SKKN Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5A trường Tiểu học Ban Công học tốt phân môn Địa lí

SKKN Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5A trường Tiểu học Ban Công học tốt phân môn Địa lí

Như chúng ta đã biết, đất nước ta đang trên con đường đổi mới. Trong cuộc cách mạng đổi mới ấy, giáo dục được ưu tiên hàng đầu và được coi là quốc sách với mục tiêu là: “Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài” để đào tạo thế hệ trẻ thành những con người phát triển toàn diện phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đáp ứng nhu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, “ Vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng văn minh”.

Nòng cốt của giáo dục là đổi mới về nội dung phương pháp giáo dục cho phù hợp với hướng tự giác tích cực của học sinh.

 Tất cả các môn học trong các bậc học đều góp phần thực hiện mục tiêu đó. Phân môn Địa lí trong trường Tiểu học cũng vậy. Đây là môn học cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản, thiết thực về các sự vật, hiện tượng, các mối quan hệ địa lí đơn giản về thiên nhiên, đất nước, con người, cách vận dụng chúng trong đời sống và sản xuất. Không chỉ thế nó còn góp phần bồi dưỡng và phát triển thói quen ham học hỏi, ham tìm tòi để hiểu biết về thế giới xung quanh. Đặc biệt, phân môn Địa lí 5 còn cho các em hiểu rõ về chính đất nước của mình, khiến các em được mở rộng tầm nhìn về từng vùng miền của đất nước. Ngoài ra, chương trình cũng giúp các em lĩnh hội được một số đặc điểm tiêu biểu của từng châu lục và các đại dương trên thế giới. Cùng với các môn học khác góp phần giáo dục toàn diện cho học sinh Tiểu học.

 Với những trăn trở tìm biện pháp để dạy học phân môn Địa lí ở Tiểu học như thế nào cho có hiệu quả? Đó không chỉ là vấn đề bản thân tôi quan tâm mà hầu hết các Giáo viên Tiểu học đều quan tâm để phân môn Địa lí không chỉ cung cấp kiến thức cơ bản cần thiết mà còn là môn học hấp dẫn học sinh. Đó chính là lí do tôi chọn đề tài: “Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5A trườngTtiểu học Ban Công học tốt phân môn Địa lí”, với sáng kiến này tôi mong muốn học sinh lớp 5 yêu những gì mà thiên nhiên đã ban tặng cho con người. Từ đó các em sẽ tích cực, tự nguyện tham gia góp phần bảo vệ môi trường và trân trọng giữ gìn những thành tựu kinh tế đất nước.

 

doc 20 trang thuychi01 11733
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5A trường Tiểu học Ban Công học tốt phân môn Địa lí", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
Nội Dung
Trang
 A : MỞ ĐẦU
I.Lí do viết sáng kiến
II.Mục đích nghiên cứu
1
III. Đối tượng phạm vi nghiên cứu
IV. Phương pháp nghiên cứu
 B:NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
I.Cơ sở lí luận
2
II. Thực trạng về vấn đề dạy và học địa lí hiện nay
Những thuận lợi
 Những khó khăn
3
 3. Kết quả khảo sát thực trạng học sinh
4
III. Giải pháp và tổ chức thực hiện.
 Biện pháp 1: Xây dựng thói quen xác lập mối quan hệ địa lí đơn giản giữa các yếu tố địa lí.
5
 Biện pháp 2: Rèn kỹ năng sử dụng bản đồ, lược đồ
7
8
9
 Biện pháp 3: Hướng dẫn học sinh khai thác kiến thức từ bảng số liệu.
10
 Biện pháp 4: Phát huy tính tích cực, hiệu quả của việc sử dụng phiếu học tập.
11
 Biện pháp 5: Vận dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy địa lí.
14
 Biện pháp 6: Tổ chức các trò chơi học tập
15
 C :KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
 1.Kết quả nghiên cứu..
 2.Bài học kinh nghiệm.
 3. Kết luận và đề xuất.
17
18
19
A. MỞ ĐẦU
I. Lí do chọn đề tài :
Như chúng ta đã biết, đất nước ta đang trên con đường đổi mới. Trong cuộc cách mạng đổi mới ấy, giáo dục được ưu tiên hàng đầu và được coi là quốc sách với mục tiêu là: “Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài” để đào tạo thế hệ trẻ thành những con người phát triển toàn diện phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đáp ứng nhu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, “ Vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng văn minh”.
Nòng cốt của giáo dục là đổi mới về nội dung phương pháp giáo dục cho phù hợp với hướng tự giác tích cực của học sinh.
	Tất cả các môn học trong các bậc học đều góp phần thực hiện mục tiêu đó. Phân môn Địa lí trong trường Tiểu học cũng vậy. Đây là môn học cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản, thiết thực về các sự vật, hiện tượng, các mối quan hệ địa lí đơn giản về thiên nhiên, đất nước, con người, cách vận dụng chúng trong đời sống và sản xuất. Không chỉ thế nó còn góp phần bồi dưỡng và phát triển thói quen ham học hỏi, ham tìm tòi để hiểu biết về thế giới xung quanh. Đặc biệt, phân môn Địa lí 5 còn cho các em hiểu rõ về chính đất nước của mình, khiến các em được mở rộng tầm nhìn về từng vùng miền của đất nước. Ngoài ra, chương trình cũng giúp các em lĩnh hội được một số đặc điểm tiêu biểu của từng châu lục và các đại dương trên thế giới. Cùng với các môn học khác góp phần giáo dục toàn diện cho học sinh Tiểu học.
	Với những trăn trở tìm biện pháp để dạy học phân môn Địa lí ở Tiểu học như thế nào cho có hiệu quả? Đó không chỉ là vấn đề bản thân tôi quan tâm mà hầu hết các Giáo viên Tiểu học đều quan tâm để phân môn Địa lí không chỉ cung cấp kiến thức cơ bản cần thiết mà còn là môn học hấp dẫn học sinh. Đó chính là lí do tôi chọn đề tài: “Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5A trườngTtiểu học Ban Công học tốt phân môn Địa lí”, với sáng kiến này tôi mong muốn học sinh lớp 5 yêu những gì mà thiên nhiên đã ban tặng cho con người. Từ đó các em sẽ tích cực, tự nguyện tham gia góp phần bảo vệ môi trường và trân trọng giữ gìn những thành tựu kinh tế đất nước.
	II. Mục đích nghiên cứu:
	Bản thân tôi nghiên cứu đề tài này nhằm mục đích đổi mới phương pháp dạy học để phát huy những yếu tố tích cực của phương pháp dạy học truyền thống, thay đổi cách thức, phương pháp học tập của học sinh, đem đến cho các em hứng thú học tập, tạo thói quen tư duy độc lập, tích cực sáng tạo trong nhận thức, vận dụng kiến thức trong cuộc sống. Đồng thời góp phần hoàn thiện về mặt trí thức và nhân cách cho các em, giúp các em yêu những gì mà thiên nhiên đã ban tặng cho con người. Từ đó các em sẽ tích cực, tự nguyện tham gia góp phần bảo vệ môi trường và trân trọng giữ gìn những thành tựu kinh tế đất nước. Vì có biết, có hiểu đặc điểm các vùng miền, có quan tâm đến đời sống sản xuất của nhân dân thì các em mới yêu mến quê hương đất nước. Hơn thế nữa bản thân tôi mong muốn nâng cao kiến thức của mình về phân môn Địa lí một môn học mà lâu nay ở bậc Tiểu học chưa được xem là môn học chính ngoài Toán và Tiếng việt.
	III. Đối tượng nghiên cứu:
	Do điều kiện thời gian và trình độ còn hạn chế nên tôi chỉ nghiên cứu một số biện pháp giúp học sinh lớp 5A trường tiểu học Ban Công học tốt phân môn Địa lí.
	IV. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp điều tra thống kê tổng hợp.
Phương pháp nghiên cứu tài liệu. 
Phương pháp phân tích rút kinh nghiệm.
B. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
I. Cơ sở lí luận:
Con người dù hoạt động trong lĩnh vực nào cũng cần có kiến thức về Địa lí. Giáo viên là cầu nối giữa tri thức và nhân loại. Giáo viên có nhiệm vụ giúp học sinh khám phá những kiến thức cơ bản cần thiết về trái đất; môi trường sống của con người; về những hoạt động của con người trên bình diện quốc tế, quốc gia. Trong thời kỳ công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, Địa lí là một trong những bộ môn quan trọng đòi hỏi mỗi người phải có kiến thức am hiểu về nó. Trong sự nghiệp giáo dục hiện nay theo tinh thần đổi mới phương pháp dạy học, trong những giờ lên lớp giáo viên luôn giữ vai trò tổ chức chỉ đạo, tạo hứng thú để học sinh tích cực, chủ động nắm tri thức. Giáo viên đảm nhận vai trò xây dựng kế hoạch, hướng dẫn hoạt động và học sinh luôn được người dạy theo sát giúp đỡ nên tích cực tự giác thể hiện sự năng động trong hoạt động học tập. Học sinh tiếp thu được những nguồn tri thức mới bằng sự khám phá của bản thân với sự định hướng giúp đỡ của giáo viên. Khi tự mình khám phá ra tri thức học sinh sẽ cảm nhận được sự hứng thú, say mê và yêu mến môn học hơn nhiều lần những gì học sinh tiếp nhận một cách thụ động từ giáo viên. 
Để thực hiện tốt được điều trên người giáo viên ngoài việc nắm vững nội dung, phương pháp dạy học của môn học; sử dụng hiệu quả đồ dùng dạy học thì cũng cần biết vận dụng linh hoạt, sáng tạo phương pháp cũng như hình thức tổ chức dạy học.
 	II. Thực trạng về vấn đề dạy và học địa lí hiện nay:
 	Trong thực tế, vì nhiều lí do khác nhau, học sinh hầu như không thích học môn Địa lí. Có thể phần nào vì các thầy cô giành nhiều tâm huyết cho việc đổi mới phương pháp dạy học Toán, Tiếng Việt nên môn Địa lí chưa được quan tâm nhiều. Song về lâu dài, với nếp dạy, nếp học như hiện nay, trong suy nghĩ của học sinh sẽ hình thành một quan niệm nguy hiểm rằng môn Địa lí là môn phụ. Nhưng liệu có thể chấp nhận được không, một học sinh giỏi Toán, giỏi Văn lại chẳng hiểu rõ đỉnh Phan - xi - păng thuộc dãy núi nào? Vì sao sông Hồng có nhiều phù sa? Anh, Pháp, Ấn Độ, Ai Cập thuộc châu lục nào trên thế giới? Có bao điều kỳ diệu, mới mẻ trong môn Địa lí. Và những điều kỳ diệu ấy có thể thấy xung quanh mình. Chẳng hạn như tại sao quê mình lại trồng nhiều ngô? Nơi ông bà sống lại trồng nhiều cà phê? Hay những con đường ngang dọc nơi mình ở thuộc quốc lộ nào trên bản đồ?. Vậy tại sao học sinh không thích học Địa lí? Trong khi để hiểu hết nội dung trong bài, trong môn học ấy cũng không vất vả, khó khăn bằng vận dụng cả núi công thức Toán để làm bài tập toán. Hay tại học sinh mình không thích tìm hiểu khám phá thiên nhiên hay thế giới? Những câu hỏi Tại sao? Thế nào? luôn là sở trường của các em cơ mà? Nghĩa là trẻ rất thích tìm hiểu, nhưng cái chính là ta chưa biết dẫn lối cho chúng.
 	Qua thực tế nhiều năm trực tiếp giảng dạy học sinh lớp 5 của trường Tiểu học Ban Công, dự giờ các đồng nghiệp, khảo sát chất lượng học sinh tôi thấy: Phương pháp dạy - học ở đây còn nhiều vấn đề chưa hợp lí cần phải nghiên cứu, nhận xét và điều chỉnh. Tuy nhiên trong dạy học môn Địa lí cũng như các môn học khác cũng có những thuận lợi và khó khăn nhất định.
 	1. Những thuận lợi trong giảng dạy :
 - Mục tiêu, nội dung chương trình nhẹ nhàng phù hợp với lứa tuổi học sinh.
 - Đặc điểm tâm lí của học sinh Tiểu học thích tò mò, ham hiểu biết, thích tìm hiểu cái lạ, nhạy cảm với cái mới nên đó cũng là một điều kiện tốt để học sinh tiếp nhận kiến thức.
 	2. Những khó khăn trong giảng dạy:
- Giáo viên chưa yêu thích môn Địa lí nên chưa cập nhật, tìm hiểu những thông tin, những hiểu biết về tự nhiên, về con người và cuộc sống xung quanh để hỗ trợ cho môn học.
- Giáo viên chưa nắm vững được một số kỹ năng trong dạy môn Địa lí, kiến thức về môn học này của phần đa giáo viên còn hạn chế và chưa được chú ý để bồi dưỡng nâng cao như môn Toán và Tiếng Việt.
- Cách vận dụng hình thức tổ chức dạy học còn chưa linh hoạt, sáng tạo.
- Chưa kết hợp, phát huy hết tác dụng của các buổi sinh hoạt ngoại khóa (hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp) để củng cố, ôn tập và mở rộng kiến thức địa lí cho học sinh.
	- Cơ sở vật chất còn thiếu thốn, chưa có phòng chức năng. Đồ dùng dạy học tuy được trang bị nhưng chưa đầy đủ và phong phú. Máy vi tính, máy chiếu chưa có mà môn địa lí lại rất cần sưu tầm và đưa lên nhiều hình ảnh và thông tin nên ảnh hưởng rất nhiều đến việc dạy học.
	- Học sinh và phụ huynh chưa chú trọng môn học này, không có điều kiện để tìm hiểu về thiên nhiên, đất nước, con người.
- Một số bản đồ riêng về vùng, miền, nước, châu lục hay quả địa cầu chưa nhiều cũng sẽ gây khó khăn cho việc dạy và học của giáo viên và học sinh.
 3. Kết quả khảo sát thực trạng:
 Trong năm học 2015 – 2016 để kiểm nghiệm cách làm của mình, tôi đã tiến hành khảo sát học sinh lớp 5A trường Tiểu học Ban Công - huyện Bá thước.
 - Thời điểm kiểm tra là: Tuần 1/ tháng 9 năm học 2015 – 2016 khi chưa áp dụng các giải pháp trong sáng kiến.
 * Kết quả thu được như sau : 
Kỹ năng cần đánh giá
 SS
Tốt
Khá
TB
Yếu
SL
 %
SL
 %
SL
 %
SL
 %
Xác lập mối quan hệ địa lí đơn giản giữa các yếu tố địa lí.
28
3
10,7
5
17,8
13
46,4
7
25,1
Kĩ năng sử dụng bản đồ, lược đồ.
28
5
17,8
7
25,1
11
39,3
5
17,8
Kĩ năng khai thác kiến thức từ các bảng số liệu, biểu đồ. 
28
5
17,8
6
21,4
12
43.0
5
17,8
 	* Nhận xét, đánh giá thực trạng:
 Qua bảng số liệu trên cho ta thấy rõ số học sinh chưa biết xác lập mối quan hệ địa lí đơn giản giữa các yếu tố địa lí, kỹ năng sử dụng bản đồ, lược đồ, kỹ năng khai thác kiến thức từ các bảng số liệu, biểu đồ còn ở tỉ lệ thấp.
 Để khắc phục thực trạng trên, từ năm học 2015 – 2016 tôi đã bắt đầu áp dụng một số biện pháp mới để chất lượng dạy và học phân môn Địa lí được nâng cao, hiệu quả các tiết dạy đạt được cao hơn. Cách làm cụ thể của tôi như sau: 
 III. Giải pháp và tổ chức thực hiện. 
 	Để thực hiện tốt đề tài này tôi đã tiến hành đồng bộ các giải pháp sau:
1. Thống kê phân loại đối tượng học sinh ngay từ đầu năm học để nắm được trình độ từng học sinh.
2. Tìm hiểu kĩ yêu cầu cơ bản về kiến thức, kĩ năng của phân môn Địa lí lớp 5 theo chuẩn kiến thức. 
3. Tự học để nâng cao năng lực về các kiến thức địa lí cho bản thân.
4. Nghiên cứu kỹ sách giáo khoa địa lí lớp 5 và đổi mới cách soạn bài, tìm hiểu tài liệu liên quan phục vụ tốt cho bài dạy.
5. Sử dụng triệt để đồ dùng dạy học.
6. Tổ chức ôn tập, kiểm tra qua từng bài, từng chương.
7. Đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức dạy học theo từng dạng bài. 
 Do khuôn khổ bài viết có hạn, trong sáng kiến này tôi xin trình bày “Một số giải pháp sử dụng để nâng cao hiệu quả dạy và học môn Địa lí lớp 5” như sau:
 * Biện pháp1: Xây dựng thói quen xác lập mối quan hệ địa lí đơn giản giữa các yếu tố địa lí. 
5 YẾU TỐ CỦA ĐỊA LÍ 
ĐẤT
KHÍ HẬU
ĐỊA HÌNH
ĐỘNG VẬT / THỰC VẬT
SÔNG / BIỂN
 	Xác lập mối quan hệ địa lí đơn giản giữa các yếu tố địa lí là làm cho học sinh thấy mọi sự vật hiện tượng đều có mối liên quan đến nhau. Thực ra, để dạy về mối quan hệ này không khó vì chương trình lớp 4 chỉ yêu cầu xác định mối quan hệ Địa lí đơn giản, không giải thích nhiều, học sinh chỉ cần hiểu, phân tích được vài yếu tố tự nhiên ảnh hưởng lẫn nhau còn mức độ cao hơn các em sẽ được học ở chương trình Địa lí bậc Trung học cơ sở. Chẳng hạn như cây trồng trên đất màu mỡ sẽ phát triển tốt, cây trồng trên đất cằn cỗi sẽ còi cọc, kém phát triển. Hay nếu chặt phá rừng bừa bãi sẽ làm cho không khí kém trong lành và là nguyên nhân của những trận lũ lụt. 
 	Muốn thấy rõ mỗi sự vật hiện tượng, yếu tố liên quan đến nhau như thế nào phải đặt chúng trong mối quan hệ với các sự vật hiện tượng xung quanh.
 	Giúp học sinh có thói quen đặt và trả lời các câu hỏi: Tại sao? mỗi khi tìm hiểu bài.
 	 Ví dụ 1: Tại sao nước ta có nhiều sông nhưng có ít sông lớn?
 	Để trả lời được câu hỏi này phải nắm được mối quan hệ giữa sông ngòi với địa hình, khí hậu.
 	Địa hình Việt Nam 3/4 là đồi núi và cao nguyên, nước ta lại nằm trong vành đai nhiệt đới, có nhiều mưa, bởi vậy nước ta có nhiều sông. Vì sông tạo thành do hội tụ dòng chảy của nhiều con suối đổ từ trên cao xuống. Đặc điểm địa hình nước ta là hẹp ngang, kéo dài theo phương Bắc Nam vì thế không thể có những con sông lớn.
Ví dụ 2: Quan sát hình 1(SGK trang 87): Lược đồ nông nghiệp Việt Nam: Nhiệm vụ học sinh là: Nêu tên những vật nuôi và vùng phân bố chính của những vật nuôi đó. Sau khi quan sát thảo luận nhóm, học sinh có kết quả chung:
- Trâu bò: Nuôi nhiều ở vùng núi và cao nguyên.
- Lợn và gia cầm: Tập trung nhiều ở vùng đồng bằng.
- Đánh cá và nuôi tôm: Tập trung ở vùng ven biển.
 	Nhưng tại sao trâu bò lại nuôi nhiều ở vùng núi và cao nguyên, lợn và gia cầm tập trung ở đồng bằng, ở vùng ven biển lại phát triển đánh bắt cá và nuôi tôm? Đặt ra và trả lời được câu hỏi này là các em đã thấy được mối quan hệ giữa trồng trọt và chăn nuôi; giữa điều kiện tự nhiên (địa hình) và chăn nuôi, đánh bắt thuỷ sản.
 - Đồng bằng sẵn lương thực (rau, củ, ngũ cốc) nên nuôi nhiều lợn và gia cầm.
 - Vùng núi và cao nguyên có nhiều bãi chăn thả nên nuôi nhiều trâu bò.
 - Vùng ven biển là môi trường sống thích hợp của tôm, cá nên phát triển nuôi trồng và đánh bắt thuỷ sản.
 	Như vậy, các em thấy tất cả các yếu tố địa lí mình đang học đều liên quan chặt chẽ với nhau và khi đã hiểu về mối quan hệ ấy, học sinh sẽ thấy học địa lí không hề khó mà các kiến thức trong sách hết sức thực tế, gần gũi với các em.
 	Để rèn luyện thói quen xác lập mối quan hệ đơn giản giữa các yếu tố địa lí, tôi giúp học sinh luôn chú ý tìm hiểu mối liên quan giữa bài mới với bài cũ. Bởi vì khi biên soạn SGK tác giả đã sắp xếp các nội dung học tập rất logíc, bài sau liên quan đến bài trước. Mỗi bài học đều có sự gợi ý móc nối, liên hệ như vậy, dần dần học sinh sẽ trở thành thói quen. Khi thói quen đã được xây dựng, học sinh có thể tự hỏi, tự giải quyết vấn đề. 
 	Và để củng cố thói quen này, sau mỗi chương mỗi phần, tôi thường hệ thống lại toàn bộ các yếu tố địa lí đã học để học sinh liên hệ tổng hợp hơn.
 	Ví dụ: Sau chương một của phần Địa lí Việt Nam, tôi hướng dẫn học sinh lập bảng thống kê các yếu tố đã học như: Vị trí, địa hình, khí hậu, sông ngòi, đất, động thực vật. Sau đó, tôi yêu cầu các em tìm xem các yếu tố nào có liên quan đến nhau, liên quan như thế nào? Các em sẽ có điều kiện trao đổi, trình bày quan hệ giữa địa hình và sông ngòi (như phần trên tôi đã thể hiện)
 	Có nhóm thể hiện mối quan hệ giữa đất và động thực vật: Vùng đất Pheralít và pheralít trên đá vôi (màu đỏ hoặc vàng) là nơi rừng rậm phát triển cùng với cây bụi, trảng cỏ,Trong nội dung xác lập mối quan hệ giữa các yếu tố địa lí này, tôi cũng lưu ý học sinh: cần so sánh, liên hệ các kiến thức trong SGK với thực tế cuộc sống. Chẳng hạn, diện tích rừng đang giảm dần do nạn chặt phá bừa bãi; Số lượng các loài động vật quý hiếm cũng giảm đáng kể do nạn săn bắn,Khi bài giảng của giáo viên trên lớp bước vào cuộc sống, có thể các em sẽ để ý hơn đến mọi thứ quanh mình. Sẽ có lúc các em ngắm kỹ con sông Mã quê mình và tự nhủ: Mùa lũ nó hung dữ là thế mà mùa khô nó lại hiền hòa như vậy. Môn Địa lí ở ngay cạnh bên mình là như thế!
* Biện pháp 2: Rèn kĩ năng sử dụng bản đồ, lược đồ.
 	Bản đồ là một kênh thông tin quan trọng, đặc biệt là với môn Địa lí. Nếu làm phép tính so sánh coi nội dung của bài địa lí là cái đích thì kênh chữ giống như phương tiện giúp ta tới đích, còn bản đồ chính là hoa tiêu. Mặt khác, tư duy của học sinh Tiểu học vốn là tư duy trực quan sinh động. Tận mắt trẻ thấy, chính tay trẻ làm chúng sẽ ghi nhớ và tiếp nhận kiến thức tốt hơn. Vì thế tôi cho rằng biện pháp này là biện pháp giữ vai trò quan trọng trong quá trình dạy học địa lí.
 	Trước hết tôi rèn cho học sinh kỹ năng xác định phương hướng trên bản đồ. Kiến thức này các em đã được cung cấp từ lớp dưới nhưng vẫn phải liên tục rèn luyện. Thậm chí trước mỗi tiết học mà nội dung có liên quan đến việc xác định phương hướng, tôi đều yêu cầu học sinh ghi nhanh sơ đồ vào giấy nháp: 
 TB B ĐB
 T Đ
 TN N ĐN
 	Vừa xác định được phương hướng, các em phải được thực hành thì mới ghi nhớ được. Mặt khác, việc thực hành trên bản đồ treo tường sẽ kết hợp rèn luôn kỹ năng chỉ bản đồ cho học sinh. 
 	Ví dụ: Thực hành chỉ các dãy núi có hướng Tây Bắc - Đông Nam, những dãy núi có hình cánh cung. (Hình 1 SGK trang 69).
Đầu tiên cần một thời gian thảo luận để các em xác định được đâu là hướng Tây Bắc - Đông Nam, đâu là hướng cánh cung. Sau đó, học sinh thực hành chỉ trong nhóm và cuối cùng là chỉ và nêu trên bản đồ treo tường:
+ Hướng cánh cung gồm: Dãy sông Gâm, Ngân Sơn, Bắc Sơn, Đông Triều và Trường Sơn Nam.
+ Hướng Tây Bắc gồm: Dãy Hoàng Liên Sơn, Trường Sơn Bắc.
Song song với việc hướng dẫn học sinh xác định phương hướng trên bản đồ, tôi luôn chú ý kết hợp giúp các em xác định thành thạo: đường xích đạo, bán cầu Bắc, bán cầu Nam, bán cầu Đông, bán cầu Tây trên quả địa cầu. Bởi kĩ năng này sử dụng rất nhiều trong những bài học sau. Để khai thác được kiến thức từ bản đồ, sau khi rèn luyện kỹ năng xác định phương hướng, tôi nhấn mạnh cho học sinh các bước cần tiến hành khi sử dụng bản đồ.
 	* Bước 1: Đọc tên bản đồ, lược đồ.
 	Ví dụ: Bản đồ địa lí tự nhiên Việt Nam; Lược đồ địa hình; Lược đồ một số khoáng sản Việt Nam; Lược đồ sông ngòi.
Bước đọc tên bản đồ, lược đồ giúp các em tập trung chú ý vào mục tiêu chính mà bản đồ,lược đồ muốn thể hiện.
Chẳng hạn: Khi đọc tên Lược đồ sông ngòi ( Hình 1 SGK trang 75) thì lập tức sự chú ý của học simh sẽ hướng vào tên các con sông, vị trí, dòng chảy, độ dài, của chúng. Khác với hình 2 SGK trang 70, khi đọc tên Lược đồ một số khoáng sản Việt Nam, các em lại hướng sự chú ý vào việc tìm vị trí các mỏ khoáng sản, địa điểm chứa các mỏ khoáng sản đó trên bản đồ, lược đồ.
* Bước 2: Đọc phần chú giải trên bản đồ.
 Việc đọc phần chú giải giúp học sinh nắm được các biểu tượng địa lí được thu nhỏ trên bản đồ.
 	Ví dụ: Lược đồ Giao thông vận tải (Hình 2 SGK trang 97).
 Phần chú giải thể hiện rõ: Đường sắt; Đường ô tô; Đường sông; Đường biển; Sân bay; Cảng biển, 
 Từ đó giúp học sinh dễ dàng quan sát và nhận ra mỗi loại đường có ở địa phận nào, số lượng, độ dài ngắn của chúng để tìm ra kiến thức của bài.
 * Bước 3: Quan sát kĩ các biểu tượng địa lí trên bản đồ.
 So sánh, nhận xét về màu sắc, tỉ lệ, vị trí của chúng để tìm ra kiến thức. Đây là bước hết sức quan trọng mà giáo viên phải rèn cho học sinh thực hiện nó như một thói quen. Cần nhấn mạnh bước này có hai thao tác chính:
 Thao tác 1: Quan sát kĩ các biểu tượng địa lí trên bản đồ
 Thao tác 2: So sánh, nhận xét (về tỉ lệ, số lượng, độ lớn, )
 Ví dụ: Sử dụng hình 1 trong SGK trang 102 bài: Châu Á.
 * Bước 1: Đọc tên lược đồ: “Lược đồ các châu lục và đại dương”
 Xác định mục tiêu: Quan sát xem châu Á nằm ở đâu.
 * Bước 2: Đọc “Chú giải”
 Phần chú giải cho biết: Ranh giới châu Âu - châu Á.
 * Bước 3: Quan sát kĩ, so sánh, nhận xét.
+ Màu sắc: Châu Á có màu vàng nhạt, 
+ Tỉ lệ: Phần diện tích màu vàng (châu Á) rất lớn, kết hợp với bảng thống kê (SGK trang 103) về diện tích của 6 châu lục, học sinh sẽ thấy tỉ lệ cụ thể về diện tích của các châu lục, (Châu Á có diện tích gần gấp rưỡi diện tích châu Âu). Diện tích châu Á lớn nhất thế giới.
+ Vị trí: Châu Á ở trên đường xích đạo, kết hợp dùng quả địa cầu các em sẽ thấy ngay châu Á ở Bắc bán cầu.
 	Quan sát xung quanh, học sinh xác định được: châu Á phía bắc giáp với Bắc Băng Dương; phía tây và tây nam giáp Châu Âu và châu Phi; phía Nam giáp với Ấn Độ Dương và phía Đông giáp với Thái Bình Dương.
 	Ngoài ra, các em còn có thể đọc tên, vị trí của rất nhiều biển, vịnh quanh châu Á.
 	 Sau khi vận dụng các bước trong khi sử dụng bản đồ, học sinh sẽ tìm ra kiến thức châu Á nằm ở Bắc bán cầu, có diện tích lớn nhất và số dân đông nhất trong các châu lục tr

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_bien_phap_giup_hoc_sinh_lop_5a_truong_tieu_hoc_b.doc