SKKN Một số biện pháp khắc phục lỗi chính tả cho học sinh lớp 6A Trường THCS Hoằng Long
Như chúng ta đã biết, chữ Quốc ngữ là một nét đẹp trong văn hóa của người Việt, gìn giữ và viết đúng chính tả không chỉ là giữ gìn và phát huy truyền thống văn hóa dân tộc mà còn là trách nhiệm của mỗi người dân Việt Nam yêu nước, yêu sự trong sáng của tiếng Việt.
Thực trạng viết sai chính tả đang là mối quan tâm của nhiều người, của cộng đồng xã hội trong việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Học sinh bậc Trung học cơ sở (THCS) viết không đúng chính tả là một hiện tượng khá phổ biến trong các nhà trường nói chung và Trường THCS Hoằng Long nói riêng. Việc viết không đúng chính tả không chỉ diễn ra ở những đối tượng học sinh trung bình hay yếu, kém mà ngay cả đối tượng học sinh khá giỏi. Điều đó sẽ có ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả học tập của bản thân các em cũng như thành tích chung của lớp và nhà trường, bởi việc viết sai chính tả rất dễ dẫn đến hiện tượng kiến thức trong vở ghi không rõ ràng, hoặc sai, khi về nhà ôn bài các em sẽ khó hiểu hoặc hiểu sai kiến thức; sai lỗi chính tả trong các bài kiểm tra, bài thi sẽ còn bị trừ điểm bài làm, dẫn đến kết quả học tập sẽ không cao, nhất là môn Ngữ văn.
Như vậy, dù ở góc độ nào, việc các em viết sai lỗi chính tả sẽ ảnh hưởng đến thành tích của cá nhân và tập thể. Nhưng quan trọng hơn nữa, nó sẽ làm giảm đi sự trong sáng, giàu đẹp của tiếng Việt, làm giảm đi hiệu qủa giao tiếp của cộng đồng.
Vấn đề trên đã đặt ra cho mỗi giáo viên THCS, nhất là với giáo viên Ngữ văn, ngoài việc cung cấp cho học sinh kiến thức về bộ môn, rèn các kĩ năng tạo lập văn bản còn phải luyện cho các em viết đúng chính tả.
Bản thân vừa làm công tác quản lý vừa tham gia giảng dạy, sau nhiều năm nghiên cứu, thực hiện, tôi đã tích lũy được một số biện pháp giúp học sinh lớp 6 khắc phục lỗi chính tả và đạt được những kết quả khả quan. Đó cũng là lý do tôi chọn đề tài: “Một số biện pháp khắc phục lỗi chính tả cho học sinh lớp 6A Trường THCS Hoằng Long” để nghiên cứu và áp dụng.
MỤC LỤC Nội dung Trang 1. MỞ ĐẦU 1 1.1. Lý do chọn đề tài 1 1.2. Mục đích nghiên cứu 1 1.3. Đối tượng nghiên cứu 1 1.4. Phương pháp nghiên cứu 2 2. NỘI DUNG 3 2.1. Cơ sở lý luận 3 2.2. Thực trạng. 3 2.2.1. Thuận lợi 3 2.2.2. Khó khăn 4 2.2.3. Chất lượng khảo sát trước khi áp dụng đề tài 4 2.3. Một số biện pháp và tổ chức thực hiện 5 2.3.1. Biện pháp 1: Luyện nói chuẩn tiếng phổ thông 6 2.3.2. Biện pháp 2: Ôn luyện các quy tắc viết chính tả tiếng Việt 7 2.3.3. Biện pháp 3: Cung cấp một số mẹo luật viết chính tả 9 2.3.4. Biện pháp 4: Làm bài tập để luyện viết chính tả 11 2.3.5. Biện pháp 5: Tổ chức luyện viết chính tả 12 2.3.6. Biện pháp 6: Kiểm tra việc luyện viết chính tả 13 2.3.7. Biện pháp 7: Lập sổ tay chính tả 14 2.4. Hiệu quả 14 3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ 15 3.1. Kết luận 15 3.2. Kiến nghị và đề xuất 16 1. MỞ ĐẦU 1.1. Lý do chọn đề tài Như chúng ta đã biết, chữ Quốc ngữ là một nét đẹp trong văn hóa của người Việt, gìn giữ và viết đúng chính tả không chỉ là giữ gìn và phát huy truyền thống văn hóa dân tộc mà còn là trách nhiệm của mỗi người dân Việt Nam yêu nước, yêu sự trong sáng của tiếng Việt. Thực trạng viết sai chính tả đang là mối quan tâm của nhiều người, của cộng đồng xã hội trong việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Học sinh bậc Trung học cơ sở (THCS) viết không đúng chính tả là một hiện tượng khá phổ biến trong các nhà trường nói chung và Trường THCS Hoằng Long nói riêng. Việc viết không đúng chính tả không chỉ diễn ra ở những đối tượng học sinh trung bình hay yếu, kém mà ngay cả đối tượng học sinh khá giỏi. Điều đó sẽ có ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả học tập của bản thân các em cũng như thành tích chung của lớp và nhà trường, bởi việc viết sai chính tả rất dễ dẫn đến hiện tượng kiến thức trong vở ghi không rõ ràng, hoặc sai, khi về nhà ôn bài các em sẽ khó hiểu hoặc hiểu sai kiến thức; sai lỗi chính tả trong các bài kiểm tra, bài thi sẽ còn bị trừ điểm bài làm, dẫn đến kết quả học tập sẽ không cao, nhất là môn Ngữ văn. Như vậy, dù ở góc độ nào, việc các em viết sai lỗi chính tả sẽ ảnh hưởng đến thành tích của cá nhân và tập thể. Nhưng quan trọng hơn nữa, nó sẽ làm giảm đi sự trong sáng, giàu đẹp của tiếng Việt, làm giảm đi hiệu qủa giao tiếp của cộng đồng. Vấn đề trên đã đặt ra cho mỗi giáo viên THCS, nhất là với giáo viên Ngữ văn, ngoài việc cung cấp cho học sinh kiến thức về bộ môn, rèn các kĩ năng tạo lập văn bản còn phải luyện cho các em viết đúng chính tả. Bản thân vừa làm công tác quản lý vừa tham gia giảng dạy, sau nhiều năm nghiên cứu, thực hiện, tôi đã tích lũy được một số biện pháp giúp học sinh lớp 6 khắc phục lỗi chính tả và đạt được những kết quả khả quan. Đó cũng là lý do tôi chọn đề tài: “Một số biện pháp khắc phục lỗi chính tả cho học sinh lớp 6A Trường THCS Hoằng Long” để nghiên cứu và áp dụng. 1.2. Mục đích nghiên cứu Nâng cao chất lượng viết đúng chính tả cho học sinh lớp 6A trường THCS Hoằng Long. 1.3. Đối tượng nghiên cứu Một số biện pháp khắc phục lỗi chính tả cho học sinh lớp 6A ở trường THCS Hoằng Long. 1.4. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài đề ra, tôi đã xây dựng nhóm phương pháp như sau: 1.4.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết: Nghiên cứu tài liệu, tư liệu có liên quan đến đề tài. 1.4.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: - Phương pháp luyện tập thực hành: Đây là phương pháp chủ đạo trong quá trình dạy và học môn Ngữ văn. Chỉ có thông qua con đường luyện tập thực hành thì mới hình thành được năng lực viết đúng chính tả một cách có hiệu quả. - Phương pháp giao tiếp: Phương pháp này giúp học sinh khắc sâu những quy tắc chính tả một cách có ý thức. Muốn sử dụng phương pháp này cần có hệ thống câu hỏi phù hợp với từng đối tượng học sinh. - Phương pháp phân tích ngôn ngữ : Để sử dụng tốt phương pháp này, giáo viên phải chọn những từ ngữ dễ lẫn, tùy theo từng địa phương, tùy theo tình hình lớp. Cách phân tích phải dễ hiểu, không sử dụng thuật ngữ khó hiểu đối với học sinh. - Phương pháp điều tra, thống kê kết quả: Phương pháp này nhằm kiểm tra chất lượng học tập của học sinh qua từng giai đoạn. 2. NỘI DUNG 2.1. Cơ sở lý luận Trong “Báo cáo chính trị” của Ban chấp hành Đảng bộ thành phố Thanh Hóa khóa XIX, tại Đại hội Đại biểu Đảng bộ thành phố lần thứ XX, nhiệm kỳ 2015-2020 có nêu: “Thực hiện nhiệm vụ đổi mới chương trình giáo dục ở các bậc học, ngành học, chú trọng giáo dục toàn diện về đạo đức, kiến thức, kỹ năng, thể chất, ý thức cộng đồng và tuân thủ pháp luật, viết chuẩn, nói chuẩn tiếng phổ thông” Để nói chuẩn, viết chuẩn tiếng phổ thông thì việc rèn luyện các kỹ năng: nghe, nói, đọc, viết là rất quan trọng. Rèn nét chữ cho HS không chỉ là công việc ngày một ngày hai, cũng không phải một thầy cô giáo dạy môn Ngữ văn rèn luyện là có thể thành công đối với các em. Mà đó là một quá trình nỗ lực tự bản thân học sinh cố gắng rèn luyện, có người hướng dẫn là các giáo viên dạy môn Ngữ văn, sự giám sát nhắc nhở của các thầy cô giáo bộ môn cùng phối hợp với phụ huynh của học sinh mới tạo nên sự thành công ấy. Tục ngữ xưa đã nói: “Nét chữ nết người”, công việc rèn nét chữ cho các em không phải kết quả thu được là vở sạch chữ đẹp mà còn rèn luyện đức tính kiên trì, nhẫn nại, không bỏ cuộc giữa chừng cho các em. Đó là đức tính mà mỗi con người muốn thành công không thể không có. Hơn thế nữa, một học sinh khi ra đời, làm bất cứ một công việc gì cũng cần đến công việc viết lách. Trong cuộc sống hiện đại ngày nay, khi công nghệ thông tin phát triển không ngừng các em có thể nói rằng chữ xấu thì có thể đánh máy, song không thể viết đúng nếu như các em không hiểu luật, và các quy tắc chính tả. Bởi vậy, tôi mạnh dạn đi sâu vào vấn đề có thể xem là vấn nạn không chỉ ở học đường mà của toàn xã hội khi các biển quảng cáo, các bản tin, các phương tiện thông tin đại chúng ngày càng sai nhiều lỗi chính tả một cách ngớ ngẩn. 2.2. Thực trạng Năm học 2016- 2017, khối 6 Trường THCS Hoằng Long có tổng số 47 học sinh được biên chế thành 02 lớp, lớp 6A có 24 học sinh, trong đó có 13 nam, 11 nữ. 2.2.1 Thuận lợi - Đa số các em đã được nắm được một số qui tắc viết chính tả ở cấp Tiểu học. - Sĩ số học sinh của lớp ít, thuận lợi cho việc uốn nắn, theo dõi quá trình rèn luyện của các em. - Nhà trường quan tâm sâu sắc trong việc chỉ đạo, tạo điều kiện về chuyên môn, cũng như cơ sở vật chất, giúp đỡ giáo viên trong quá trình nghiên cứu. - Phụ huynh quan tâm nhiều đến việc học tập và rèn luyện của học sinh. - Bản thân tôi luôn tìm tòi, học hỏi, năng động trong công tác, nhiệt tình trong công việc hoàn thành tốt nhiệm vụ. 2.2.2. Khó khăn - Một số em chưa có ý thức tự giác học. Việc học tập của các em cần phải có người nhắc nhở. - Một số em chưa nắm được một số qui tắc khi viết chính tả. - Một số phụ huynh còn coi nhẹ việc học tập của con em. - Thời gian học tập của các em còn hạn chế. Mặc khác, một bộ phận không nhỏ học sinh còn ham chơi lười học, không chịu suy nghĩ, tư duy trong khi nói và viết - Một số phụ huynh chưa thật sự quan tâm đến việc học của con em mình. - Trên 90% học sinh là con em địa phương gốc Hoằng Long nên việc sử dụng ngôn ngữ địa phương ảnh hưởng rất nhiều trong ngôn ngữ nói và viết. 2.2.3. Chất lượng khảo sát trước khi áp dụng đề tài Qua chấm bài khảo sát đầu năm , tôi đã thống kê các loại lỗi mà học sinh thường mắc phải: - Viết sai phụ âm đầu: Ví dụ: s và x (hàm súc -> hàm xúc), r và d (buồn rầu -> buồn dầu), d và gi (dữ dằn -> dữ giằn, giỗ chạp -> dỗ chạp), ch với tr (chào cờ -> trào cờ ) - Viết sai phần vần: Ví dụ: quyền hành -> quền hành, khỏe khoắn -> khẻo khoán, hồn nhiên -> hồn nhin, quang cảnh -> qoang cảnh, nhiệt huyết -> nhiệt huýt, canh hến, rau dền -> canh hếnh, rau dềnh - Viết sai thanh điệu, phổ biến nhất là lẫn lộn giữa thanh hỏi và thanh ngã: Ví dụ: như: sạch sẽ -> sạch sẻ, nỗi buồn -> nổi buồn, bãi biển -> bải biển, giữ gìn -> giử gìn, nghỉ bão-> nghĩ bảo - Không viết hoa theo quy định như: không viết hoa chữ cái đứng đầu các câu, không viết hoa tên người, tên các tổ chức, các địa danh, tên tác phẩm, hoặc có thể viết hoa tùy tiện. Ví dụ: Em Sơn lớp 6A viết nhãn vở: trường trung học cơ sở hoằng long (Trường Trung học cơ sở Hoằng Long). Kết quả khảo sát cụ thể: STT Các lỗi thường gặp Số lượng Tỉ lệ Ghi chú 1 Viết sai phụ âm đầu 10/24 41.6 2 Viết sai phần vần (âm chính, âm cuối) 12/24 50.0 3 Viết lẫn lộn giữa thanh hỏi và thanh ngã 12/24 50.0 4 Viết hoa sai quy tắc 10/24 41.6 Qua khảo sát, tôi nhận thấy ở bài làm cũng như vở ghi Ngữ văn của học sinh các loại lỗi: phần vần, phụ âm đầu, thanh điệu và lỗi dùng từ lệch chuẩn – lỗi chồng lỗi. *Nguyên nhân Có nhiều nguyên nhân để dẫn đến tình trạng các em viết sai lỗi chính tả nhiều như đã nói ở trên, cụ thể như sau: - Do ở bậc THCS các em thay đổi phương pháp học, các em không được cô giáo ghi hết các đơn vị kiến thức lên bảng hoặc đọc bài cho chép. Chủ yếu là các em vừa nghe cô giáo giảng bài vừa ghi mà lượng kiến thức nhiều các em phải ghi nhanh mới kịp nên rất dễ viết sai. - Do các em phát âm chưa chuẩn- phát âm tiếng địa phương, nên khi viết dẫn đến sai chính tả. - Do các em chưa nắm vững quy tắc viết chính tả tiếng Việt (quy tắc viết hoa, quy tắc viết các con chữ và liên kết chúng, cách đánh dấu thanh) đã được học ở lớp dưới. - Do một bộ phận học sinh viết ẩu, viết nhanh cho xong để làm việc riêng cũng dẫn đến viết sai chính tả. Như vậy có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên thế nhưng thời lượng chương trình dành cho việc luyện viết đúng của các em trong chương trình Ngữ văn THCS rất ít: ngoài 4 bài tập chính tả xen vào các bài học ở sách Ngữ văn 6, và mấy tiết chữa lỗi dùng từ, diễn đạt ở các khối lớp 6,7,8 nên thời gian luyện viết chính tả cho các em rất hạn chế. 2.3. Một số biện pháp và tổ chức thực hiện Ở trên lớp thông thường giáo viên dừng việc chữa lỗi chính tả cho học sinh thông qua việc kiểm tra vở của các em ở mỗi tiết học (mỗi tiết được 1- 2 em, khoảng một hai bài trong vở của các em). Giáo viên còn chú ý tranh thủ thời gian đọc bài ở mỗi phần bài học để luyện cho các em phát âm chuẩn tiếng Việt: Mỗi khi có học sinh đọc sai (lẫn lộn phụ âm đầu, lẫn lộn các thanh) giáo viên yêu cầu học sinh dừng lại và hướng dẫn các em đọc lại cho đúng, bởi các em có đọc đúng thì mới viết đúng được, và khi chấm bài kiểm tra của các em thì ngoài việc chữa lỗi về kiến thức, lỗi diễn đạt (dùng từ, đặt câu) thì lỗi chính tả của các em đều được giáo viên chú trọng: những từ các em viết sai được giáo viên gạch chân bên dưới rồi viết lại lên trên để các em nhận biết, rút kinh nghiệm. Ngoài ra, giáo viên tổ chức cho học sinh thực hiện luyện viết chữ đẹp vào bộ vở luyện viết theo yêu cầu chung của các cấp và chấm chữa , phát hiện sai sót của các em để điều chỉnh kịp thời. Tuy nhiên, việc luyện viết chính tả bằng những hình thức làm như trên chưa kiểm tra được thường xuyên từng học sinh nên các em chủ quan và chưa thấy hết tầm quan trọng của việc này nên cũng không thường xuyên luyện tập để viết đúng, viết đẹp. Để phát huy được mặt tích cực và khắc phục được điểm hạn chế của hình thức chữa lỗi như đã nói ở trên theo tôi phải kết hợp linh hoạt nhiều hình thức chữa lỗi và luyện viết cho các em cả ở trên lớp và ở nhà, đòi hỏi phải có thời gian lâu dài cũng như sự nhiệt tình, kiên nhẫn của tất cả giáo viên và học sinh Căn cứ vào kết quả khảo sát đầu năm của học sinh lớp 6, để nâng cao ý thức luyện viết đúng chính tả và chất lượng học tập của các em, tôi đã kết hợp linh hoạt nhiều hình thức chữa lỗi và luyện viết cho các em như: Chuẩn bị sẵn các câu hỏi, bài tập phù hợp với đối tượng học sinh, với nội dung của chương trình học để vừa luyện viết vừa ôn luyện kiến thức cho học sinh. Để khắc phục được các lỗi chính tả của học sinh như đã thống kế trên, tôi đã kết hợp sử dụng các biện pháp sau: 2.3.1. Biện pháp1: Luyện nói chuẩn tiếng phổ thông. Học sinh muốn viết chuẩn tiếng phổ thông thì phải nói chuẩn tiếng Việt phổ thông, chính âm luôn đi trước chính tả. Biện pháp này, tôi rất chú trọng luyện phát âm chuẩn tiếng phổ thông cho học sinh trong phần đọc và tìm hiểu chú thích ở các tiết Văn bản. Ví dụ: Học văn bản “Cầu Long Biên- Chứng nhân lịch sử” lớp 6 có đoạn thơ học sinh hay phát âm sai theo tiếng địa phương Hoằng Long như các từ: Biên-> Bin, sông->xông, rộng-> dộng; người-> ngừi, ngược-> ngựưc “ Hà Nội có cầu Long Biên Vừa dài vừa rộng bắc trên sông Hồng Tàu xe đi lại thong dong Người người tập nập gánh gồng ngược xuôi” Ngoài ra học sinh còn được các cô giáo chủ nhiệm lớp triển khai chuyên đề “ Nói chuẩn, viết chuẩn tiếng phổ thông” đã góp một phần không nhỏ trong việc nâng cao chất lượng nói chuẩn tiếng phổ thông . Triển khai chuyên đề “ Nói chuẩn, viết chuẩn tiếng phổ thông” Lớp 6A - GVCN- Cô: Trần Thị Hòa 2.3.2. Biện pháp 2: Ôn luyện các quy tắc viết chính tả của tiếng Việt Việc tổ chức cho các em ôn luyện lại các quy tắc viết chính tả của tiếng Việt để viết đúng.Tôi đã cố gắng bố trí dành khoảng 10 phút cuối của các giờ trả bài kiểm tra hoặc cuối các buổi ôn tập do nhà trường tổ chức để hướng dẫn lại cho các em quy tắc viết chính tả của tiếng Việt, ví dụ như: * Dựa vào quy tắc ngữ âm để viết đúng các chữ: k / c / q , ng /ngh, g/ gh đứng trước: Đứng trước các nguyên âm: i, iê, e, ê, viết k, gh, ngh. Ví dụ: ghi, ghé, kẻ, kê, nghiền. - Đứng trước các nguyên âm: a, ă, u, ư, o, uô, ươ viết c, g , ng. Ví dụ: ca, căn, cước, gà, gò, guốc, ngà, nguôi, người - Đứng trước nguyên âm: u, uơ viết q. Ví dụ: quá, quở - N không đứng trước các âm đệm oa, oă, uâ, uy, ây. L đứng trước các âm đệm trên. - X kết hợp các vần bắt đầu bằng oa, oă, oe, uê. S không kết hợp với các vần trên. - Tr không thể đứng trước chữ có vần bắt đầu bằng oa, oe, uê và đi với dấu nặng, dấu huyền. Ch đứng trước các vần như trên. - D có thể đứng trước các vần bắt đầu bằng oa, oă, uâ, oe, uê, uy và đi đôi với dấu nặng, dấu ngã. Gi không thể đứng trước các vần trên và đi đôi với dấu sắc, dấu hỏi, dấu huyền . *Dựa vào các quy tắc ngữ nghĩa để phân biệt các chữ: d / gi, c / q (phải nhớ nghĩa, nhớ âm và cách viết quen thuộc từng từ để viết đúng chính tả). Ví dụ: - Âm “ dao”(đồ dùng để chặt, thái ) thì viết “ dao” (con dao, mài dao ). - Âm “ dao” (chỉ mối quan hệ tương tác) thì viết “giao“ (ngoại giao, giao chiến ). - Âm “ cuốc” (đồ dùng để cuốc đất, vun, xới đất cát, chỉ tên gọi của một loại chim ) thì viết “ cuốc” ( cái cuốc, con chim cuốc). - Âm “ cuốc” (có nghĩa chỉ đất nước ) thì viết “ quốc” (quốc gia, quốc kì). *Dựa vào các quy tắc hòa phối âm thanh của các tiếng trong từ láy để nhận biết các thanh như sau: + Các tiếng có dấu thanh không , sắc, hỏi thường đi đôi với nhau. Ví dụ: nhỏ nhắn, róc rách, ngo ngoe, đỏng đảnh, nghỉ ngơi, cáu kỉnh + Các tiếng có dấu thanh huyền, ngã, nặng thường đi đôi với nhau. Ví dụ: già dặn, vừa vặn, bạc bẽo, bồng bềnh, mĩ miều + Trong trường hợp gặp một từ mà khó phân biệt dấu hỏi hay ngã thì tạo từ láy âm. - Nếu tiếng láy âm với nó là thanh không, sắc, hỏi thì là dấu hỏi (ví dụ: dở dang, lỏng lẻo). - Nếu tiếng kia là thanh huyền, ngã, nặng thì là dấu ngã (ví dụ: rõ ràng, se sẽ, nũng nịu, khe khẽ,). * Kết hợp các quy tắc chính âm, chính tả để viết đúng các âm đầu, âm cuối: - Nhớ âm, nhớ nghĩa để đọc đúng, viết đúng các từ . Ví dụ: man mát -> man mác, hiêu quạnh -> hiu quạnh. - So sánh với từ gần âm, gần nghĩa, trái nghĩa để nhớ cách viết đúng chính tả, ví dụ: can / gan, san sát / ran rát, lấc cấc/ xấc láo - Dùng” i” thay cho” y”ở cuối các âm tiết mở. Ví dụ; hi sinh, hi vọng, biệt liTrừ trong các âm tiết “ uy ’’ và các trường hợp sau “ qu ’’ hoặc “y” đứng một mình hoặc đứng đầu âm tiết. Ví dụ: ý nghĩa, ý chí, yêu mến, huy động, quy tắc, quý trọng. Tuy nhiên, một số từ có “ i ” làm thành tố vẫn viết theo thói quen như : ỉ eo, ầm ĩ; hoặc “ i ” đứng đầu một số âm tiết như: in, im lặng, ít ỏi, ỉu xìu *Hướng dẫn các em nắm lại quy tắc viết hoa trong tiếng Việt để các em viết đúng chính tả .Cụ thể như sau: + Trường hợp thứ nhất: Viết hoa chữ cái đầu các tiếng và không dùng gạch nối. Bao gồm như sau: - Tên riêng của người Việt Nam (đọc theo âm Hán-Việt) bao gồm tên thật, tên tự, tên hiệu, cả trường hợp một số tên người Việt Nam được cấu tạo kết hợp bởi một danh từ chung với danh từ riêng dùng để gọi như: Ông Gióng, cụ Đồ Chiểu, Tú XươngTên riêng của người Trung Quốc, ví dụ: Mao Trạch Đông - Tên các địa danh Việt Nam và tên địa lý đọc theo âm Hán-Việt. - Tên địa lí thế giới phiên âm gián tiếp qua tiếng Hán và đọc theo âm Hán- Việt. Ví dụ: Ai Cập, Đan Mạch, Tây Ban Nha - Tên các năm âm lịch. Ví dụ: Kỉ Tỵ, Đinh Mão + Trường hợp thứ hai: Viết hoa chữ cái đầu của tiếng thứ nhất và không dùng gạch nối. Bao gồm như sau: - Tên các ngày tiết và ngày tết. Ví dụ: tiết Lập xuân, Đại hàn, tết Trung thu, tết Nguyên đán - Tên các thời kì, phong trào, sự kiện lịch sử. Ví dụ: thời kì Phục hưng, phong trào Cần vương - Tên các huân chương ,huy chương, danh hiệu vinh dự. Ví dụ: Kỉ niệm chương, Tổ quốc ghi công, Nhà giáo nhân dân, Anh hùng lao động - Tên các tác phẩm, sách báo, văn kiện được trích dẫn (trừ trường hợp tên người, tên địa lí được dùng làm tên tác phẩm. Ví dụ: Hồ Chí Minh toàn tập) - Tên các tổ chức (viết hoa chữ cái đầu của thành tố đầu và các từ, các cụm từ có cấu tạo đặc trưng và khu biệt của tổ chức và tên riêng nếu có, ví dụ: Quốc hội Việt Nam, Nhà xuất bản Giáo dục, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội...) + Trường hợp thứ ba: Viết hoa chữ cái đầu của âm tiết đứng đầu và dùng gạch nối, bao gồm: - Tên riêng của người nước ngoài được phiên âm trực tiếp có nhiều âm tiết. Nếu bao gồm cả họ, tên thì viết hoa âm tiết đầu của phần họ và phần tên. Ví dụ: Mác-xim Go-rơ-ki, Ra-bin-đra-nát Ta-go - Tên địa danh nước ngoài được phiên âm trực tiếp có nhiều âm tiết, ví dụ: Can-cút-ta, Ben-gan, 2.3.3. Biện pháp 3: Cung cấp một vài mẹo viết chính tả. Tôi cung cấp cho học sinh các mẹo về sử dụng dấu ngã và dấu hỏi đối với từ láy là: “Huyền ngã nặng, sắc hỏi không”. + Nghĩa là sử dụng dấu ngã đối với từ láy có dấu huyền và dấu nặng như: dễ dàng, rõ ràng, buồn bã, hững hờ, cãi cọ, rõ rệt, mạnh mẽ,đẹp đẽ, gặp gỡ... + Sử dụng dấu hỏi đối với từ láy có dấu sắc và không dấu: sửa sang, hăm hở, gửi gắm, rải rác, thong thả, mát mẻ, bảnh bao, sắm sửa... Để dễ nhớ, có thể cho học sinh học thuộc quy tắc xử dụng dấu ngữ, dấu hỏi bằng các câu thơ sau: Chị Huyền vác nặng ngã đau Anh Sắc không hỏi một câu được là - Cung cấp cho học sinh mẹo về sử dụng dấu ngã và dấu hỏi đối với từ Hán-Việt: + Sử dụng dấu ngã khi có phụ âm đầu là: d (dũng, dữ, dưỡng...) , l (lãm, lãnh, lĩnh, lễ, liễu, lỗi...) , m (mẫu, mã, mẫn, mỹ, miễn...), n, nh, ng, ngh (não, ngã, ngãi, ngũ, nghĩa, nghĩ, nghiễm...), v (vãng, vỹ, võ, vũ, võng...). + Sử dụng dấu hỏi khi có phụ âm đầu là: ch (chuẩn, chỉnh, chuyển, chưởng...), gi (giải, giả, giảng, giản...), kh (khải, khả, khởi, khuẩn, khẩn, khổ, khuyển...), và các từ Hán- Việt không có phụ âm đầu như: ải, ảm, ảnh, ảo, ẩm, ấn, ẩu, ổn, uẩn, ủng, uổng, uỷ, uyển, ỷ, yểm, yểu. - Ghi nhớ những từ ngữ thường dễ mắc lỗi chính tả thông qua thơ và những đoạn văn để dễ ghi nhớ. Ví dụ : + Từ “tấc” (10 cm) chỉ có một trường hợp và phụ âm cuối là “c”, đọc là “xê”: Thước xê (c) thì tấc cũng xê Tấc xê có một, tấc xê tới mười + Từ “chặt” phụ âm cuối là “t”, đọc là “tê”: Chặt là tê, tê mà thôi Ai mà viết trật là tôi đánh đòn + Từ “phác” phụ âm cuối là “c”, đọc là “xê”: Cô C (xê) chất phác hiền lành Óc luôn phác họa chương trình làm ăn + Từ “băn khoăn” và “bâng khuâng”: Băn khoăn ăn nói ngại ngùng Bâng khuâng vâng dạ mà lòng quạnh hiu + Cách nhớ các tiếng có phụ âm cuối là “c” và “t” thông qua những câu bình thường như: . Lác đác đó đây: người mắt lác, kẻ bệnh lác, ngồi chiếu lác. . Nghe mùi thơm nức mà nghe nức nở trong lòng. . Tà áo là lượt, đi lượt thượt, qua nhà ba lượt. + Cách nhớ các tiếng có phụ âm đầu là “gi” và “d” thông qua đoạn văn: Phụ âm “gi”: Giò heo giấu trong giỏ, treo ở giàn hoa, kề giậu. Cá giếc thích ăn
Tài liệu đính kèm:
- skkn_mot_so_bien_phap_khac_phuc_loi_chinh_ta_cho_hoc_sinh_lo.doc