SKKN Một số giải pháp giúp học sinh lớp 5 viết chữ đẹp, giữ vở sạch

SKKN Một số giải pháp giúp học sinh lớp 5 viết chữ đẹp, giữ vở sạch

 Trong nhiều năm nay: “Viết chữ dep – Giữ vở sạch” được đặc biêt quan tâm. Hơn nữa, đối với đơn vị trường Tiểu học Thiết Ống I, Ban giám hiệu nhà trường cũng rất chú trọng: “Viết chữ dep – Giữ vở sạch”. Để thực hiện tốt những yêu cầu trên đòi hỏi cả thầy và trò phải có sự nỗ lực phấn đấu không ngừng.

 Người ta thường nói: “Nét chữ nết người”, nét chữ nói lên tính cách của con người. Việc rèn luyện vở sạch, chữ đẹp cho học sinh Tiểu học nói chung và việc rèn luyện chữ đẹp cho học sinh lớp 5 nói riêng là một trong những tiêu chuẩn mà bất cứ một trường Tiểu học nào cũng cố gắng thi đua và thực hiện tốt.

 Là một giáo viên Tiểu học, lại đang giảng dạy trực tiếp lớp 5, bản thân tôi rất tâm huyết với công việc của mình, tôi luôn mong muốn học trò của mình em nào cũng viết chữ đẹp rõ ràng, biết trình bày bài sạch sẽ, biết giữ gìn sách vở cẩn thận, được như vậy phải cần rất nhiều công sức của người dạy học.

Mặt khác, đối với bậc Tiểu học, yêu cầu cơ bản tối thiểu đối với học sinh là đọc thông, viết thạo. Chữ viết của học sinh còn liên quan đến tất cả các môn học khác như: Toán, Tiếng Việt, khoa học, Lịch sử và Địa lí, Giáo dục lối sống, . Do đó, nếu học sinh viết nhanh, đúng, đep thì việc học các môn này sẽ có nhiều thuận lợi.

Ngoài những lý do trên, tôi thấy việc rèn chữ viết còn góp phần rèn luyện cho học sinh những phẩm chất đạo đức tốt như tính cẩn thận, kiên trì, tinh thần kỷ luật và phát triển óc thẩm mỹ. Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói “Nét chữ cũng là một biểu hiện của nết người”. Mà nết người là sự hoà hợp giữa tình cảm và trí tuệ. Trong quá trình dạy học song song với việc rèn các kĩ năng: Nghe, nói, đọc và tính toán. Tôi luôn luôn chú ý rèn kĩ năng viết chữ cho học sinh. Cùng với việc rèn kĩ năn

doc 16 trang thuychi01 16436
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số giải pháp giúp học sinh lớp 5 viết chữ đẹp, giữ vở sạch", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài.
                Trong nhiều năm nay: “Viết chữ dep – Giữ vở sạch” được đặc biêt quan tâm. Hơn nữa, đối với đơn vị trường Tiểu học Thiết Ống I, Ban giám  hiệu nhà trường cũng rất chú trọng: “Viết chữ dep – Giữ vở sạch”. Để thực hiện tốt những yêu cầu trên đòi hỏi cả thầy và trò phải có sự  nỗ lực phấn đấu không ngừng.
	Người ta thường nói: “Nét chữ nết người”, nét chữ nói lên tính cách của con người. Việc rèn luyện vở sạch, chữ đẹp cho học sinh Tiểu học nói chung và việc rèn luyện chữ đẹp cho học sinh lớp 5 nói riêng là một trong những tiêu chuẩn mà bất cứ một trường Tiểu học nào cũng cố gắng thi đua và thực hiện tốt.
	Là một giáo viên Tiểu học, lại đang giảng dạy trực tiếp lớp 5, bản thân tôi rất tâm huyết với công việc của mình, tôi luôn mong muốn học trò của mình em nào cũng viết chữ đẹp rõ ràng, biết trình bày bài sạch sẽ, biết giữ gìn sách vở cẩn thận, được như vậy phải cần rất nhiều công sức của người dạy học.                
Mặt khác, đối với bậc Tiểu học, yêu cầu cơ bản  tối thiểu đối với học sinh là đọc thông, viết thạo. Chữ viết của học sinh còn liên quan đến tất cả các môn học khác như: Toán, Tiếng Việt, khoa học, Lịch sử và Địa lí, Giáo dục lối sống, ... Do đó, nếu học sinh viết nhanh, đúng, đep thì việc học các môn này sẽ có nhiều thuận lợi.
Ngoài những lý do trên, tôi thấy việc rèn chữ viết còn góp phần rèn luyện cho học sinh những phẩm chất đạo đức tốt như tính cẩn thận, kiên trì, tinh thần kỷ luật và  phát triển óc thẩm mỹ. Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói “Nét chữ cũng là một biểu hiện của nết người”. Mà nết người là sự hoà hợp giữa tình cảm và trí tuệ. Trong quá trình dạy học song song với việc rèn các kĩ năng: Nghe, nói, đọc và tính toán. Tôi luôn luôn chú ý rèn kĩ năng viết chữ cho học sinh. Cùng với việc rèn kĩ năng viết chữ đúng, đẹp là giữ gìn sách vở gọn ngàng, sạch sẽ.
Tuy nhiên trong thực tế, học sinh lớp mà tôi đang trực tiếp giảng dạy, đây là con em của một xã vùng 135 còn gặp nhiều khó khăn trong đời sống kinh tế, trình độ dân trí chưa cao nên sự quan tâm đến các em còn gặp nhiều hạn chế. Trong lớp, chỉ một số em được gia đình quan tâm đáp ứng đầy đủ đồ dùng dạy học như bút, vở và có đầu tư thời gian cho các em luyện viết, còn lại, đa số các em chưa được quan tâm, dẫn đến tình trạng bút, vở, đồ dùng học tập không tốt. Và việc rèn luyện vở sạch, chữ đẹp gặp nhiều khó khăn hạn chế. Làm sao để các em viết được chữ đẹp, giữ được vở sạch? Đây là câu hỏi đặt ra để tôi phải suy nghĩ, trăn trở và quyết tâm phấn đấu. Chính vì vậy tôi đã chọn vấn đề “Một số giải pháp giúp học sinh lớp 5 viết chữ đẹp, giữ vở sạch” để nghiên cứu thực hiện làm sáng kiến kinh nghiệm.
1.2. Mục đính nghiên cứu.
	Trong quá trình giảng dạy, tôi nhận thấy học sinh trong trường và học sinh lớp tôi phụ trách, giảng dạy còn nhiều em chữ viết xấu, sai nhiều lỗi chính tả, kĩ năng viết còn chậm, chưa đúng kĩ thuật, việc giữ vở còn bẩn, nhầu nát.
 	Để khắc phục được thực trạng nêu trên và mong muốn công việc dạy của mình đạt hiệu quả tốt hơn, tôi đã mạnh dạn viết lên một số cải tiến về nội dung và phương pháp về rèn luyện viết chữ đẹp, giữ vở sạch cho học sinh, không những nâng cao kết quả học tập mà còn giúp các em phát huy tính cách với những đức tính cần thiết như cẩn thận, kiên trì, sáng tạo. Xứng đáng là những chủ nhân tương lai của Đất Nước.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
 Căn cứ vào nhiệm vụ, yêu cầu và nội dung của SKKN, tôi chọn đối tượng nghiên cứu là: 25 học sinh lớp 5A Trường tiểu học Thiết Ống I.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp quan sát
- Phương pháp luyện tập thực hành.
- Phương pháp làm mẫu nêu gương.
- Phương pháp thảo luận. 
- Phương pháp dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề. 
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm, kiểm tra đối chứng.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
 Viết chữ đẹp đã trở thành truyền thống của ông cha ta từ xưa đến nay. Từ ngày xưa, con người đã rất coi trọng chữ viết. Ngày nay, phong trào: “ Rèn chữ, giữ vở” càng được coi trọng trong các bậc học nói chung và bậc tiểu học nói riêng. Viết chữ đẹp không chỉ thể hiện tính cách của mỗi con người mà viết chữ đẹp cũng thể hiện một tinh hoa, độc đáo của mỗi dân tộc. Việc “Rèn chữ đẹp” có tầm quan trọng to lớn trong sự nghiệp trồng người để hình thành nhân cách của mỗi người. Là một giáo viên địa phương, tôi nghĩ mình phải cùng đồng nghiệp tạo nên một điểm sáng mãi mãi xứng đáng là một tấm gương sáng cho trường khác noi theo. Chính vì thế mà tôi đã cố gắng hướng dẫn học sinh viết chữ đẹp, giữ vở sạch. 
“Rèn chữ đẹp - giữ vở sạch” là hai hoạt động liên kết với nhau, hỗ trợ cho nhau. Rèn chữ đẹp và phải biết giữ vở sạch. Nếu chỉ có nét chữ đẹp mà vở không sạch thì có khác nào: một khuân mặt xinh xắn mà đầy những vết bẩn và nhọ nhem. Thế nhưng, quyển vở sạch mà nét chữ xấu, nét cao - nét thấp, viết sai luật chính tảthì cũng không chiếm được tình cảm của người xem, người đọc. Chính vì vậy mà rèn chữ đẹp phải đi đôi với giữ vở sạch.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
Trong thực tế giảng dạy nhiều năm, tôi nhận thấy học sinh trong trường và học sinh lớp tôi phụ trách, giảng dạy còn nhiều em chữ viết còn xấu, còn sai nhiều lỗi chính tả, kỹ năng viết còn chậm, chưa đúng kỹ thuật, việc giữ vở còn bẩn, nhầu nát. Nhìn chung các em thường mắc một số lỗi cơ bản sau:
- Viết hoa tuỳ tiện, danh từ riêng không viết hoa, viết hoa không đúng mẫu.
-  Viết thừa nét, viết thiếu nét, đặt nhầm vị trí các dấu thanh.
- Viết sai phụ âm đầu và vần, chữ viết không rõ ràng.
- Viết không đúng qui định, khoảng các con chữ, các chữ không đúng qui trình, kĩ thuật.
- Tư thế ngồi, việc cầm bút, khoảng cách giữa mắt và vở chưa đảm bảo.
- Sách vở chưa giữ gìn cẩn thận, sạch đẹp, cách trình bày bài chưa đẹp, khoa học.
- Một số học sinh chưa cú ý thức rèn chữ viết, các em còn ngại khó, ngại khổ. Cha mẹ và bản thân các em còn xem nhẹ chữ viết, thường chỉ quan tâm đến kết quả học các môn văn hoá như Toán, Tiếng Việt.
Từ thực trạng trên, ngay từ đầu năm học, tôi đã khảo sát chất lượng viết chữ đẹp, giữ vở sạch của học sinh lớp 5A, kết quả như sau:
Xếp loại
Số lượng
Tỷ lệ 
Loại A
4
16%
Loại B
6
24%
Loại C
15
60%
2.3.Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
2.3.1) Đối với giáo viên :
- Tôi luôn ý thức được rằng chữ viết của giáo viên là rất quan trọng vì nó là mẫu để các em học tập và viết theo. Vì vậy, tôi luôn có ý thức rèn luyện để chữ viết của bản thân rõ ràng, đúng mẫu và đẹp. Giáo viên phải mẫu mực về chữ viết ở bảng lớp, ở lời phê, lời nhận xét, điểm số  trong vở học sinh, làm gương cho học sinh học tập và noi theo.
- Tôi thường xuyên nghiên cứu, tìm hiểu các tài liệu tham khảo như dạy viết ở Tiểu học, tài liệu tham khảo “ Nét chữ  - Nết người’’ .
- Mẫu chữ viết trong trường Tiểu học.
- Ngoài ra tôi còn tham quan, tham khảo, học hỏi  kinh nghiệm của đồng nghiệp trong việc rèn chữ viết, giữ vở sạch cho học sinh.
- Tôi chú trọng rèn chữ cho học sinh trong tất cả các giờ học.
- Tôi thường xuyên động viên tuyên dương những học sinh có tiến bộ về chữ viết, có ý thức viết chữ đẹp, giữ vở sạch.
2.3.2)  Rèn kỹ năng viết các nét cơ bản cho học sinh:
	Chữ viết được cấu tạo bởi các nét cơ bản khác nhau. Để viết được chữ đẹp thì các em cần phải viết đúng đẹp được các nét cơ bản. Viết đúng đẹp được các nét cơ bản sẽ giúp đạt hiệu quả cao nhất trong quá trình rèn chữ viết đúng, đẹp. Chính vì vậy, tuần đầu tôi đã tổ chức ôn luyện lại cho học sinh nắm vững cấu tạo, kích thước, cách viết của các nét cơ bản. Muốn học sinh viết đúng, đẹp thì đầu tiên tôi yêu cầu các em viết đúng mà muốn viết đúng được thì tôi phải hướng dẫn các em luyện viết đúng các nét cơ bản vì nếu học sinh viết chuẩn các nét cơ bản thì đó là tiền đề cho việc viết chữ đẹp.
Đầu tiên tôi dạy cho học sinh viết hai nét ngang và sổ. Viết cơ bản hai nét này cũng dễ viết và nó giúp học sinh sau này có dạng chữ viết thẳng, ngay ngắn từ đầu. Sau khi học sinh viết đẹp hai nét này, tôi tiến hành dạy các nét móc xuôi, nét móc ngược, nét móc hai đầu,... 
 Trong tất cả các nét cơ bản có nét khuyết trên, nét khuyết dưới là khó viết hơn nên các em thường hay viết không đẹp và không đúng độ cao. Vì thế nên tôi rất quan tâm hướng dẫn tỉ mỉ để các em viết đúng, đẹp được hai nét này.
* Ví dụ: Hướng dẫn viết nét khuyết.
	Cho học sinh quan sát nét khuyết trên rồi hỏi: - Nét khuyết trên cao mấy ly? Rộng mấy ly? Em hãy nêu lại quy trình viết nét khuyết này?
- Giáo viên vừa viết vừa nêu lại cách viết, yêu cầu học sinh cả lớp lắng nghe, quan sát.
- Học sinh luyện viết. Hướng dẫn nét khuyết dưới tương tự.
Để trong quá trình dạy luyện viết được thống nhất trong cách gọi tên các nét, tôi thống nhất với học sinh cách gọi tên các nét như sau:
- Nét sổ - Nét cong hở trái
- Nét ngang - Nét cong hở phải
- Nét xiên phải - Nét cong kín
- Nét xiên trái - Nét khuyết trên
- Nét móc xuôi - Nét khuyết dưới
- Nét móc ngược - Nét thắt ngang
- Nét móc hai đầu
	“Tài liệu tham khảo: Phương pháp dạy Tập viết ở Tiểu học”.
Làm tốt phần này là tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh khi viết chữ được đúng, đẹp theo mẫu.
2.3.3)  Rèn kỹ năng viết chữ thường cho học sinh:
 	Mặc dù lớp 5 rồi nhưng tôi vẫn dành thời gian của những ngày đầu đi học vào buổi chiiều để tôi hướng dẫn học sinh ôn lại cách viết chữ thường để tất cả các em nắm vững cách viết chữ thường giúp các em viết đúng đẹp hơn.
a) Hướng dẫn học nắm vững cấu tạo, kích thước cách viết của chữ viết thường:
	Tôi hướng dẫn các em viết từng con chữ theo từng nhóm.
* Ví dụ: - Nhóm chữ cao 1 đơn vị (1 ly): a,ă,â,c,e,ê,i,m,n,o,ô,ơ,u,ư,v,x.
- Nhóm chữ cao 1,25 đơn vị (1,25 ly): r,s.
- Nhóm chữ cao 2 đơn vị (2 ly): d,đ,p,q.
- Nhóm chữ cao 2,5 đơn vị (2,5 ly): b,g,h,l,k,y.
	“Tài liệu tham khảo: Mẫu chữ viết trong trường Tiểu học”.
b) Hướng dẫn học sinh xác định khoảng cách giữa các con chữ, giữa các chữ:
	Hướng dẫn để học sinh nhớ lại, nắm vững: Khoảng cách giữa các con chữ trong một chữ là nửa thân con chữ, các nét chữ trong một chữ phải viết liền mạch. Khoảng cách giữa các chữ trong một từ là cách nhau một thân con chữ.
	“Tài liệu tham khảo: Phương pháp dạy Tập viết ở Tiểu học”.
c) Hướng dẫn học sinh cách ghi dấu thanh:
	Trong khi viết, nhiều em đã đặt dấu tùy tiện, không đúng. Vì thế tôi phải hướng dẫn để các em nhớ lại và nắm vững cách ghi dấu thanh theo các nguyên tắc;
- Nguyên tắc khoa học (cơ bản): Dấu thanh đặt ở âm cuốicủa vần.
- Nguyên tắc thẩm mỹ (thứ yếu): Dấu thanh đặt ở vị trí cân đối.
- Nguyên tắc thực dụng: Dấu thanh chỉ đặt vào chữ ghi nguyên âm chính, không đặt vào vị trí giữa hai chữ cái.
* Ví dụ: Công cha như núi Thái Sơn
	Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
	Trong các chữ ghi tiếng có nguyên âm đôi, nếu không có âm cuối vần thì dấu thanh đặt vàochữ cái thứ nhất của nguyên âm đôi. 
* Ví dụ: mùa, mía, tựa,...
	Nếu nguyên âm đôi có âm cuối vần thì dấu thanh đặt vào chữ cái thứ hai của nguyên âm đôi.
* Ví dụ: kiến, rượu, muỗi,...
	Các dấu thanh được viết trong phạm vi một ô, có cạnh 0,5 đơn vị. Khi viết tôi hướng dẫn để học sinh nắm vững, phải ghi chữ của từng tiếng cho xong trước rồi mới ghi dấu thanh sau.
	“Tài liệu tham khảo: Sách giáo viên Tiếng Việt lớp 5”.
2.3.4)  Hướng dẫn cho học sinh rèn kĩ năng viết chữ hoa:
	Theo tôi, bài viết đẹp cũng nhờ một phần vào việc thể hiện những chữ viết hoa (Chữ đầu bài, chữ đầu câu, tên danh từ riêng,...). Bởi vậy tôi rất chú ý rèn chữ viết hoa cho các em. Ngoài việc rèn cho các em viết chữ chuẩn theo mẫu, tôi còn hướng dẫn các em viết các nét chữ cách điệu, sáng tạo cho chữ viết mềm mại hơn.
	Phân loại các nhóm chữ để hướng dẫn các em luyện viết:
- Nhóm 1 : A , Ă , Â , M , N 
- Nhóm 2 : P , B , R , D , Đ 
- Nhóm 3 : C , S , L , G , E , Ê 
- Nhóm 4 : J , K , H , V 
- Nhóm 5 : O , Ô , Ơ , Q , Q , T 
- Nhóm 6 : X , M , N , V , U , Ư , Y
	Đầu tiên, tôi hướng dẫn học sinh nhớ lại để nắm vững cấu tạo, cách viết của từng chữ hoa: Tất cả các chữ hoa cỡ lớn cao 5 ly, các chữ hoa cỡ nhỏ cao 2,5 ly (2 ly rưỡi). Giáo viên dành thời gian của những buổi đầu đi học vào buổi chiều để hướng dẫn, rèn kỹ năng viết đẹp các chữ hoa. Giáo viên viết mẫu lên bảng dể học sinh quan sát, cho các em quan sát bảng chữ mẫu rồi luyện viết lại. Cho học sinh xem những bài viết đúng đẹp, viết sáng tạo để các em tham khảo, học tập. Khi các em luyện viết tôi theo dõi từng em để kịp thời uốn nắn, sửa sai cho các em ngay. Tôi luôn khen ngợi, động viên các em dù các em chỉ có một ít tiến bộ để khích lệ các em tích cực luyện viết, không nên chê các em mà cần chỉ rõ em sai chỗ nào, vì sao lại sai như vậy để giúp các em khắc phục lỗi sai ấy. Qua cách làm này, tôi thấy các em viết chữ hoa ngày một tiến bộ rõ rệt.
	“Tài liệu tham khảo: Mẫu chữ viết trong trường Tiểu học”.
2.3.5) Hướng dẫn cho học sinh tư thế ngồi, cách cầm bút, vị trí đặt vở khi viết chữ.
- Muốn rèn học sinh viết chữ  đúng, đẹp đầu tiên tôi đọc các tài liệu tham khảo, để nắm chắc cách viết các nét, chữ cái cho đúng, đẹp.
- Ngay từ đầu năm học tôi dành tuần đầu tiên để hướng dẫn các em cách cầm bút, để vở và tư thế ngồi viết.
+Tư thế ngồi viết: Khi ngồi viết, học sinh phải ngồi ngay ngắn, lưng thẳng, không tì ngực vào cạnh bàn, đầu hơi cúi, hai mắt cách vở từ 25-30 cm. Cánh tay trái đặt trên mặt bàn bên trái vở, bàn tay trái tì vào vở giữ vở không bị xê dịch khi viết.Cánh tay phải cùng ở trên mặt bàn. 
Với cách để tay như vậy, khi viết bàn tay  và cánh tay phải có thể dịch chuyển thuận lợi từ trái sang phải một cách dễ dàng.
+ Cách cầm bút : Khi viết học sinh cầm bút và điều khiển bút viết bằng cả ba ngón tay (ngón trỏ, ngón cái và ngón giữa) của bàn tay phải. Đầu ngón tay trỏ đặt ở phía trên , đầu ngón cái giữ bên trái, phía bên phải của đầu bút tựâ cạnh đốt đầu ngón tay giữa . Ba điểm tựa này giữ bút và điều khiển ngòi bút dịch chuyển linh hoạt. Ngoài ra, động tác viết cần có sự phối hợp cử động của cổ tay khuỷu tay và cả cánh tay .
+ Vị trí đặt vở khi viết chữ : Vở viết cần đặt nghiêng so với mép bàn  một góc 300 (nghiêng về bên  phải). Sở dĩ phải đặt như vậy vì chiều thuận của vận động tay khi viết chữ Việt là vận động từ trái sang phải.
- Trong quá trình học sinh viết, tôi luôn quan sát những học sinh ngồi, cầm bút, để vở sai để kịp thời uốn nắn, sửa triệt để cho các em.
	“Tài liệu tham khảo: Phương pháp dạy Tập viết ở Tiểu học”.
2.3.6) Rèn chữ ở các thời điểm.
Trong quá trình rèn luyện chữ cho học sinh, tôi đặt kế hoạch rèn chữ cụ thể ở bốn thời điểm: Trong giờ luyện viết, trong giờ chính tả, trong các giờ học còn lại và viết ở nhà.
 a)Việc rèn luyện trên lớp: Đây là công việc chủ yếu của giáo viên đối với lớp mình, qua sự chỉ bảo, hướng dẫn tận tình, trực tiếp tới các em mà hiểu được, thấy được sự tiến bộ từng ngày của từng học sinh, nắm chắc được tình hình lớp, tôi quyết định chia lớp thành 3 nhóm chữ để có kế hoạch rèn luyện.
*) Nhóm chữ xếp loại A:
	Là nhóm chữ viết tương đối khá, ít lỗi chính tả, biết giữ gìn vở sạch sẽ. Bước đầu tôi dạy cho các em cách ghép các chữ cái thật đều, cách nối nét, cách đánh dấu chữ, dấu thanh đúng quy định, sau khi các em viết đã viết đều ta, tôi lại luyện cho các em viết chữ hoa thông qua các giờ Chính tả trên lớp, sau khi các em viết chữ hoa tương đối đẹp, tôi cho các em viết một đoạn văn hay một đoạn thơ mà tôi đã chọn trước, sau đó tôi sửa chữa, nhận xét và cho điểm khuyến khích các em phấn đấu, các em thi nhau viết đẹp.
*) Nhóm chữ xếp loại B:
	Đây là nhóm chữ viết chưa đẹp, vở tương đối sạch sẽ tôi giành thời gian tương đối nhiều cho các em viết chữ cái thành thạo với các kích cỡ đúng quy định. Sau đó các em tập ghép chữ, các con chữ ghép với nhau thành một chữ (hay một tiếng khi đọc) phải làm sao cho đều nét, các con chữ đều nhau, không to quá hoặc nhỏ quá, các con chữ nối với nhau liền nét, độ cao các con chữ đúng quy định. Sau đó, hướng dẫn các em viết chữ hoa, cách dùng chữ hoa hợp lý khi viết trong bài viết. Tôi thường xuyên sửa chữa, uốn nắn, viết mẫu để nâng cao sự cố gắng của các em để các em tiến bộ lên nhóm chữ A.
*) Nhóm chữ xếp loại C:
	Đây là một nhóm chữ viết xấu, trình bày chưa khoa học chưa đẹp, chữ viết mắc nhiều lỗi chính tả, bìa không bọc, vở quăn nhàu nát. Nhiệm vụ đặt ra yêu cầu tôi phải quan tâm chặt chẽ tới các em, từ chỗ vở phải bọc bìa có nhãn hay bọc bìa bóng viết nhãn vào bìa luôn, tôi yêu cầu phải giữ gìn cẩn thận, sạch sẽ, đến từng bài tôi đều viết mẫu để các em học tập. Tôi giao bài cụ thể cho các em viết thêm ở nhà, ban đầu các em ngại viết, sau dần các em tự giác viết để có bài viết sáng hôm sau cô kiểm tra chấm nhận xét. 
b) Trong giờ chính tả:
- Đây là giờ học rèn luyện cho học sinh kỹ năng nghe đọc để viết chuẩn xác theo luật chính tả. Học sinh nắm chắc để phân biệt được những phụ âm dễ lẫn
-Đối với chính tả, tôi chú trọng rèn cho các em  cách nghe chuẩn xác để viết đúng, cách phân biệt các phụ âm  dễ nhầm để viết cho chuẩn xác thông qua việc phát âm, ghép tiếng tạo từ (Dựa vào nghĩa chuẩn của từ ghép để phân biệt, dựa vào quy luật chung). Ngoài ra còn rèn luyện cho học sinh kỹ năng viết đúng, viết đẹp. Trong tiết nghe viết hay nhớ viết tôi cũng đều quan sát, theo dõi từng em đặc biệt những em viết hay mắc lỗi, viết chưa đẹp để kịp thời hướng dẫn, sửa sai cho các em. 
 Song song với việc ôn tập giúp học sinh nắm vững các qui tắc và mẹo chính tả, việc hướng dẫn học sinh phát hiện lỗi và sửa lỗi trong bài viết cũng rất quan trọng. Đây là một thói quen mà giáo viên cần phải rèn cho học sinh , không chỉ ở chính tả mà ở tất cả các môn học khác. 
 * Đối với bài chính tả Đoạn bài, sau khi học sinh viết xong, tôi tổ chức cho học sinh đổi vở và soát lỗi lẫn nhau. Tôi qui định lỗi cụ thể, yêu cầu các em soát lỗi bài viết của bạn, dùng bút chì gạch dưới chữ viết sai, tổng hợp số lỗi rồi trả về cho bạn tự sửa (ghi từ chứa tiếng sai rồi sửa lại đúng chính tả).
 Đối với những em viết sai nhiều, tôi phân công 1 học sinh giỏi đổi vở và soát lỗi với học sinh đó. Sau khi các em soát lỗi xong, tôi mới thu vở để chấm điểm.Trong giờ chính tả, tôi chỉ chấm nhanh khoảng 1/3 lớp. Nhưng giờ ra chơi, tôi cố gắng chấm hết , chấm thật kĩ và ghi nhận xét cụ thể, khen những em có tiến bộ. Khi trả vở cho học sinh, tôi khen ngợi những em đã soát lỗi bài viết của bạn chính xác, tuyên dương những em có tiến bộ, nhắc nhở những em còn viết sai nhiều sửa lỗi trong vở. 
 * Đối với các bài tập, tôi thường tổ chức cho các em làm bài trong nhóm bằng nhiều hình thức thi đua như: Ai nhanh ai đúng, Tìm nhanh viết đúng,  Các nhóm ghi bài làm của nhóm mình vào bảng nhóm ho

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_giai_phap_giup_hoc_sinh_lop_5_viet_chu_dep_giu_v.doc