SKKN Một số biện pháp giúp học sinh còn hạn chế năng lực về học môn Toán lớp 4
Đào tạo thế hệ trẻ trở thành những người năng động sáng tạo, độc lập tiếp thu tri thức là một vấn đề mà nhiều nhà giáo dục đã và đang quan tâm trong giai đoạn hiện nay. Trong đó bậc Tiểu học là bậc học nền móng cho việc hình thành nhân cách, tri thức ở học sinh. Các môn học ở bậc Tiểu học có liên quan mật thiết và cùng hỗ trợ cho nhau. Trong các môn học ở Tiểu học, cùng với môn Tiếng việt môn Toán có một vị trí rất quan trọng nhằm góp phần trang bị những kiến thức cơ bản ban đầu về số học, các số tự nhiên, phân số, các đại lượng thông dụng, một số yếu tố hình học và thống kê đơn giản. Chính vì vậy việc hình thành kiến thức cơ bản cho học sinh ở bậc Tiểu học là điều rất cần thiết.
Chất lượng giáo dục hiện nay ngày một được nâng lên, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. Song trong thực tế, chúng ta phải thẳng thắn thừa nhận rằng bên cạnh phần lớn học sinh có khả năng tiếp thu bài tốt vẫn còn một bộ phận không nhỏ học sinh tiếp thu bài chậm do nhiều nguyên nhân khác nhau. Bởi mỗi học sinh là một cá thể riêng biệt, các em khác nhau về ngoại hình, tính cách, điều kiện học tập và cả khả năng nhận thức trong học tập. Có những học sinh còn hạn chế năng lực về học môn Toán là hiện tượng đã và đang tồn tại trong các nhà trường. Việc dạy các em học sinh chưa hoàn thành ở môn Toán lên trình độ hoàn thành quả là một vấn đề không đơn giản. Đây là vấn đề hiện nay luôn được các nhà trường và xã hội quan tâm và tìm giải pháp để khắc phục. Vấn đề nêu trên rất khó khăn với không ít giáo viên bởi hiện tại chưa có tài liệu nghiên cứu nào bàn sâu vào vấn đề này, đồng nghiệp, nhà trường chưa có nhiều kinh nghiệm để giải quyết, khắc phục.
Mặt khác, việc rèn học sinh còn hạn chế năng lực về học môn Toán sẽ làm cho các em tự tin hơn khi đến lớp, công tác duy trì sĩ số mới được đảm bảo, góp phần làm nên thắng lợi của công tác phổ cập giáo dục Tiểu học ở địa phương. Vậy là một giáo viên chủ nhiệm thì phải làm gì đối với những học sinh còn hạn chế năng lực về học môn Toán này? Đó chính là vấn đề mà tôi rất quan tâm và nó luôn thôi thúc tôi trong suốt quá trình dạy học.
Trong những năm gần đây, tôi luôn được phân công giảng dạy lớp 4. Đó là điều kiện tốt giúp tôi tìm hiểu rõ về đặc điểm tâm sinh lí của các em và đề ra các biện pháp để rèn những học sinh còn hạn chế năng lực về học môn Toán có thể nắm được bài và hoà nhập vào các hoạt động trên lớp cùng các bạn. Bên cạnh đó, trong quá trình công tác tại trường Tiểu học Nguyễn Bá Ngọc, những khó khăn mà tôi gặp phải luôn được sự quan tâm của ban giám hiệu nhà trường và tập thể đồng nghiệp chia sẻ. Chính sự chia sẻ nhiệt tình đó đã góp phần tạo nên nhiều kinh nghiệm hữu ích được áp dụng thành công. Để góp phần nâng cao chất lượng giáo dục học sinh của nhà trường tôi đã mạnh dạn chọn đề tài: “Một số biện pháp giúp học sinh còn hạn chế năng lực về học môn Toán lớp 4 ” ở lớp 4B trường Tiểu học Nguyễn Bá Ngọc.
1. Mở đầu 1.1. Lí do chọn đề tài. Đào tạo thế hệ trẻ trở thành những người năng động sáng tạo, độc lập tiếp thu tri thức là một vấn đề mà nhiều nhà giáo dục đã và đang quan tâm trong giai đoạn hiện nay. Trong đó bậc Tiểu học là bậc học nền móng cho việc hình thành nhân cách, tri thức ở học sinh. Các môn học ở bậc Tiểu học có liên quan mật thiết và cùng hỗ trợ cho nhau. Trong các môn học ở Tiểu học, cùng với môn Tiếng việt môn Toán có một vị trí rất quan trọng nhằm góp phần trang bị những kiến thức cơ bản ban đầu về số học, các số tự nhiên, phân số, các đại lượng thông dụng, một số yếu tố hình học và thống kê đơn giản. Chính vì vậy việc hình thành kiến thức cơ bản cho học sinh ở bậc Tiểu học là điều rất cần thiết. Chất lượng giáo dục hiện nay ngày một được nâng lên, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. Song trong thực tế, chúng ta phải thẳng thắn thừa nhận rằng bên cạnh phần lớn học sinh có khả năng tiếp thu bài tốt vẫn còn một bộ phận không nhỏ học sinh tiếp thu bài chậm do nhiều nguyên nhân khác nhau. Bởi mỗi học sinh là một cá thể riêng biệt, các em khác nhau về ngoại hình, tính cách, điều kiện học tập và cả khả năng nhận thức trong học tập. Có những học sinh còn hạn chế năng lực về học môn Toán là hiện tượng đã và đang tồn tại trong các nhà trường. Việc dạy các em học sinh chưa hoàn thành ở môn Toán lên trình độ hoàn thành quả là một vấn đề không đơn giản. Đây là vấn đề hiện nay luôn được các nhà trường và xã hội quan tâm và tìm giải pháp để khắc phục. Vấn đề nêu trên rất khó khăn với không ít giáo viên bởi hiện tại chưa có tài liệu nghiên cứu nào bàn sâu vào vấn đề này, đồng nghiệp, nhà trường chưa có nhiều kinh nghiệm để giải quyết, khắc phục. Mặt khác, việc rèn học sinh còn hạn chế năng lực về học môn Toán sẽ làm cho các em tự tin hơn khi đến lớp, công tác duy trì sĩ số mới được đảm bảo, góp phần làm nên thắng lợi của công tác phổ cập giáo dục Tiểu học ở địa phương. Vậy là một giáo viên chủ nhiệm thì phải làm gì đối với những học sinh còn hạn chế năng lực về học môn Toán này? Đó chính là vấn đề mà tôi rất quan tâm và nó luôn thôi thúc tôi trong suốt quá trình dạy học. Trong những năm gần đây, tôi luôn được phân công giảng dạy lớp 4. Đó là điều kiện tốt giúp tôi tìm hiểu rõ về đặc điểm tâm sinh lí của các em và đề ra các biện pháp để rèn những học sinh còn hạn chế năng lực về học môn Toán có thể nắm được bài và hoà nhập vào các hoạt động trên lớp cùng các bạn. Bên cạnh đó, trong quá trình công tác tại trường Tiểu học Nguyễn Bá Ngọc, những khó khăn mà tôi gặp phải luôn được sự quan tâm của ban giám hiệu nhà trường và tập thể đồng nghiệp chia sẻ. Chính sự chia sẻ nhiệt tình đó đã góp phần tạo nên nhiều kinh nghiệm hữu ích được áp dụng thành công. Để góp phần nâng cao chất lượng giáo dục học sinh của nhà trường tôi đã mạnh dạn chọn đề tài: “Một số biện pháp giúp học sinh còn hạn chế năng lực về học môn Toán lớp 4 ” ở lớp 4B trường Tiểu học Nguyễn Bá Ngọc. 1.2. Mục đích nghiên cứu. - Nghiên cứu về nội dung, phương pháp dạy học sinh còn hạn chế năng lực về học môn Toán lớp 4, từ đó giúp học sinh còn hạn chế năng lực về học môn Toán nắm bắt, tiếp thu bài nhanh, nắm vững kiến thức đã học, đáp ứng yêu cầu chương trình của lớp học. - Đề xuất một số biện pháp giúp giáo viên lớp 4 nói riêng và giáo viên Tiểu học nói chung nắm được một số kinh nghiệm giúp học sinh còn hạn chế năng lực về học môn Toán. 1.3. Đối tượng nghiên cứu. - Nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức dạy học giúp học sinh còn hạn chế năng lực về học môn Toán lớp 4. - Học sinh lớp 4 còn hạn chế năng lực về học môn Toán. 1.4. Phương pháp nghiên cứu. - Nghiên cứu các tài liệu về nội dung chương trình, phương pháp, hình thức tổ chức dạy học môn Toán lớp 4. - Nghiên cứu phương pháp, hình thức tổ chức giúp học sinh còn hạn chế năng lực về học môn Toán lớp 4. - Phương pháp điều tra, thực nghiệm. 2. Nội dung 2.1. Cơ sở lí luận. Theo yêu cầu về nội dung giáo dục Tiểu học đó là: Phải đảm bảo cho học sinh có hiểu biết đơn giản, cần thiết về tự nhiên, xã hội và con người; có kĩ năng cơ bản về nghe, nói, đọc, viết và tính toán; có thói quen rèn luyện thân thể, giữ vệ sinh; có hiểu biết ban đầu về hát, múa, âm nhạc, mĩ thuật. Đối với dạy học Toán lớp 4 nhằm giúp HS: *Về số và phép tính: - Số tự nhiên: + Nhận biết một số đặc điểm chủ yếu của dãy số tự nhiên. + Biết đọc, viết, so sánh, sắp thứ tự các số tự nhiên. + Biết cộng, trừ các số tự nhiên; nhân số tự nhiên với số tự nhiên có ba chữ số; chia số tự nhiên có đến sáu chữ số cho số tự nhiên có đến ba chữ số. + Biết tìm một thành phần chưa biết của phép tính khi biết kết quả tính và thành phần kia. + Biết tính giá trị của biểu thức số có đến ba dấu phép tính (có hoặc không có dấu ngoặc) và biểu thức có chứa một, hai, ba chữ số dạng đơn giản. + Biết vận dụng tính chất giao hoán, kết hợp của phép cộng và phép nhân, tính chất nhân một tổng với một số để tính bằng cách thuận tiện nhất. + Biết tính nhẩm trong phạm vi các bảng tính, nhân với 10, 100, 1000,Chia cho 10, 100, 1000,Nhân số có hai chữ số với 11. + Nhận biết dấu hiệu chia hết cho 2, 3, 5, 9, - Phân số: + Bước đầu nhận biết về phân số (qua hình ảnh trực quan). + Biết đọc, viết phân số; tính chất cơ bản của phân số; biết rút gọn, quy đồng mẫu số các phân số; so sánh hai phân số. + Biết cộng, trừ, nhân, chia hai phân số dạng đơn giản. * Về đo lường: - Biết mối quan hệ giữa yến, tạ, tấn với kg; giữa giây, phút, giờ; giữa ngày và giờ; năm và thế kỉ; giữa dm2 và cm2; giữa dm2 và m2; giữa km2 và m2. .- Biết chuyển đổi các đơn vị đo đại lượng thông dụng trong một số trường hợp cụ thể khi thực hành vận dụng. * Về các yếu tố hình học: - Nhận biết góc nhọn, góc tù, góc bẹt; hai đường thẳng vuông góc, hai đường thẳng song song; một số đặc điểm về cạnh, góc của hình chữ nhật, hình vuông, hình bình hành, hình thoi. - Biết vẽ đường cao của hình tam giác, hai đường thẳng vuông góc, hai đường thẳng song song; hình chữ nhật, hình vuông khi biết độ dài các cạnh. - Biết tính chu vi, diện tích của hình bình hành, hình thoi. * Về một số yếu tố thống kê và tỉ lệ bản đồ: - Biết đọc và nhận định (mức độ đơn giản) các số liệu trên biểu đồ cột. - Biết một số ứng dụng của tỉ lệ bản đồ trong thực tế. *Về giải bài toán có lời văn : - Biết tự tóm tắt bài toán bằng cách ghi ngắn gọn hoặc bằng sơ đồ, hình vẽ. - Biết giải và trình bày bài giải các bài toán có đến ba bước tính, trong đó có các bài toán: tìm số trung bình cộng, tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số đó, tìm hai số khi biết tổng (hoặc hiệu) và tỉ số của hai số. * Về phát triển ngôn ngữ, tư duy và góp phần hình thành nhân cách của học sinh: - Phát triển năng lực phân tích, tổng hợp, khái quát hóa và cụ thể hóa. - Biết diễn đạt một số nhận xét, quy tắc, tính chất, bằng ngôn ngữ nói, viết ở dạng khái quát. Dạy học theo chuẩn kiến thức, kỹ năng mà Bộ Giáo dục đã ban hành trên cơ sở giáo viên tổ chức và hướng dẫn học sinh tham gia vào các hoạt động học tập một cách tích cực, chủ động, sáng tạo, khuyến khích học sinh tự phát hiện và giải quyết các vấn đề của bài học để tự chiếm lĩnh rồi vận dụng kiến thức mới, góp phần tạo hứng thú và tự tin trong học tập toán của các đối tượng học sinh. Yêu cầu giáo viên phải dạy học theo cách phân hoá đối tượng học nhằm giải quyết chuẩn kiến thức kỹ năng tối thiểu và bồi dưỡng năng khiếu Toán học cho học sinh . 2.2. Thực trạng. Qua nhiều năm làm công tác giảng dạy ở lớp 4 tôi đã nhận thấy: - Chương trình toán lớp 4 là chương trình chuyển tiếp giữa các lớp 1, 2, 3. Học sinh được củng cố, mở rộng kiến thức về 4 phép tính cộng, trừ, nhân, chia và giải toán ... đặc biệt là giải các bài toán điển hình qua các vòng số. Trên tập hợp số tự nhiên, phân số; học sinh tiếp tục được học các đại lượng thông dụng, một số yếu tố hình học và thống kê đơn giản. - Sự phát triển tâm sinh lí của sinh lớp 4 đang ở sự giao thời của lứa tuổi sao nhi đồng và lứa tuổi thiếu niên. Ở lứa tuổi này tư duy cụ thể của các em đang chuyển dần sang tư duy trừu tượng, sự ghi nhớ có chủ định ngày một phát triển hơn. Song sự phát triển tâm lí, tri thức, kinh nghiệm chưa được nhiều, chưa nhận thức đầy đủ, khái quát mà các em vẫn thiên về nhận thức trong những trường hợp, hoàn cảnh cụ thể. - Nhìn chung động cơ học tập của các em tương đối tốt. Tuy nhiên, tuy cùng hưởng thụ một nội dung chương trình giáo dục như nhau nhưng mỗi học sinh đều có sự phát triển về thể chất và trí tuệ, điều kiện hoàn cảnh sống và sự quan tâm chăm sóc ở gia đình, động cơ và thái độ học tập, năng lực học tập và khả năng tiếp thu bài cũng khác nhau nên trong một lớp học có rất nhiều đối tượng học sinh. Có nhiều học sinh tiếp thu bài nhanh, sâu sắc thì việc kiểm tra kiến thức, giảng dạy kiến thức mới, giáo viên thực hiện dễ dàng, các em dễ dàng làm được tất cả các bài tập giáo viên giao cho. Nhưng đối với các em học sinh còn hạn chế năng lực về học môn Toán thì rất khó khăn, vì các em tiếp thu bài chậm, thậm chí không hiểu bài. Khi không hiểu bài dẫn đến trường hợp các em không tự trải nghiệm, tương tác; thời gian cả lớp làm bài các em này thường không tập trung học bài. - Qua quá trình giảng dạy, bản thân nhận thấy rằng các em học sinh còn hạn chế năng lực về học môn Toán là những học sinh không chịu chú ý, chưa chuyên tâm vào việc học. Còn một bộ phận nhỏ thì các em chưa xác định được mục đích của việc học. Các em chỉ đợi đến khi lên lớp, nghe giáo viên giảng bài rồi ghi vào những nội dung đã học mà không hiểu được nội dung đó nói lên điều gì. - Đối tượng học sinh hạn chế về năng lực môn Toán thường là những em có hoàn cảnh khó khăn về kinh tế, cha mẹ ly hôn, bố mẹ đi làm ăn xa phải ở nhà với ông bà. Học sinh còn hạn chế về năng lực môn Toán thường có tâm lí tự ti, mặc cảm, hiểu chậm cái mới, quên nhanh cái vừa tiếp thu được. Quá trình ghi nhớ chậm, không bền vững, không đầy đủ và thiếu chính xác. Dễ quên với cái gì không liên quan, không phù hợp với nhu cầu mong đợi của trẻ, khó nhớ những gì có tính khái quát, trừu tượng, quan hệ lôgic. - Học sinh hạn chế về năng lực môn Toán gặp phải nhiều vướng mắc sau: + Khả năng tính toán chậm do cộng, trừ, nhân, chia trong bảng chưa thuần thục. Khi thực hiện các phép tính cộng, trừ có nhớ và nhân, chia ngoài bảng, có nhiều lỗ hổng về kiến thức. + Đặt tính chưa đúng, còn lẫn lộn giữa cộng, trừ, nhân, chia. + Năng lực giải toán của một số học sinh chưa tốt. + Không vận dụng được kiến thức của bài trước cho bài sau. + Các em không thích môn Toán vì môn Toán khô khan, ít hình ảnh sinh động như những môn học khác. + Một số học sinh có thái độ thờ ơ với việc học tập, ngại cố gắng, thiếu tự tin, tiếp thu thụ động, chán nản trong học tập. Ngay đầu năm học 2017 - 2018 tôi đã tìm hiểu tình hình thực tế việc học toán của lớp 4B kết quả thu được như sau: Tổng số học sinh Hoàn thành trở lên Chưa hoàn thành 32 em 27 em 5 em Từ kết quả trên, tôi mạnh dạn áp dụng một số biện pháp để giúp học sinh còn hạn chế về năng lực môn Toán lớp 4 trường Tiểu học Nguyễn Bá Ngọc. 2. 3. Các giải pháp giúp học sinh còn hạn chế về năng lực môn Toán lớp 4. 2. 3.1. Phân loại đối tượng học sinh. Việc phân loại đối tượng học sinh rất quan trọng, bởi lẽ nếu không biết được các em còn hạn chế chỗ nào thì rất khó kèm cặp. Tôi thực hiện thường xuyên công tác phân loại học sinh ở thời điểm đầu năm học, trong quá trình giảng dạyVì vậy ngay sau khi nhận lớp, tôi vừa dạy vừa theo dõi cũng như tham khảo giáo viên lớp dưới để đưa ra kết luận chính xác và khoanh nhóm đối tượng để đề ra phương pháp dạy học phù hợp. 2.3.2. Xây dựng môi trường học tập thân thiện. Môi trường học tập cũng là một yếu tố quan trọng giúp phát huy tính tích cực của học sinh, nó là một trong những yếu tố giúp học sinh hạn chế năng lực môn Toán rất có hiệu quả. Tôi đã tạo cho học sinh một môi trường học tập tốt, giúp các em tự cảm nhận hết ý nghĩa của việc: “ Mỗi ngày đến trường là một ngày vui”. Sự thân thiện của giáo viên là điều kiện cần để thực hiện những biện pháp đạt hiệu quả cao. Thông qua cử chỉ, lời nói, ánh mắt, nụ cười, tôi đã tạo được sự gần gũi, cảm giác an toàn cho học sinh để các em bày tỏ những khó khăn trong học tập, trong cuộc sống của bản thân mình. Bốn bức tường của lớp học, tôi và học sinh tận dụng để hỗ trợ cho việc học. Ví dụ: Trưng bày “ Sản phẩm của em”: Các sản phẩm đẹp do các em làm ra sau khi học thủ công, mĩ thuật, ; hay những bài toán có cách làm hay,... được trang trí trên tường để học sinh trong lớp cùng xem, học tập lẫn nhau, kích thích học sinh phấn đấu hoàn thiện làm đẹp, làm tốt sản phẩm của mình để được biểu dương trước lớp. Phòng học của lớp được nhà trường và đồng nghiệp đánh giá có tính thẩm mĩ và khoa học. - Góc toán học: Là nơi trưng bày những bài giải toán, những bài tìm thành phần chưa biết, các bảng cộng, trừ,... với các nội dung theo chương trình đang học để khi vui chơi, lúc rảnh rỗi các em nhìn vào, lâu dần sẽ khắc sâu vào trí nhớ. - Góc văn thơ: Tôi chọn những học sinh viết chữ đẹp viết một số bài thơ, đoạn văn hay đã học trong tuần hoặc các bài sưu tầm trên báo,... dán lên để tất cả học sinh cùng đọc nhằm kích thích sự yêu mến văn thơ, yêu thích viết chữ đẹp, cho các em tìm hiểu thêm về các con vật, giúp các em miêu tả khi làm tập làm văn hay vẽ về con vật trong môn Mĩ thuật. - Góc thi đua: Nơi gắn cờ biểu dương tổ chăm ngoan, giữ vệ sinh tốt, tích cực phát biểu,... giúp học sinh phấn khởi học tập tốt, chấp hành tốt nội quy nhà trường, lớp học. Nơi này có bảng vàng danh dự ghi tên những học sinh giỏi, chăm ngoan để làm gương và là niềm vui cho các em. Đồng thời để khuyến khích học sinh khác phấn đấu noi theo. - Học sinh đóng góp truyện, sách báo... để xây dựng thư viện mi ni cho lớp nhằm trau dồi kỹ năng đọc, giúp học sinh thư giãn. Để lớp học luôn phong phú, kích thích sự rèn luyện của học sinh tôi thường xuyên thay đổi nội dung cho phù hợp với chủ điểm học sinh đang học, khuyến khích các em làm các sản phẩm sáng tạo hơn để trang trí cho các bạn cùng học tập. Đặc biệt tôi chú ý làm tốt nội dung ở góc thi đua. Tôi cho học sinh nhận xét sự cố gắng vươn lên, sự tiến bộ trong tuần của học sinh nhất là những em học sinh chưa hoàn thành. Danh sách học sinh được ghi trên bảng vàng danh dự cũng được thay đổi qua từng tháng. Thật sự học sinh rất hứng thú, phấn đấu hoàn thiện để mình, sản phẩm của mình được trưng bày lên lớp, được ghi tên vào góc thi đua, trên bảng vàng danh dự. Tôi rất mừng khi thấy học sinh trong lớp nhất là những em học sinh chưa hoàn thành môn Toán rất thích, rất tích cực tham gia và phần nào giúp các em lĩnh hội kiến thức ở môn Toán và các môn học khác rất tốt. 2.3.3. Thường xuyên cải tiến nội dung và các hình thức tổ chức dạy học trong mỗi tiết học. - Phối hợp các hình thức dạy học theo lớp, theo nhóm hay hoạt động cá nhân một cách phù hợp có hiệu quả, tạo nhiều hình thức thi đua trong học tập. - Tổ chức các trò chơi học tập, cải tiến các bài tập trong sách giáo khoa thành trò chơi, câu đố hay giải ô chữ để thu hút sự chú ý ở học sinh, các em được học mà chơi, chơi mà học. Điều đặc biệt chú ý là trong mỗi tiết học, mỗi trò chơi tôi thường xuyên quan tâm khuyến khích tất cả các em tiếp thu bài chưa nhanh tham gia một cách tích cực, tự tin, thoải mái, tránh trường hợp để các em cảm thấy bị ép buộc. Ví dụ : Trò chơi " Tìm bạn cho tôi": Mỗi đội có 20 tấm thẻ bằng bìa, trên đó ghi những phép tính toán học. Trong đó có các phép tính có giá trị bằng nhau. Cách chơi: Chia lớp thành các đội, mỗi đội từ 4 - 6 em. Trong khoảng thời gian là 5 phút các đội phải tìm được các cặp đôi phép tính có kết quả bằng nhau. Đội nhanh nhất đúng nhất là đội chiến thắng. Trò chơi này giúp các em rèn kĩ năng tính nhẩm rất tốt. - Giáo viên thay hình thức tính nhẩm trong các phép tính +, -, x, : thành trò chơi thi đua tiếp sức giữa các tổ. - Sử dụng phối hợp bài tập trắc nghiệm giúp tiết học thêm phong phú, sinh động. Thay vì cứ lặp đi lặp lại việc giải toán có lời văn, thỉnh thoảng tôi thay đổi bằng hình thức trắc nghiệm. Ví dụ: Khoanh vào chữ đặt trước câu trả lời đúng: 1.Lớp 4A có 43 học sinh, lớp 4B có 41 học sinh, lớp 4C có 45 học sinh. Trung bình mỗi lớp có số học sinh là: A. 41 học sinh B. 43 học sinh C. 45 học sinh 2. Hiện nay tổng số tuổi của hai mẹ con là 40 tuổi và mẹ hơn con 24 tuổi. Tuổi của mẹ hiện nay là: A. 8 tuổi B. 64 tuổi C. 32 tuổi D. 16 tuổi Khi học sinh làm những dạng bài này, tôi luôn chú ý quan sát nhắc nhở các em tự tìm cách làm, tránh tình trạng các em không cần làm mà chỉ nhìn bài để khoanh và giúp các em ghi nhớ kiến thức đã học tôi cho học sinh trình bày cách làm để có được kết quả của mình. 2.3.4. "Ứng dụng công nghệ thông tin" thiết kế giáo án điện tử để nâng cao hiệu quả giảng dạy. Ngày nay, do sự phát triển mạnh mẽ về công nghệ thông tin, việc thực hiện bài giảng bằng giáo án điện tử không những thay đổi hình thức dạy học mà còn nhiều tác dụng. Học sinh hứng thú học tập bởi các hình ảnh trực quan đẹp, mới lạ, sống động kiến thức trở nên gần gũi, học sinh dễ hiểu, gây sự tò mò, ham học hỏi. Thực hiện bài giảng bằng giáo án điện tử đã làm giảm sự “khô khan” của toán học, đồng thời có thể thiết kế được nhiều trò chơi lí thú, sử dụng linh hoạt các phương pháp dạy học và trong cùng một lúc có thể kiểm tra được nhiều đối tượng học sinh, khi kiểm tra câu trả lời, sự phản hồi của học sinh, giáo viên dễ dàng bật máy để kiểm tra, tiện lợi nhất là câu trả lời trắc nghiệm. 2.3.5. Khuyến khích học sinh tham gia hoạt động ngoại khóa. Khuyến khích học sinh tham gia hoạt động ngoại khóa, học tập ngoài trời sẽ giúp học sinh có điều kiện tiếp xúc môi trường xung quanh, có cơ hội để giao lưu, học hỏi lẫn nhau. Qua đó rèn luyện tính nhanh nhẹn, sự tự tin, bản lĩnh. Đây là phẩm chất rất cần thiết của con người trong thời đại mới đồng thời giúp các em còn hạn chế về năng lực môn Toán có cơ hội thể hiện năng lực, nâng dần khả năng nhận thức của bản thân về mọi mặt. Từ đó giúp các em tiếp thu kiến thức về môn Toán tốt hơn 2.3.6. Làm tốt công tác thi đua khen thưởng trong lớp học. Trong khi dạy ở tất cả các phân môn, tôi thực hiện đúng theo tinh thần đánh giá học sinh của Thông tư 22/2016/TT – BGDĐT, thường xuên chú ý đến sự tiến bộ từng mặt của từng em để có lời khen kịp thời dù là rất nhỏ. Nếu việc này làm tốt sẽ giúp các em thấy được mình đã có tiến bộ và được cô, các bạn khẳng định. Đây là một trong những động lực giúp các em cố gắng nhiều hơn nữa trong học tập. Bên cạnh đó tôi sử dụng những lời phê bình nhẹ nhàng nhưng có sức thuyết phục tránh các em bị tổn thương, tránh việc xử phạt nặng mỗi khi các em làm chưa đúng hoặc chưa tiến bộ. Mặt khác sự đối xử công bằng và bình đẳng của giáo viên đối với học sinh cũng rất quan trọng để các em tin tưởng vào sự đánh giá, nhận xét của giáo viên và xem giáo viên là người chuẩn mực đáng tin cậy. 2.3.7. Phối hợp với giáo viên bộ môn trong việc giúp học sinh còn hạn chế về năng lực môn Toán. Trong thực tế, những học sinh còn hạn chế về năng lực môn Toán thì khả năng tiếp thu kiến thức ở các môn học khác cũng chậm. Chính vì thế, để việc kèm cặp học sinh còn hạn chế về năng lực môn Toán thành công chúng ta cần phối hợp với giáo viên dạy các môn đặc thù chú ý quan tâm kèm cặp, tạo điều kiện tối đa để các em tham gia lĩnh hội kiến thức một cách chủ động. 2.3.8. Thành lập: " Đôi bạn cùng tiến". Qua nắm được lực học, sở thích, điều kiện hoàn cảnh của từng em trong lớp, tôi phân công một học sinh có năng lực học toán tốt kèm một học sinh hạn chế về năng lực học toán và sắp xếp cho 2 em ngồi cùng một bàn.Việc thành lập "đôi bạn cùng tiến" được tôi rất quan tâm. Khi thành lập đôi bạn học tập tôi chú ý tạo thành đôi bạn có thể giúp nhau tiến bộ về môn Toán, đồng thời mỗi đôi bạn này phải cùng sở thích, thân nhau và gần nhà nhau. Tôi hướng dẫn cho học sinh có năng lực học toán tốt cách kèm bạn học: Nhắc nhở bạn học bài, xem lại bài; trao đổi kinh nghiệm học tập; cách học bài dễ thuộc; cách vận dụng kiến thức đã học vào làm bài tập; hướng dẫn bạn làm bài tập hoặc củng cố kiến thức mà bạn chưa hiểu vào sinh hoạt 15 phút đầu gi
Tài liệu đính kèm:
- skkn_mot_so_bien_phap_giup_hoc_sinh_con_han_che_nang_luc_ve.doc