Sáng kiến kinh nghiệm Dạy hội thoại trong môn Tiếng Việt lớp 4 ở tiểu học

Sáng kiến kinh nghiệm Dạy hội thoại trong môn Tiếng Việt lớp 4 ở tiểu học

Trong cuốn Ngữ dụng học (GS - TS Đỗ Hữu Châu): Lời nói không chỉ bao gồm sản phẩm của sự nói năng (văn bản) mà còn cả bao gồm các cơ chế ( sinh lí, tâm lí), những quy tắc điều khiển sự sản sinh ra các sản phẩm đó.

Sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp là hoạt động bình thường của mọi người. Trong giao tiếp, hội thoại chiếm tỉ lệ thời gian rất lớn, nếu thống kê, có lẽ hội thoại chiếm đến 70 - 80% thời gian con người sử dụng ngôn ngữ trong một ngày. Nhiều việc đạt kết quả hay thất bại phụ thuộc vào kinh nghiệm tham gia hội thoại của từng người. Ngôn ngữ được sử dụng chủ yếu trong hội thoại. Giáo sư Đỗ Hữu Châu khẳng định: “Hội thoại là hình thức giao tiếp thường xuyên, phổ biến của ngôn ngữ, nó cũng là hình thức cơ sở của mọi hoạt động ngôn ngữ khác…” 

 (Đỗ Hữu Châu. Đại cương ngôn ngữ học - tập2, NXB Giáo dục-H.2003, tr201).

Trong văn chương, hội thoại cũng chiếm vị trí quan trọng. Các nhân vật trò chuện, trao đổi với nhau tạo nên nhiều cuộc hội thoại khác nhau trong dòng diễn biến của cốt truyện. Các cuộc hội thoại góp phần bộc lộ tính cách nhân vật, bộc lộ mâu thuẫn, thúc đẩy sự phát triển của tình tiết truyện, của các tính cách nhận vật.

Hội thoại có vị trí quan trọng như thế trong đời sống và trong văn học nhưng một thời gian dài nó không được quan tâm nghiện cứu, không được đưa vào giảng dạy trong nhà trường; mhười ta cứ nghĩ rằng, trẻ dùng được tiếng mẹ đẻ thì đương nhiên đã biết nói và nghe, đã biết hội thoại. Đây là một quan niệm phiến diện. Việc đưa hội thoại vào nhà trường đã tạo ra những thay đổi quan trọng trong nội dung cũng như trong phương pháp dạy tiếng mẹ đẻ và dạy ngoại ngữ. Việc chú ý đến dạy hội thoại trong nhà trường giúp học sinh giao tiếp ngày càng linh hoạt sinh động.

 

doc 25 trang Mai Loan 19/11/2023 3013
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Dạy hội thoại trong môn Tiếng Việt lớp 4 ở tiểu học", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PhÇn I: Nh÷ng vÊn ®Ò chung
I. Lí do chọn đề tài:
 Trong cuốn Ngữ dụng học (GS - TS Đỗ Hữu Châu): Lời nói không chỉ bao gồm sản phẩm của sự nói năng (văn bản) mà còn cả bao gồm các cơ chế ( sinh lí, tâm lí), những quy tắc điều khiển sự sản sinh ra các sản phẩm đó.
Sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp là hoạt động bình thường của mọi người. Trong giao tiếp, hội thoại chiếm tỉ lệ thời gian rất lớn, nếu thống kê, có lẽ hội thoại chiếm đến 70 - 80% thời gian con người sử dụng ngôn ngữ trong một ngày. Nhiều việc đạt kết quả hay thất bại phụ thuộc vào kinh nghiệm tham gia hội thoại của từng người. Ngôn ngữ được sử dụng chủ yếu trong hội thoại. Giáo sư Đỗ Hữu Châu khẳng định: “Hội thoại là hình thức giao tiếp thường xuyên, phổ biến của ngôn ngữ, nó cũng là hình thức cơ sở của mọi hoạt động ngôn ngữ khác” 
 (Đỗ Hữu Châu. Đại cương ngôn ngữ học - tập2, NXB Giáo dục-H.2003, tr201).
Trong văn chương, hội thoại cũng chiếm vị trí quan trọng. Các nhân vật trò chuện, trao đổi với nhau tạo nên nhiều cuộc hội thoại khác nhau trong dòng diễn biến của cốt truyện. Các cuộc hội thoại góp phần bộc lộ tính cách nhân vật, bộc lộ mâu thuẫn, thúc đẩy sự phát triển của tình tiết truyện, của các tính cách nhận vật.
Hội thoại có vị trí quan trọng như thế trong đời sống và trong văn học nhưng một thời gian dài nó không được quan tâm nghiện cứu, không được đưa vào giảng dạy trong nhà trường; mhười ta cứ nghĩ rằng, trẻ dùng được tiếng mẹ đẻ thì đương nhiên đã biết nói và nghe, đã biết hội thoại. Đây là một quan niệm phiến diện. Việc đưa hội thoại vào nhà trường đã tạo ra những thay đổi quan trọng trong nội dung cũng như trong phương pháp dạy tiếng mẹ đẻ và dạy ngoại ngữ. Việc chú ý đến dạy hội thoại trong nhà trường giúp học sinh giao tiếp ngày càng linh hoạt sinh động.
Chương trình môn tiếng Việt ở tiểu học năm 2000 đặt mục tiêu “ hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng sử dụng tiếng Việt (đọc, nói, nghe, viết ) để học tập giao tiếp trong môi trường hoạt động của lứa tuổi”.
Xuất phát từ mục tiêu trên mà nội dung dạy tiếng Việt ở tiểu học đã chú trọng đến dạy phát triển lời nói cho học sinh thông qua nội dung dạy hội thoại. Lần đầu tiên, chương trình môn tiếng Việt ở tiểu học đưa hội thoại thành một nội dung học tập. Các chương trình này quy định các kĩ năng cần rèn luyện trong phần nội dung chương trình và mức độ cần đạt được trong phần chuẩn kiến thức và kĩ năng.
Mặc dù hội thoại đã được đưa thành một nội dung học tập trong chương trình môn Tiếng Việt ở tiểu học, nhưng để hiểu rõ hơn về hội thoại và thực hiện giảng dạy các bài học có nội dung hội thoại còn là một khó khăn đối với giáo viên. Qua thực tế giảng dạy và học hỏi kinh nghiệm, tôi chọn nghiên cứu và tìm hiểu về đề tài: “Dạy hội thoại trong môn Tiếng Việt lớp 4 ở tiểu học”.
II. Mục đích nghiên cứu:
Nghiên cứu đề tài nhằm:
1.Tìm hiểu nội dung dạy hội thoại và việc dạy hội thoại trong môn tiếng Việt ở Tiểu học.
2. Đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy nội dung hội thoại ở tiểu học.
	III. Nhiệm vụ nghiên cứu:
1/ T×m hiÓu nội dung dạy hội thoại trong môn tiếng Việt lớp4
 	2/ T×m hiÓu thùc tr¹ng dạy hội thoại trong m«n tiếng Việt líp 4 ë Tr­êng TiÓu häc C¸t Linh.
3/ T×m hiÓu nguyªn nh©n cña thùc tr¹ng.
 	4/ §Ò xuÊt mét sè gi¶i ph¸p nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy nội dung hội thoại trong môn tiếng Việt.
	IV. Phương pháp nghiên cứu:
1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
2. Phương pháp điều tra.
3. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
PhÇn II: Néi dung vµ kÕt qu¶ nghiªn cøu
Ch­¬ng I: C¬ së lÝ luËn cña ®Ò tµi
I. Hội thoại:
1.“ Hội thoại là hoạt động giao tiếp bằng lời ở dạng nói giữa các nhân vật giao tiếp nhằm trao đổi các nội dung miêu tả và liên các nhân theo đích được đặt ra”.
( Đỗ Hữu Châu - Bùi Minh Toán. Đại cương ngôn ngữ học, tập 1. NXB Giáo dục - Hà Nội ).
“ Hội thoại là cuộc giao tiếp bằng lời (ở dạng nói hay dạng viết ) tối thiểu giữa hai nhân vật về một vấn đề nhằm đạt đích đã đặt ra”.
( Nguyễn Trí. Một số vấn đề dạy hội thoại cho học sinh tiểu học. NXB Giáo dục 2008 )
Ví dụ: Đoạn truyện sau trong câu chuyện “ Chuỗi ngọc Lam” ( tiếng Việt 5, tập 1) là một cuộc hội thoại:
Chiều hôm ấy có một em gái nhỏ đứng áp trán vào tủ kính cửa hàng của Pi-e, nhìn từng đồ vật như muốn kiếm thứ gì. Bỗng em ngửng đầu lên:
Cháu có thể xem chuối ngọc lam này không ạ?
Pi-e lấy chuỗi ngọc, đưa cho cô bé. Cô bé thốt lên:
Đẹp quá! Xin chú gói lại cho cháu!
Pi-e ngạc nhiên:
- Ai sai cháu đi mua?
- Cháu mua tặng chị cháu nhân lễ Nô - en. Chị đã nuôi cháu từ khi mẹ cháu mất.
- Cháu có bao nhiêu tiền?
Cô bé mở khăn tay, đổ lên bàn một nắm xu:
Cháu đã đập con lợn đất đấy!
Pi-e trầm ngâm nhìn cô bé. Rồi vừa lúi húi gỡ mảnh giấy ghi giá tiền, anh vừa hỏi:
- Cháu tên gì?
- Cháu là Gioan
Anh đưa Gioan chuỗi ngọc gói trong bao lụa đỏ:
Đừng đánh rơi nhé!
Cô bé mỉm cười rạng rỡ, chạy vụt đi. Cô đâu biết chuỗi ngọc này Pi-e dành để tặng vợ chưa cưới của mình, nhưng rồi một tai nạn giao thông đã cướp mất người anh yêu quý.
Cuộc hội thoại này có những đặc điểm chính:
 	* Nhân vật tham gia hội thoại: Gioan (cô bé mồ côi, người mua hàng ) và Pi-e ( chủ cửa hàng, người bán hàng ).
* Nội dung chính của cuộc thoại: là cuộc trao đổi, thoả thuận xung quanh việc mua, bán chuỗi ngọc lam.
* Đích của cuộc hội thoại: Gioan muốn tìm mua một kỉ vật để tặng người chị nhân ngày lễ Nô-en. Pi-e muốn bán được hàng. Kết thúc cuộc thoại cả hai nhân vật đề đạt được đích đặt ra.
* Diễn biến cuộc thoại: Pi-e từ ngạc nhiên đã chuyển sang ưng thuận bán cho bé Gioan chuỗi ngọc lam với giá là tất cả số xu em có được do đập con lợn đất. còn Gioan ra về trong niềm sung sướng vì nhận được món quà lưu niệm để tặng chị.
	2. Hội thoại và độc thoại:
	Độc thoại là lời một người nói với một hay nhiều người nghe, không cần lời đáp lại.
Ví dụ: Lời của anh chiến sĩ nói với các em học sinh trong bài “Trung thu độc lập” ( tiếng Việt 4, tập 1)
	Độc thoại cũng có thể là lời một người tự nói với mình.
	Ví dụ: Thế Lữ đã mượn lời con hổ trong vườn bách thú tự nói với chính mình trong bài “Nhớ rừng”.
	Còn hội thoại là cuộc trò chuyện tối thiểu giữa hai người trong đó họ luân phiên đổi vai, lúc là người nói, lúc là người nghe, lúc người này nói thì người kia nghe và ngược lại.
	3.Phân loại hội thoại:
3.1. Phân loại theo số người tham gia:
Căn cứ vào số người tham gia hội thoại ta có:
Song thoại: cuộc hội thoại của hai người. VD: Cuộc hội thoại trong bài 
“ Chuỗi ngọc lam”.
Tam thoại: cuộc hội thoại có ba người tham gia
Đa thoại: cuộc hội thoại có nhiều người tham gia VD: cuộc hội thoại trong bài “ Ở lại với chiến khu” ( TV3, tập 2).
3.2.Phân loại theo cương vị và vai trò của người tham gia hội thoại:
Theo cương vị và vai trò cảu người tham gia hội thoại, người ta chia thành các cuộc hội thoại được điều khiển và không được điều khiển.
3.3.Phân loại theo hình thức của của cuộc hội thoại:
Gồm: cuộc hội thoại chính thức hay không chính thức, trang trọng hay bình thường, dân dã 
II. Bản chất của hội thoại:
Hội thoại vừa là một hiện tượng giao tiếp bằng ngôn ngữ vừa là một hiện tượng xã hội.
III. Các nhân tố giao tiếp và hội thoại:
1. Ngữ cảnh:
1.1. Nhân vật hội thoại: Là những người tham gia hội thoại.
Mối quan hệ giữa các nhân vật tham gia hội thoại có thể được biểu hiện qua sơ đồ sau:
1.2. Hiện thực bên ngoài hội thoại:
Gồm nhiều yếu tố tác động lẫn nhau, có thể sơ đồ hoá như sau:
 	2. Ngôn ngữ: 
Hội thoại là quá trình sử dụng ngôn ngữ làm công cụ giao lưu giữa người với người. Để có thể sử dụng ngôn ngữ đạt hiệu quả cao trong hội thoại, người tham gia hội thoại cần chú ý đến những vấn đề như: đặc điểm của ngôn ngữ nói, ngữ vực và ngôn ngữ cá nhân.
2.1. Đặc điểm của ngôn ngữ nói:
Ngôn ngữ có hai dạng là ngôn ngữ viết và ngôn ngữ nói. Hai dạng của ngôn ngữ có nhiều đặc điểm chung (cùng dung chung kho từ vựng, hệ thống các quy tắc ngữ pháp và phong cách, cùng chịu sự chi phối của các đặc điểm về truyền thống và văn hoá dân tộc), nhưng mỗi dạng ngôn ngữ lại có những đặc điểm riêng khác nhau. Ngôn ngữ nói có những đặc thù:
Có thể sử dụng tất cả các lớp từ trong vốn từ cảu một ngôn ngữ.
Thường sử dụng các cấu trúc ngư pháp đơn giản, giản lược kể cả các cách diễn đạt không theo quy tắc ngữ pháp chuẩn mực, nói tắt
Chú trọng sử dụng ngữ điệu đê diễn đạt một số nội dung thong tin và nội dung liên quan đến tình cảm, biểu đạt thái độ  của người nói.
Được sự phụ trợ rất có hiệu quả của các yếu tố phi ngôn ngữ của người tham gia hội thoại.
2.2. Ngữ vực:
Trong giao tiếp, có những chuẩn mực ngôn ngữ được cả xã hội hoặc cộng đồng thừa nhận; bên cạnh đó lại có các phương ngữ địa lí, các loại biệt ngữ xã hội
Còn căn cứ vào vách dùng có thể nói đến các ngữ vực khác nhau:
Ngữ vực quy thức: dùng để nói với những người quen biết ít hoặc chưa quen biết. VD: Lời nói của các em bé với cụ già ngồi tư lự ven đường trong câu chuyện Các em nhỏ và cụ già.
Ngữ vực thân tình: dung để giao tiếp giữa những người có quan hệ than thiết với nhau 
Ngữ vực quy nghi thức: dung để giao tiếp giữa những người tuy có biết nhau nhưng không than thiết.
2.3. Ngôn ngữ cá nhân:
Ngôn ngữ mỗi cá nhân dung khi giao tiếp, hội thoại đều có dấu ấn của ngôn ngữ chuẩn mực, của phương ngữ, của ngữ vực, thậm chí của cả biệt ngữ xã hội, đồng thời kèm theo là những sang tạo riêng của cá nhân.
IV. Cấu trúc của hội thoại:
Đơn vị cơ bản của hội thoại là cuộc thoại. Cuộc thoại lại được xem như sự hợp thành từ các đơn vị nhỏ hơn như đoạn thoại, cặp thoại, tham thoại, hành vi ngôn ngữ.
Ở tiểu học chỉ sử dụng các đơn vị: cuộc thoại, đoạn thoại và cặp thoại.
1.Cuộc thoại:
Là đơn vị lớn nhất của hội thoại, là sản phẩm của tình huống hội thoại. Cuộc thoại giải quyết vấn đề đặt ra trong tình huống hội thoại.
Các tiêu chí để nhận diện một cuộc thoại:
Nhân vật hội thoại.
Tính thống nhất về thời gian và địa điểm
Về đề tài diễn ngôn
Về ranh giới của cuộc thoại.
Mô hình điển hình của một cuộc thoại gồm 3 loại đoạn thoại: đoạn thoại mở đầu, các đoạn thoại phát triển nội dung hội thoại ( tham thoại) và đoạn thoại kết thúc. Tuy nhiên, những cuộc thoại không điển hìnhcó thể thiếu một loại đoạn thoại nào đó.
2. Đoạn thoại:
Được xây dựng trên cơ sở xác lập các cặp thoại liện kết chặt chẽ với nhau về nội dung (chủ đề) về tính duy nhất của đích. 
Đoạn thoại ngắn nhất chỉ gồm một cặp thoại, đoạn thoại lớn nhất không thể hạn định số cặp thoại.
3. Cặp thoại:
Một cặp thoại tối thiểu chỉ gồm một lời trao (lời dẫn nhập) và một lời đáp 
(lời hồi đáp) (Cặp thoại điển hình )
Ví dụ: 
Dắt xe ra cửa, tôi lễ phép thưa:
-Thưa ba, con xin phép đi học nhóm.
Ba tôi mỉm cười:
- Ờ, nhớ về sớm nghe con!
(Chị em tôi - Theo Liên Hương, TV4 tập 1- trang 59 )
Tuy nhiên, còn nhiều cặp thoại không điển hình. 
Ví dụ:
Bé Gioan nói: Cháu có thể xem chuỗi ngọc lam này được không ạ?
Pi-e lấy chuỗi ngọc đưa cho cô bé.
V. Các quy tắc hội thoại, thương lượng hội thoại:
1. Các quy tắc hội thoại:
1.1. Các quy tắc điều hành luân phiên lượt lời
1.2. Quy tắc chi phối cấu trúc hội thoại
1.3. Quy tắc điều hành nội dung hội thoại
1.4. Những quy tắc chi phối quan hệ lien cá nhân trong hội thoại - phép lịch sự
2. Thương lượng hội thoại:
2.1. Thương lượng hội thoại là quá trình các đối tượng tham gia qua trao đổi, bàn bạc, đi đến đồng thuận về các vấn đề cơ bản của cuộc hội thoại như thời gian, địa điểm, thành phần, đề tài, chủ đề..
2.2. Những người tham gia hội thoại có thể thương lượng về hình thức và cấu trúc của hội thoại, các yếu tố ngôn ngữ, nội dung và cách kết thúc hội thoại, lí lịch và vị thế giao tiếp của các đối tác..
2.3.Ví dụ:
Câu chuyện Bài văn bị điểm không
Ba đã bao giờ thấy một bài văn bị điểm không chưa, ba?
Tôi ngạc nhiên:
- Đề bài khó lắm sao?
- Không. Cô chỉ yêu cầu “ Tả bố em đang đọc báo”. Có đứa bạn con bảo ba nó không đọc báo, nhưng rồi nó bịa ra, cũng được 6 điểm.
Tôi thở dài:
- Còn đứa bị điểm không, nó tả thế nào?
- Nó không tả, không viết gì hết. Nó nộp giấy trắng cho cô. Hôm trả bài, cô giận lắm. Cô hỏi: “ Sao trò không chịu làm bài?” Nó cứ làm thinh. Mãi sau nó mới bảo: “ Thưa cô, con không có ba”. Nghe nó nói, cô con sứng người. Té ra, ba nó hi sinh từ khi nó mới sanh. Cô mới nhận lớp nên không biết, ba ạ. Cả lớp con ai cũng thấy buồn. Lúc ra về, có đứa bảo: “ Sao mày không tả ba của đứa khác?” Nó cúi đầu. hai giọt nước mắt chảy dài xuống má.
Chuyện về cậu học trò có bài văn bị điểm không đã để lại trong tôi một nỗi đau, nhưng cũng để lại một bài học về long trung thực.
( Theo Nguyễn Quang Sáng )
Trên đây là VD về thương lượng khi phát hiện ra sai lầm của đối tác tham gia hội thoại
VI. Các yếu tố kèm lời và phi lời:
Bên cạnh phương tiện chủ yếu để tham gia hội thoại là lời nói, con người còn có thể sử dụng các yếu tố kèm lời và phi lời.
Các yếu tố kèm lời:
Là các yếu tố gắn liền với lời nói, đi kèm cùng với lời nói như ngữ điệu, trọng âm, cường độ, độ dài, đỉnh giọng
Các yếu tố kèm lời có vai trò biểu nghĩa rất rõ, đặc biệt là biểu nghĩa ngữ dụng.
VD: Trong câu chuyện Người ăn xin, yếu tố kèm lời là yếu tố “ông nói bằng giọng khản đặc” 
2. Yếu tố phi lời: 
Là những yếu tố không thuộc lời nói nhưng diễn ra song song với lời nói, thường được dung trong hội thoại mặt đối mặt. Như: cử chỉ, vẻ mặt, ánh mắt, tư thế cơ thể, sự thay đổi khoảng cách không gian, sự tiếp xúc của cơ thể
Các yếu tố phi lời có thể cho người đối thoại nhiều thông tin quan trọng như giới tính, tuổi tác, thành phần xã hội .
Ch­¬ng II: C¬ së thùc tiÔn cña ®Ò tµi
I.Dạy hội thoại ở tiểu học để dạy giao tiếp bằng tiếng Việt: 
Chương trình môn Tiếng Việt ở tiểu học đầu thế kỉ XXI (chương trình năm 2001 và năm 2006) đều nhấn mạnh dạy tiếng Việt để giao tiếp và trong giao tiếp. 
Dạy tiếng Việt để giao tiếp liên quan đến việc xác định mục tiêu môn học. Chương trình đã đặt lên hàng đầu mục tiêu “ hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng sử dụng tiếng Việt (đọc, viết, nghe, nói) để học tập giao tiếp trong môi trường hoạt động của lứa tuổi”. Học và luyện tập các kĩ năng sử dụng tiếng Việt trở thành nội dung cốt lõi của môn Tiếng Việt. Dạy tiếng Việt trong giao tiếp liên quan đến phương pháp dạy học đặc thù của môn học. Mọi hoạt động học tập, luyện kĩ năng và kiến thức tiếng Việt phải được diễn ra trong môi trường giao tiếp.
II. Nội dung dạy hội thoại ở tiểu học:
Dạy hội thoại:
1.1.Dạy hội thoại là dạy hoat động nói năng:
Hoạt động trước tiên là dạy kĩ năng nghe và nói, trong đó chú trọng rèn cho học sinh năng lực nghe hiểu, năng lực nói liền mạch theo đề tài, chủ đề nhất định và đạt được đích giao tiếp. Quá trình rèn luyện năng lực nghe hiểu và nói liền mạch là quá trình tiếp nhận và sản sinh lời nói.
	Hoạt động nói năng là một loại hoạt động giao tiếp. Dạy hoạt động nói năng là rèn luyện các kĩ năng giao tiếp, rèn luyện các kĩ năng nói trong các tình huống giao tiếp cụ thể, phù hợp với các nhân tố giao tiếp, với các đề tà và chủ đề hội thoại và đạt được đích giao tiếp, hội thoại. 
1.2.Dạy hội thoại góp phần phát triển tri thức, nâng cao văn hoá ứng xử trong xã hội
Dạy hội thoại là dạy huy động vốn kiến thức đã có và xử lí các thông tin mới tiếp nhận trong hội thoại để tham gia hội thoại làm cho hiểu biết của con người trở nên phong phú, sắc sảo, mở rộng và nâng cao.
	Dạy hội thoại là dạy văn hoá ứng xử trong giao tiếp.
2. Nội dung dạy hội thoại trong chương trình tiếng Việt lớp 4:
Chương trình môn tiếng Việt ở tiểu học năm 2000 đặt mục tiêu “ hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng sử dụng tiếng Việt (đọc, nói, nghe, viết) để học tập giao tiếp trong môi trường hoạt động của lứa tuổi.
Xuất phát tự mục tiêu trên mà nội dung dạy tiếng Việt ở tiểu học đã chú trọng đến dạy phát triển lời nói cho học sinh thông qua nội dung dạy hội thoại. Lần đầu tiên, chương trình môn tiếng Việt ở tiểu học đưa hội thoại thành một nội dung học tập. Các chương trình này quy định các kĩ năng cần rèn luyện trong phần nội dung chương trình và mức độ cần đạt được trong phần chuẩn kiến thức và kĩ năng.
Chương trình tiếng Việt lớp 4 ở tiểu học ( ban hành năm 2006 ), hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức và kĩ nămg lớp 4 quy định các kiến thức và kĩ năng cần học và rèn luyện phục vụ cho dạy hội thoại như sau:
2.1. Nội dung chương trình:
2.1.1. Kiến thức tập làm văn:
- Kết cấu ba phần của bài văn kể chuyện và miêu tả (mở bài, than bài, kết bài). Lập dàn ý cho bài văn kể chuyện, miêu tả.
- Đoạn văn kể chuyện, miêu tả (tả đồ vật, cây cối, con vật).
- Bài văn kể chuyện, miêu tả (tả đồ vật, tả cây cối, tả con vật). Một số văn bản thông thường: đơn từ, tờ khai in sẵn.
- Một số quy tắc giao tiếp trong trao đổi, thảo luận: thư, đơn.
2.1.2. Kĩ năng:
a) Nghe:
* Nghe và kể lại câu chuyện có nội dung đơn giản, phù hợp với lứa tuổi. Nhận xét về nhân vật.
* Nghe - thuật lại bản tin. Nhận xét về một vài chi tiết trong bản tin.
* Nghe - viết chính tả một đoạn văn, đoạn thơ, bài thơ.
* Nghe - ghi lại một số thông tin của văn bản đã nghe.
b) Nói:
- Kể lại câu chuyện đã nghe, đã đọc; thuật lại sự việc đã chứng kiến hoặc tham gia. Kể chuyện bằng lời của nhân vật.
- Bày tỏ ý kiến khi trao đổi, thảo luận về vấn đề gẫn gũi. Đặt câu hỏi, trả lời câu hỏi làm rõ vấn đề trong thảo luận, trao đổi.
- Giới thiệu về con người, lịch sử, văn hoá của địa phương.
2.2. Chuẩn kiến thức và kĩ năng:
Chủ đề
Mức độ cần đạt
Nói:
Sử dụng nghi thức lời nói
Biết xưng hô, lựa chọn từ ngữ và cách diễn đạt lịch sự khi giao tiếp ở nàh, ở nơi công cộng.
Đặt và trả lời câu hỏi
Biết đặt và trả lời câu hỏi trong trao đổi, thảo luận về bài học hoặc một số vấn đề gẫn gũi.
Thuật việc, kể chuyện
Biết kể lại một câu chuyện đã nghe, đã đọc hay sự việc đã chứng kiến, tham gia. Biết thay đổi ngôi kể khi kể chuyện.
Phát biểu, thuyết trình
-Biết cách phát biểu ý kiến trong trao đổi, thảo luận về bài học hoặc về một số vấn đề gẫn gũi. 
- Biết giới thiệu ngắn gọn về lịch sử, về hoạt động, về nhân vật tiêu biểu ở địa phương.
III.Thực trạng của dạy hội thoại trong môn Tiếng Việt lớp 4 ở tiểu học:
Qua thực tế giảng dạy, trao đổi với các thầy cô giáo trong các buổi họp chuyên môn của trường, học hỏi kinh nghiệm các đồng nghiệp tôi nhận thấy hầu hết các giáo viên đều cho rằng nội dung dạy hội thoại trong môn Tiếng việt ở tiểu học nói chung và trong môn Tiếng Việt lớp 4 nói riêng là một nội dung mới, có tầm quan trọng trong việc dạy tiếng cho học sinh theo quan điểm giao tiếp. Tuy nhiên khi giảng dạy những nội dung này, nhất là những bài tập ở phân môn Tập làm văn, do đặc trưng của từng bài nên khi học học sinh còn gặp một số khó khăn trong việc tham gia vào bài học. Cụ thể sẽ nêu trong hệ thống bài tập dạy hội thoại cho học sinh. Những bài đầu tiên về hội thoại, sách giáo khoa có đưa ra mẫu trong các bài học là các đoạn hội thoại của các nhân vật, một số đoạn là lời của các con vật đã được nhân hoá. Ví dụ:
Bài “Dế Mèn bênh vực kẻ yếu”:
 Tôi đến gần, chị Nhà Trò vẫn khóc. Nức nở mãi, chị mới kể:
- Năm trước, gặp khi trời làm đói kém, mẹ em phải vay lương ăn của bạn nhện. Sau đấy, không may mẹ em mất đi, còn lại thui thủi có mình em. Mà em ốm yếu, kiếm bữa ăn cũng chẳng đủ. Bao năm nghèo túng vẫn hoàn nghèo túng. Mấy bận bọn nhện đã đánh em. Hôm nay bọn chúng chăng tơ ngang đường đe bắt em, vặt chân, vặt cánh ă n thị t em.
Tôi xoè hai càng ra, bảo Nhà Trò :
Em đừng sợ. Hãy trở về cùng với tôi đây. Đứa độc ác không thể cậy khoẻ ăn hiếp kẻ yếu.
(TV4, tập 1)
Đây là bài học có lồng các đoạn hội thoại để miêu tả lời nói, ý nghĩ hoặc hành động của nhân vật giúp học sinh bước đầu nhận ra các đoạn hội thoại nhằm định hướng cho học sinh về việc nhận diện, từ đó biết viết đoạn hội thoại trong phần tập làm văn (chuyển lời dẫn gián tiếp thành lời dẫn trực tiếp). Điều này có ưu điểm và hạn chế nhất định:
+ Ưu điểm: 
- Học sinh có thể dựa dễ dàng nhận diện đoạn thoại giữa các nhân vật, không cần sáng tạo. 
- Phát huy được khả năng giao tiếp cho học sinh.
+ Hạn chế:
- Chỉ nhận diện được theo khuôn mẫu.
- Do vốn kinh nghiệm, ngôn ngữ của các em còn hạn chế nên khi chuyển lời dẫn gián tiếp thành lời dẫn trực tiếp (tập viết lời trao và lời đáp) còn khá lúng túng. 
Đến những bài sau đó: Luyện 

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_day_hoi_thoai_trong_mon_tieng_viet_lop.doc