SKKN Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 nói và viết chuẩn tiếng phổ thông

SKKN Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 nói và viết chuẩn tiếng phổ thông

 Sinh thời, cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng khẳng định: “Tiếng Việt của chúng ta rất giàu, tiếng Việt của chúng ta cũng rất đẹp. Hai nguồn của cái giàu và cái đẹp của tiếng Việt là ở chỗ nó là tiếng nói của quần chúng nhân dân, đầy tình cảm, hình ảnh, màu sắc và âm điệu, hồn nhiên, ngộ nghĩnh và đầy ý nghĩa. Đồng thời nó là ngôn ngữ của văn học, văn nghệ mà những nhà văn, nhà thơ lớn của dân tộc ta như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du,.những nhà văn, nhà thơ hiện nay ở miền Bắc và ở miền Nam, đã nâng lên đến trình độ cao về nghệ thuật, khiến cho nó trở nên trong sáng, đẹp đẽ lạ thường. Chính cái giàu đẹp đó đã làm nên cái chất, giá tri, bản sắc, tinh hoa của tiếng Việt, kết quả của cả một quá trình với bao công sức dồi mài.”[1]. Lời khẳng định ấy của cố Thủ tướng phần nào đã giúp ta nhận thấy được giá trị của tiếng Việt và thêm tự hào về tiếng nói của dân tộc. Đồng thời, cũng giúp ta nhận thức đầy đủ hơn vai trò, trách nhiệm của mỗi người đối với việc giữ gìn và phát huy sự giàu đẹp, trong sáng của tiếng Việt.

 Để thực hiện được nhiệm vụ đó, một trong những yêu cầu không thể xem nhẹ đó là việc nói chuẩn và viết chuẩn tiếng phổ thông. Thế nhưng trong thực tế hiện nay, việc nói và viết chưa chuẩn tiếng phổ thông còn khá phổ biến ở các địa phương trong đó có địa phương Thanh Hóa. Quảng Thạch là một xã ven biển của huyện Quảng Xương nên việc các em nói-viết(đặc biệt là ngôn ngữ nói) chưa chuẩn tiếng phổ thông là điều không tránh khỏi. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến hiện tượng này nhưng nguyên nhân lớn nhất phải kể đến đó là tính thổ âm, thổ ngữ mang nét đặc trưng riêng của vùng miền. Nó ăn sâu vào tiềm thức của mỗi người và trở thành một thói quen ngôn ngữ rất khó để thay đổi. Tất cả chúng ta đều không ai phủ nhận rằng giọng nói là một trong những yếu tố quan trọng quyết định sự thành công của cuộc giao tiếp. Lời nói, giọng điệu nói chưa chuẩn là yếu tố cản trở sự thành công của mỗi người trong cuộc sống. Mặt khác, khi nói chưa chuẩn sẽ dẫn đến hệ lụy tiếp theo là đọc, viết sẽ mắc nhiều lỗi chính tả.

 Lời nói của người Thanh Hóa mang nặng tiếng địa phương, lệch chuẩn rất nhiều. Có lẽ vì thế mà giọng nói của người Thanh Hóa rất dễ nhận ra và không thể lẫn lộn với tiếng nói của các vùng miền khác trong cả nước. Nhiều khi nó trở thành đề tài bàn tán của đám đông. Thực tế này khiến những người có ý thức sâu sắc về tiếng nói của mình cảm thấy trăn trở, băn khoăn.

 

docx 17 trang thuychi01 5531
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 nói và viết chuẩn tiếng phổ thông", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1.Lí do chọn đề tài 
 Sinh thời, cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng khẳng định: “Tiếng Việt của chúng ta rất giàu, tiếng Việt của chúng ta cũng rất đẹp. Hai nguồn của cái giàu và cái đẹp của tiếng Việt là ở chỗ nó là tiếng nói của quần chúng nhân dân, đầy tình cảm, hình ảnh, màu sắc và âm điệu, hồn nhiên, ngộ nghĩnh và đầy ý nghĩa. Đồng thời nó là ngôn ngữ của văn học, văn nghệ mà những nhà văn, nhà thơ lớn của dân tộc ta như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du,...những nhà văn, nhà thơ hiện nay ở miền Bắc và ở miền Nam, đã nâng lên đến trình độ cao về nghệ thuật, khiến cho nó trở nên trong sáng, đẹp đẽ lạ thường. Chính cái giàu đẹp đó đã làm nên cái chất, giá tri, bản sắc, tinh hoa của tiếng Việt, kết quả của cả một quá trình với bao công sức dồi mài...”[1]. Lời khẳng định ấy của cố Thủ tướng phần nào đã giúp ta nhận thấy được giá trị của tiếng Việt và thêm tự hào về tiếng nói của dân tộc. Đồng thời, cũng giúp ta nhận thức đầy đủ hơn vai trò, trách nhiệm của mỗi người đối với việc giữ gìn và phát huy sự giàu đẹp, trong sáng của tiếng Việt.
 Để thực hiện được nhiệm vụ đó, một trong những yêu cầu không thể xem nhẹ đó là việc nói chuẩn và viết chuẩn tiếng phổ thông. Thế nhưng trong thực tế hiện nay, việc nói và viết chưa chuẩn tiếng phổ thông còn khá phổ biến ở các địa phương trong đó có địa phương Thanh Hóa. Quảng Thạch là một xã ven biển của huyện Quảng Xương nên việc các em nói-viết(đặc biệt là ngôn ngữ nói) chưa chuẩn tiếng phổ thông là điều không tránh khỏi. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến hiện tượng này nhưng nguyên nhân lớn nhất phải kể đến đó là tính thổ âm, thổ ngữ mang nét đặc trưng riêng của vùng miền. Nó ăn sâu vào tiềm thức của mỗi người và trở thành một thói quen ngôn ngữ rất khó để thay đổi. Tất cả chúng ta đều không ai phủ nhận rằng giọng nói là một trong những yếu tố quan trọng quyết định sự thành công của cuộc giao tiếp. Lời nói, giọng điệu nói chưa chuẩn là yếu tố cản trở sự thành công của mỗi người trong cuộc sống. Mặt khác, khi nói chưa chuẩn sẽ dẫn đến hệ lụy tiếp theo là đọc, viết sẽ mắc nhiều lỗi chính tả.
 Lời nói của người Thanh Hóa mang nặng tiếng địa phương, lệch chuẩn rất nhiều. Có lẽ vì thế mà giọng nói của người Thanh Hóa rất dễ nhận ra và không thể lẫn lộn với tiếng nói của các vùng miền khác trong cả nước. Nhiều khi nó trở thành đề tài bàn tán của đám đông. Thực tế này khiến những người có ý thức sâu sắc về tiếng nói của mình cảm thấy trăn trở, băn khoăn.
 Để khắc phục tình trạng nói, viết chưa chưa chuẩn tiếng phổ thông, Phòng Giáo dục và Đào tạo Quảng Xương đã triển khai Kế hoạch 04 về việc:“Khắc phục nói và viết tiếng Việt chưa chuẩn tiếng phổ thông ở trường Mầm non, Tiểu học, Trung học cơ sở” và yêu cầu các cơ sở giáo dục trên địa bàn huyện ngiêm túc thực hiện.
 Là một giáo viên trực tiếp đứng lớp, phụ trách giảng dạy môn Tiếng Việt, tôi ý thức đầy đủ về tầm quan trọng của việc thực hiện nói chuẩn và viết chuẩn tiếng phổ thông. Vì vậy, tôi mạnh dạn lực chọn đề tài: Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 nói và viết chuẩn tiếng phổ thông.
1.2.Mục đích nghiên cứu
 Thông qua nghiên cứu giúp bản thân nhận thức đầy đủ hơn về tầm quan trọng của việc nói chuẩn, viết chuẩn tiếng phổ thông. Từ đó rèn cho mình kĩ năng nói-viết tiếng Việt chuẩn tiếng phổ thông.
 Triển khai rộng rãi nội dung chuyên đề đến toàn thể học sinh, đặc biệt là những đối tượng học sinh bản thân tôi đang trực tiếp giảng dạy nhằm góp phần thực hiện thành công Kế hoạch 04 của Phòng Giáo dục và Đào tạo Quảng Xương về việc “Khắc phục nói và viết tiếng Việt chưa chuẩn tiếng phổ thông ở trường Mầm non, Tiểu học, Trung học cở giai đoạn 2017-2020 trên địa bàn toàn huyện”.
 Thông qua nghiên cứu và triển khai thực hiện Kế hoạch 04 của Phòng Giáo dục và Đào tạo Quảng Xương về việc “Khắc phục nói và viết tiếng Việt chưa chuẩn tiếng phổ thông ở trường Mầm non, Tiểu học, Trung học cở”, giúp tôi định hướng nội dung, giải pháp cụ thể để bản thân, học sinh và đồng nghiệp từng bước khắc phục những lệch chuẩn của tiếng địa phương, tiến tới nói chuẩn, viết chuẩn tiếng phổ thông.
1.3.Đối tượng nghiên cứu
 - CBGV và học sinh lớp 5B, 5C trường Tiểu học Quảng Thạch.
1.4.Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích và tổng hợp lí thuyết
- Phương pháp quan sát khoa học
- Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế
- Phương pháp thực nghiệm
- Phương pháp phân tích và tổng kết kinh nghiệm
1.5. Những điểm mới của SKKN
 Việc triển khai thực hiện Kế hoạch 04 của Phòng Giáo dục và Đào tạo Quảng Xương về việc “Khắc phục nói và viết tiếng Việt chưa chuẩn tiếng phổ thông ở các trường Mầm non, Tiểu học, Trung học cơ sở” cùng với việc chọn đề tài nghiên cứu “Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 nói và viết chuẩn tiếng phổ thông” đã giúp bản thân tôi có những nhận thức đầy đủ, đúng đắn về vai trò, ý nghĩa của việc nói chuẩn và viết chuẩn tiếng phổ thông; có ý thức hơn trong việc khắc phục lỗi lệch chuẩn trong nói và viết tiếng Việt của bản thân và học sinh, điều mà trước đây bản thân tôi và nhiều đồng chí giáo viên khác đã làm nhưng chưa thực sự đề cao và chú trọng.
 Bên cạnh những qui tắc chính tả mà các em đã được dần làm quen trong suốt quá trình học, đề tài nghiên cứu của tôi còn đưa ra một số biện pháp cụ thể, thiết thực nhằm giúp học sinh khắc phục lỗi lệch chuẩn trong nói và viết tiếng Việt chuẩn phổ thông. Góp phần thực hiện thành công Kế hoạch 04 của Phòng Giáo dục và Đào tạo Quảng Xương và quan trọng hơn cả là góp phần giữ gìn sự giàu đẹp và trong sáng của tiếng Việt. 
 Thông qua việc triển khai Kế hoạch 04 và áp dụng các biện pháp khắc phục lỗi lệch chuẩn trong nói và viết tiếng Việt một cách đều đặn và xuyên suốt quá trình học, học sinh sẽ ý thức được lỗi lệch chuẩn của mình trong nói và viết. Từ đó tự xây dựng cho mình mục tiêu khắc phục nhằm hướng tới nói chuẩn và viết chuẩn tiếng Việt phổ thông. Điều này sẽ có ý nghĩa rất lớn đối với sự thành công của các em trong cuộc sống.
 2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận
 Tiếng địa phương là từ ngữ và giọng điệu mang nét đặc trưng riêng của vùng miền, thể hiện bản sắc riêng của mỗi vùng và góp phần tạo nên sự phong phú của ngôn ngữ, văn hóa dân tộc. Nhưng bên cạnh tinh hoa cần phát huy, tiếng địa phương đặc biệt là tiếng địa phương Thanh Hóa còn nhiều hạn chế về ngôn từ, nhất là trong cách phát âm.
 Trong trường học, mọi hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ phải là ngôn ngữ chuẩn Tiếng Việt phổ thông (ngoại trừ việc cần thể hiện sắc thái địa phương nhằm dụng ý nghệ thuật). Nói và viết theo tiếng địa phương là chưa đạt tính mô phạm chuẩn mực của người thầy, thậm chí là sai kiến thức, làm sai lệch thông tin hoặc gây sự trào lộng, hài hước. 
 Rèn luyện nói, đọc đúng chính âm, viết đúng chính tả, biết xây dựng phong cách ngôn ngữ thân thiện, thanh lịch, nhã nhặn chính là xây dựng nét văn hóa trong giao tiếp, là xây dựng nét mô phạm cao quý cho mỗi người thầy, mỗi cơ quan văn hóa.
 Để có thể rèn luyện cho học sinh kĩ năng nói chuẩn, viết chuẩn tiếng phổ thông, trước hết, người thầy phải là tấm gương nói chuẩn, viết chuẩn cho học sinh học tập và noi theo.
2.2.Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến
 Hiện nay, nói-viết chưa chuẩn tiếng phổ thông là tình trạng rất phổ biến ở tất cả các cơ sở giáo dục trong toàn tỉnh. Tình trạng ấy thể hiện rõ nhất ở các trường học thuộc khu vực nông thôn trong đó có địa phương Quảng Thạch. Điều đáng nói là việc nói - viết chưa chuẩn tiếng phổ thông không chỉ xảy ra ở đối tượng học sinh mà còn là hiện tượng phổ biến ở giáo viên -những người trực tiếp đứng lớp, hàng ngày đang thực hiện nhiệm vụ truyền tải kiến thức và rèn lời ăn, tiếng nói cho các em. 
2.2.1.Tiếng địa phương Thanh Hóa và độ lệch chuẩn
* Lệch chuẩn về từ ngữ
 Nhìn nhận ở góc độ từ ngữ, tiếng địa phương Thanh Hóa lệch chuẩn ở rất nhiều nhóm từ. Trong đó phải kể đến:
- Nhóm từ chỉ định, từ để hỏi: đâu/mô, kia/tê, kia kìa/ tê tề, nọ/nứ, nớ...
- Nhóm từ xưng hô: mi, tau, choa, bay, nhà va, hấn...
- Nhóm từ đệm hoặc từ để hỏi đặt ở cuối câu: thế à/ rứa vá, rứa vớ; nhé/ nhá; đấy, đó/ đá...
- Nhóm từ lệch do biến âm quá xa so với âm gốc thành từ địa phương: nghĩ ngợi/ ngẩy ngợi; về/viền, trỗ bông/ lổ bông, làm/mằn, gỡ/khở, bế/ bỏng...
* Lệch chuẩn về thanh điệu
 Người Thanh Hóa thường phát âm và viết sai, lẫn lộn dấu hỏi/ dấu ngã. Đây là sự lệch chuẩn phổ biến nhất ở hầu khắp các địa phương trong toàn tỉnh. Cụ thể có ba cách nói, viết sai về thanh điệu:
Dấu hỏi -> dấu ngã: chào hỏi-> chào hõi...
 - Dấu ngã -> dấu hỏi: cơn bão -> cơn bảo...
 - Lẫn lộn cả hai chiều
* Lệch chuẩn về phụ âm đầu
- Phát âm sai các phụ âm quặt lưỡi, không phân biệt các cặp phụ âm: s/x, r/d,gi; ch/tr: róc rách -> dóc dách; sạch sẽ -> xạch xẽ...
- Không phân biệt l/n (đặc biệt là vùng biển) là -> nà; cái nôi ->cái lôi...
* Lệch chuẩn về phần vần
- Nguyên âm đôi bị triệt tiêu một nguyên âm hoặc bị biến thành nguyên âm khác: 
Ươ-> i hoặc iê: uống nước/ uúng nước, uúng nuúc; ốc bươu/ ốc biu...
Iê -> i: Việt Nam -> Vịt Nam, biết -> bít...
- Nguyên âm đơn bị biến thành một nguyên âm khác hoặc bị thêm một yếu tố khác: 
Ê-> i : hoan nghênh/ hoan nghinh
I -> êi, ây: chị -> chệi, chậy; cái bị -> cấy bậy...
I -> ai: mà lị -> mà lại, mà lạy...
E -> i: nhà xe -> nhà xia...
Ê -> a: ghềnh -> gành, mệnh lệnh -> mạnh lạnh...
O -> ua: nói to -> nói tua, bó hoa -> búa hoa...
Ô u: thối -> thúi; chục -> chộc...
 -> a, u: cái đầu -> cái đàu, đôi chân -> đôi chưn...
Ơi -> i: trứng chọi ví đá...
Ai -> ây: trái cây -> trấy cấy, cái quạt -> cấy quạt...
Âu -> u: con trâu-> con tru, vỏ trấu -> vỏ trú...
Uâ -> u: mùa xuân -> mùa xun, mùa xuôn...
Ít -> ich: ít ỏi -> ích ỏi...
In -> inh: ăn xin -> ăn xinh, xem phim -> xem phinh...
2.2.2. Tiếng địa phương Quảng Thạch và độ lệch chuẩn
 Quảng Thạch là một trong những xã vùng biển của huyện Quảng Xương. Người dân nơi đây thuần phác, đôn hậu và sinh sống chủ yếu bằng nghề đi biển. Lời ăn, tiếng nói của người dân mang âm hưởng, giọng điệu riêng của người miền biển. Vì thế độ lệch chuẩn so với tiếng phổ thông rất rõ rệt và phổ biến. Học sinh trường Tiểu học Quảng Thạch cũng bị ảnh hưởng của tiếng địa phương rất nhiều. Phổ biến và rõ rệt hơn cả là học sinh thôn Hải Tiến, thôn Thạch Nam và thôn ThạchTrung.
 Ngoài sự lệch chuẩn chung của tiếng địa phương Thanh Hóa, học sinh trường Tiểu học Quảng Thạch thường mắc một số lỗi cơ bản cần khắc phục sau:
* Lệch chuẩn về từ: (giống những lệch chuẩn chung của tiếng địa phương Thanh Hóa mà tôi đã thống kê ở phần 2.2.1)
 * Lệch chuẩn về thanh điệu. (thanh hỏi thành thanh ngã và ngược lại)
 Đây là sự lệch chuẩn khá phổ biến ở địa phương Quảng Thạch. Phần lớn người dân và học sinh ở đây đều lẫn lộn thanh hỏi và thanh ngã ở cả ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết: 
 + Rán mỡ / rán mở; suy nghĩ / suy nghỉ; nghỉ ngơi/ nghĩ ngơi...
 + Ăn hỏi/ ăn hõi; vất vả / vất vã; dĩ vãng / dỉ vảng...
 * Lệch chuẩn về phụ âm đầu đặc biệt âm “l” và “n”; âm “s” và “x”; âm “ch” và “tr”... (sự lệch chuẩn này chủ yếu gặp ở học sinh thôn Hải Tiến, thôn Thạch Nam, thôn Thạch Trung):
Ví dụ: Nói/lói; làng/nàng; cái loa/cái noa; trời nắng/trời lắng...
 * Lệch chuẩn về phần vần
 - Nguyên âm đôi: có hai trường hợp lệch chuẩn thường gặp
 + Triệt tiêu nguyên âm đôi: 
Iên -> in, im: tiền -> tìn; tiêm -> tim...
Uôi ui : muối dưa -> múi dưa; múi cam -> muối cam...
 + Biến thành âm khác
Ươn -> ưn, : con lươn -> con lưn; ốc nướng -> ốc nưứng...
Ươu -> iêu, ưu : uống rượu -> uống riệu, uống rựu...
Uôn -> un: luôn luôn -> lun lun; mưa tuôn -> mưa tun...
Iê -> it: biết -> bít; liên quan -> lin quan...
 - Nguyên âm đơn: tình trạng biến đổi âm rất phổ biến
Â-> ư, u: quyét sân -> quyét sưn; con trâu -> con tru...
Ô -> u: cái chổi -> cái chủi...
Ư -> ơ: con mực -> con mậc, ăn chực -> an chậc...
U -> ô: cái bụng trống -> cái bộng trống...
2.2.3. Thực trạng lệch chuẩn tiếng phổ thông của CBGV và học sinh trường Tiểu học Quảng Thạch
 * Đối với CBGV trong nhà trường
 Mặc dù đội ngũ CBGV trong nhà trường được đào tạo nghành sư phạm chính quy và luôn có ý thức điều chỉnh lời ăn tiếng nói nhưng trong thực tế vẫn phải thẳng thắn nhìn nhận rằng hiện tại vẫn còn một số đồng chí nói chưa chuẩn tiếng phổ thông. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến việc rèn lời ăn tiếng nói cho học sinh cũng như truyền tải nội dung tri thức. Cụ thể:
Phát âm lẫn lộn thanh hỏi, thanh ngã: 4 đồng chí
Triệt tiêu nguyên âm đôi: 2 đồng chí
 - Ngôn ngữ khô khan, chưa truyền cảm: 3 đồng chí
 * Đối với học sinh. 
 Học sinh trường Tiểu học Quảng Thạch cũng giống như học sinh ở tất cả các vùng miền trong cả nước luôn luôn chịu tác đông và ảnh hưởng trực tiếp từ lời ăn tiếng nói của quê hương mình. Với địa phương Quảng Thạch, người dân nơi đây chủ yếu làm ăn, sinh sống tại địa phương, ít có sự tác động qua lại của ngôn ngữ nhiều vùng miền khác nên việc nói chưa chuẩn tiếng phổ thông trở thành một hiện tượng bình thường, không có khái niệm cần phải điều chỉnh. Sự lệch chuẩn ấy đã ảnh hưởng rất lớn đến lời ăn, tiếng nói của học sinh. Nó trở thành một hiện tượng khá phổ biến trong ngôn ngữ nói và viết (đặc biệt là ngôn ngữ nói) của học sinh trường Tiểu học Quảng Thạch nói chung, học sinh lớp 5B, 5C do bản thân tôi đang trực tiếp giảng dạy môn Tiếng Việt nói riêng. Con số thống kê cụ thể ở hai lớp như sau:
Lớp
Phát âm chuẩn
 Lệch chuẩn về thanh điệu
 Lệch chuẩn về vần
Lệch chuẩn phụ âm đầu
(l/n, x/s, ch/tr...)
Triệt tiêu nguyên âm đôi
 Biến âm
 5B( 41 HS)
 08/41
30/41
10/41
02/41
 25/41
5C ( 44 HS)
 10/44
 32/44
 15/44
 04/44
 27/44
 ( Lưu ý: có những học sinh cùng lúc mắc nhiều lỗi khi phát âm)
 Đứng trước thực trạng trên, là giáo viên chủ nhiệm lớp 5B và trực tiếp giảng dạy bộ môn Tiếng Việt ở lớp 5B, 5C, tôi thật sự băn khoăn và đặt ra nhiệm vụ bằng mọi cách phải khắc phục được tình trạng nói – viết chưa chuẩn tiếng phổ thông của học sinh mà trước hết là học sinh của hai lớp tôi đang trực tiếp giảng dạy. Từ những nhận thức trên và kinh nghiệm thực tiễn giảng dạy của mình, tôi chọn đề tài: Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 nói và viết chuẩn tiếng phổ thông nhằm khắc phục tình trạng lệch chuẩn trong nói – viết hiện nay của học sinh. Đồng thời góp phần thực hiện thành công Kế hoạch 04 của Phòng Giáo dục và Đào tạo Quảng Xương về việc“Khắc phục nói và viết tiếng Việt chưa chuẩn tiếng phổ thông ở trường Mầm non, Tiểu học, Trung học cơ sở”. 
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
2.3.1. Thay đổi nhận thức của bản thân giáo viên
 Bản thân tôi nói riêng và từng cán bộ giáo viên trong nhà trường nói chung, trước hết, phải nhận thức đúng đắn về nội dung ý nghĩa và tầm quan trọng của Kế hoạch 04 của Phòng Giáo dục và Đào tạo Quảng Xương về việc: “Khắc phục nói và viết tiếng Việt chưa chuẩn tiếng phổ thông”. Xem đây là một nhiệm vụ, một tiêu chí rèn luyện của giáo viên trong năm học. Thầy phải nói - viết chuẩn mới có thể hướng dẫn trò nói- viết chuẩn tiếng phổ thông.
 Tự thống kê lỗi dùng từ và phát âm lệch chuẩn của bản thân, xác định những lỗi cơ bản nhất cần khắc phục từ đó lên kế hoạch khắc phục và quyết tâm thực hiện.
 Luôn có ý thức luyện đọc, luyện nói. Ngoài việc đọc đúng, nói đúng, giáo viên cần luyện cách nói có ngữ điệu, âm lượng vừa phải để lời nói trở nên truyền cảm, thân thiện và có sức thuyết phục hơn.
2.3.2. Triển khai nội dung đề án đến học sinh và cha mẹ học sinh
* Với học sinh
 Thông qua các buổi sinh hoạt 15 phút đầu giờ, các giờ hoạt động ngoại khóa, các giờ tập đọc, chính tả...giáo viên phân tích, giúp học sinh nhận ra những lỗi lệch chuẩn trong nói - viết hàng ngày các em đang mắc phải; giúp các em nhận thấy tầm quan trọng của việc nói - viết chuẩn tiếng phổ thông trong giao tiếp, trong học tập và trong mọi hoạt động của cuộc sống thông qua các câu chuyện kể, các mẫu truyện vui...Từ đó dần hình thành cho các em khái niệm về sự lệch chuẩn, ý thức khắc phục lỗi lệch chuẩn của bản thân. Yêu cầu trước hết ở mỗi học sinh là rèn luyện kĩ năng đọc đúng, viết đúng và sau đó từng bước hướng tới đọc tốt, đọc hay.
* Với cha mẹ học sinh
 Giáo viên phổ biến yêu cầu chuẩn ngôn ngữ đến cha mẹ học sinh. Phân tích để phụ huynh học sinh hiểu đây là một nhiệm vụ cần rèn luyện của con em mình trong nói- viết. Từ đó có biện pháp phối kết hợp cụ thể, chặt chẽ giữa gia đình và nhà trường trong việc rèn lời ăn tiếng nói hàng ngày cho các con, từng bước khắc phục được tình trạng nói -viết chưa chuẩn tiếng phổ thông còn khá phổ biến hiện nay.
 Việc triển khai nội dung Kế hoạch 04 của Phòng Giáo dục và Đào tạo Quảng Xương về việc “Khắc phục nói và viết tiếng Việt chưa chuẩn tiếng phổ thông” đến cha mẹ học sinh được thực hiện thông qua các cuộc họp phụ huynh (đặc biệt được chú trọng ở cuộc họp phụ huynh đầu năm). Với những học sinh mắc lỗi nhiều trong nói - viết, giáo viên có thể gặp gỡ trực tiếp phụ huynh hoặc trao đổi qua điện thoại để cùng phối hợp khắc phục. 
2.3.3. Thống kê lỗi lệch chuẩn cơ bản của học sinh
 Giáo viên thống kê cụ thể, chi tiết những lỗi lệch chuẩn cơ bản của học sinh. Phân loại lỗi lệch chuẩn theo từng dạng cụ thể (lỗi lệch chuẩn về thanh điệu, lỗi triệt tiêu nguyên âm đôi, lỗi biến âm, lỗi lẫn lộn phụ âm đầu, lỗi khác)
 Xác định những lỗi cơ bản nhất cần khắc phục. Với học sinh trên địa bàn xã Quảng Thạch, lỗi phát âm thanh ngã thành thanh hỏi và lẫn lộn âm Lvới âm N, âm S với âm X, âm Tr với âm Ch là phổ biến nhất.
2.3.4. Tổng hợp, lập danh sách những học sinh mắc lỗi nói-viết lệch chuẩn, lên kế hoạch sửa lỗi cho học sinh
 Lập danh sách theo mẫu sau:
S STT
 Họ và tên
Lỗi lệch chuẩn cơ bản cần khắc phục
Theo dõi sự tiến bộ của
học sinh
1...
 ........... 
.............
..............
2...
.............
..............
..............
2.3.5. Một số biện pháp sửa lỗi cụ thể
* Yêu cầu chung
 - Hoạt động sửa lỗi phát âm cho học sinh phải được thực hiện thường xuyên trong các giờ học, trong hoạt động giao tiếp hàng ngày, mọi lúc, mọi nơi nhằm hình thành cho các em thói quen điều chỉnh cách phát âm để hướng tới việc nói - viết chuẩn tiếng phổ thông.
- Giáo viên phải kiên trì, không nóng vội, không áp lực; phải tạo được không khí học tập thoải mái nhất. Đồng thời cần lựa chọn cách sửa lỗi đơn giản, dễ hiểu. Tránh tình trạng đưa học sinh rơi vào trạng thái rối rắm về mặt quy tắc theo kiếu: âm tiết mở đầu bằng nguyên âm đơn thì khi phát âm, âm tiết đầu là tất cả các âm vị của âm tiết chuẩn nhưng mang thanh nặng, âm tiết thứ hai là nguyên âm của âm tiết nhưng mang thanh sắc. Ví dụ: cố = cộ + ố -> ăn cỗ.
- Khi luyện phát âm chuẩn cho học sinh, ngoài việc hướng dẫn các em tỉ mỉ từ cách lấy hơi, nén hơi rồi vị trí lưỡi... điều quan trọng nhất quyết định sự thành công của việc phát âm chuẩn, nói chuẩn chính là việc các em được nói nhiều, luyện nhiều đến thuần thục và trở thành thói quen ngôn ngữ.
 - Với những lỗi khó khắc phục (l/n; s/x...): giáo viên cần hướng dẫn cụ thể, tỉ mỉ và yêu cầu học sinh làm theo một cách nghiêm túc, có hiệu quả, tránh tình trạng làm cho có, không quan tâm đến hiệu quả.
- Ngữ liệu để sửa:
+ Lời ăn tiếng nói hàng ngày của học sinh.
+ Từ ngữ dễ phát âm sai, viết sai trong các văn bản được học.
+ Ngữ liệu ngoài văn bản (cần chú trọng những câu văn, đoạn văn có chứa các từ ngữ dễ mắc lỗi nhưng có pha chút hài hước để tạo hưng phấn học tập, khích lệ ý thức khắc phục lỗi của các em).
+ Mức độ: từ dễ đến khó; từ đơn giản đến phức tạp.
*Một số biện pháp cụ thể khắc phục lỗi phát âm cơ bản của học sinh lớp 5B, 5C trường Tiểu học Quảng Thạch
2.3.5.1.Lỗi lẫn lộn thanh ngã và thanh hỏi
* Cách khắc phục lỗi phát âm
+ Giáo viên đưa ra các ngữ liệu, đọc mẫu và yêu cầu học sinh đọc lại (đọc đồng thanh, đọc cá nhân):
 Mở /mỡ ; cổ/cỗ ; vỏ/võ, nghỉ ngơi/ suy nghĩ...
+ Yêu cầu học sinh chỉ ra dấu hiệu phân biệt thanh hỏi, thanh ngã dễ nhận diện nhất. Sau đó giáo viên lưu ý cách phát âm chuẩn và yêu cầu học sinh đọc lại và tự kiểm chứng. Cụ thể:
 Thanh hỏi: âm đọc phát ra bình thường, k

Tài liệu đính kèm:

  • docxskkn_mot_so_bien_phap_giup_hoc_sinh_lop_5_noi_va_viet_chuan.docx