văn của tác phẩm trong ngữ cảnh của nó. Trong quá trình học đọc, học sinh sẽ biết cách đọc để tích lũy kiến thức, đọc để lí giải, đọc để đánh giá và đọc sáng tạo, phát hiện. Hình thức văn bản được lựa chọn nhằm đào tạo năng lực đọc- hiểu, qua đó vừa cung cấp tri thức văn học (lịch sử văn hóa, lí luận văn học, văn hóa dân tộc) vừa giáo dục tư tưởng tình cảm, vừa rèn luyện kĩ năng đọc mà học sinh có thể mang theo suốt đời.
Một trong ba mục tiêu của dạy học văn là rèn luyện khả năng đọc hiểu các văn bản, đặc biệt là văn bản văn học, một loại văn bản khó nhằm tạo cho học sinh biết đọc văn một cách có văn hóa, có phương pháp, không suy diễn tùy tiện, dung tục. Năng lực đọc được thể hiện ở việc học sinh tự mình biết đọc, hiểu, nắm được nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.
“Dạy đọc là dạy học sinh cách đọc ra nội dung trong những mối quan hệ ngày càng bao quát trọn vẹn văn bản, từ đó hình thành được kĩ năng đọc và biết vận dụng chúng trong cuộc sống có hiệu quả. [3, tr.34] 
Trong nhà trường, hoạt động đọc của học sinh trở thành trung tâm khi tiếp cận, phân tích, cắt nghĩa và bình giá tác phẩm văn chương, sẽ kéo theo sự đổi mới tất yếu về phương pháp dạy của giáo viên. Trước tiên, giáo viên phải đưa nội dung, yêu cầu đọc hiểu vào các mức độ đọc văn như: đọc đúng, đọc hay, đọc diễn cảm, cân nhắc những hình thức nào của đọc văn như đọc thầm, đọc to, đọc phân vai, đọc đối thoại, đọc bình chú, đọc tóm tắt, đọc dự đoán Hơn nữa giáo viên cũng cần trao đổi với học sinh mục đích đọc và những yêu cầu đọc hiểu khi đề cập tới việc đọc để phát hiện ra những điều thú vị, hấp dẫn, đọc để tổ chức lại, xây dựng lại tác phẩm theo hình thức mới rất cần cho kĩ năng đọc chỉnh thể văn học, đọc để lấy thông tin cần thiết cho mình, đọc để nhận xét trên cơ sở tư duy phê phán, đọc để ghi chép những nét chính cho quá trình thảo luận.
2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Thực trạng: 
Từ khi thực hiện đổi mới phương pháp thì việc dạy Ngữ văn ở trường THCS đã có một số tiến bộ. Đó là nhiều giáo viên đã coi việc đọc như là một phương pháp. Đọc được chú trọng về phương diện diễn cảm và cảm thụ chứ không chỉ bó hẹp trong mục đích tập đọc hoặc tiếp xúc sơ bộ tác phẩm. Việc đọc mẫu của giáo viên, đọc diễn cảm của học sinh, đọc trước khi phân tích, đọc để bình, đọc – cảm nhận, đọc cá nhân, đọc phân vai, đó được giáo viên có ý thức sử dụng. Giáo viên cũng đã chú ý hướng dẫn cách đọc cho học sinh, giúp các em có giọng đọc phù hợp với nội dung từng bài, giáo viên luyện được cho mình giọng đọc tốt để đọc mẫu cho học sinh cảm nhận. Giáo viên coi việc đọc tác phẩm là hình thức tiếp cận văn bản. 
Nhưng bên cạnh những tiến bộ trên qua khảo sát dự giờ tôi thấy rằng còn nhiều tiết dạy văn giáo viên tổ chức cho học sinh đọc rất ít, có trường hợp chỉ cho học sinh đọc qua một lần văn bản ở đầu giờ học (ở văn bản ngắn) hoặc đọc vài đoạn ngắn (ở văn bản dài) là được. Có tình trạng giáo viên hiểu lệch lạc đọc sáng tạo là phương pháp lấy việc đọc làm chính. Bởi thế nhiều giáo viên cho học sinh đọc tràn lan, giờ văn trở nên giờ đọc tác phẩm hạn chế tới việc cảm thụ tác phẩm. Giờ văn trở nên tẻ nhạt, vô vị, đơn điệu. Đọc tràn lan, không định hướng đó làm cho giờ dạy mất đi hoặc giảm thiểu hoạt động phân tích, do đó cũng giảm đi tính tư tưởng và hiệu quả của giảng dạy. Giờ dạy cháy giáo án, nếu không cũng chẳng còn bao nhiêu giá trị nhân văn. Nếu chỉ đọc thôi sẽ khó tìm đến sự sâu kín, ý vị tinh vi, khó khám phá được những đặc sắc nghệ thuật. Tình trạng giáo viên ngữ văn đọc thiếu diễn cảm thậm chí một số giáo viên đọc chưa đạt yêu cầu bộc lộ ở việc ngắt nhịp không phù hợp với lôgíc của câu, nhấn giọng ở trọng âm lôgíc chưa đúng từ ngữ cần nhấn giọng đọc còn đều đều, việc luyện đọc diễn cảm, uốn nắn sữa chữa cách đọc cho học sinh còn ít chưa có hiệu quả. 
Mặt khác việc đọc tác phẩm còn triển khai đơn giản.Dường như mục đích của đọc và hình thức của đọc chưa được xác định rõ ( Khi nào thì đọc? đọc như thế nào? Thế nào là đọc - bình, đọc- thưởng thức ? Thế nào là đọc – cảm thụ? Thực hiện chúng như thế nào? Thực hiện vào lúc nào?). Vì thế giáo viên không có sự sáng tạo mà chỉ thực hiện khâu đọc và hướng dẫn đọc một cách sáo mòn theo quy trình 4 bước của SGV hoặc sách hướng dẫn đó là:
Bước 1: Giáo viên nêu yêu cầu đọc, hướng dẫn đọc (theo SGK hoặc Sách hướng dẫn giáo viên).
Bước 2: Giáo viên đọc mẫu (có thể gọi một học sinh đọc).
Bước 3: Gọi một học sinh đọc thể nghiệm theo yêu cầu.
Bước 4: Gọi một học sinh nhận xét cách đọc của bạn.
Qua dự giờ đồng nghiệp tôi thấy giáo viên áp dụng quy trình trên và thực hiện như sau: 
Ví dụ: Dạy bài : Nước Đại Việt ta (Trích Bình Ngô Đại Cáo) của tác giả Nguyễn Trãi - Ngữ văn 8 tập 2 
- GV nêu yêu cầu đọc: Đọc với giọng hùng hồn tha thiết
- GV đọc mẫu ( nhưng GV đọc chưa thể hiện được ý đồ của tác phẩm)
- GV yêu cầu 1 HS đọc
- GV yêu cầu HS khác nhận xét và đọc lại.
Theo các bước trên, đa số các đồng chí đi dự giờ đều nhận xét trong buổi họp tổ chuyên môn là phần đọc và phần hướng dẫn đọc của giờ dạy trên đó đúng phương pháp và thực hiện đúng yêu cầu bộ môn .
Nhưng tôi mạnh dạn khẳng định rằng: Đúng thì có đúng song đã sáo mòn rồi và sáo mòn theo một kiểu mới! Tại sao lại sáo mòn? Vì rằng: 
+ Bản thân giáo viên đọc mẫu bài văn chưa hẳn đó thực sự hay và diễn cảm. Còn đọc sai ngữ âm, ngắt nhịp.
+ Giáo viên nêu yêu cầu đọc trước khi đọc là áp đặt. Chưa hẳn phần nêu yêu cầu đọc của giáo viên đó đủ gợi cảm xúc cho học sinh trước một tác phẩm (điều này trái với tư tưởng dạy học mới).
+ Gọi HS nhận xét bạn ( trong khi HS đó chưa có điều kiện hiểu kỹ tác phẩm thì dẫn tới nhận xét lệch lạc, chỉ khen chung chung).
+ Việc GV đã tách đọc thành một mục riêng là giả tạo,vì trong phần phân tích phải có phần đọc – hiểu.

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_bien_phap_khac_phuc_nhung_sao_mon_o_khau_doc_va.doc