SKKN Một số biện pháp giáo dục về tài nguyên và môi trường biển, đảo cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi
Mỗi người dân Việt Nam đều biết đến câu thành ngữ “Rừng vàng biển bạc”. Câu nói của ông cha chỉ sự giàu có, trù phú và niềm tự hào của tất cả chúng ta đối với tài nguyên thiên nhiên đất nước. Thật tự hào biết bao khi nước ta có các vùng biển và thềm lục địa với diện tích khoảng 1 triệu km gần gấp 3 lần diện tích đất liền, có bờ biển dài 3260 km với hàng nghìn đảo lớn nhỏ đặc biệt có 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm án ngữ trên biển đông. Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, biển, đảo có vai trò, vị trí quan trọng, gắn bó mật thiết, ảnh hưởng to lớn và đã có những đóng góp quan trọng vào sự tăng trưởng kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường theo hướng phát triển bền vững của quốc gia. Tuy nhiên trong những năm gần đây vấn đề chủ quyền dân tộc và bảo vệ tài nguyên biển, hải đảo trở thành vấn đề mang tính thời sự quốc tế. Vì vậy, bảo vệ tài nguyên và môi trường biển, hải đảo có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Mọi người dân trong nước đều phải có trách nhiệm tham gia và bảo vệ tài nguyên và môi trường biển, hải đảo phù hợp với điều kiện và môi trường sống.
Trẻ mầm non là thời kỳ mà nhân cách bắt đầu hình thành và phát triển. Các nhà tâm lý học đã khẳng định“giai đoạn này trẻ phát triển rất nhanh cả về thể chất và trí tuệ, những thói quen, hành vi, tính cách của trẻ được hình thành sẽ là cơ sở, là tiền đề cho giai đoạn phát triển kế tiếp và mai sau”. Điều đó có nghĩa là nếu trẻ được trang bị đầy đủ hành trang về kiến thức, những kỹ năng bảo vệ tài nguyên và môi trường biển, hải đảo ở giai đoạn này thì trong tương lai trẻ sẽ là những chủ nhân của đất nước, là lực lượng hùng hậu trong mọi hoạt động tuyên truyền bảo vệ tài nguyên và môi trường biển, hải đảo. Việc đưa nội dung giáo dục về tài nguyên và môi trường biển, hải đảo vào cấp học mầm non có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sự phát triển và hình thành nhân cách của trẻ. Trẻ được làm quen, nhận biết về biển đảo Việt Nam trên cơ sở đó giáo dục trẻ tình yêu quê hương đất nước, niềm tự hào dân tộc và hình thành những thói quen, hành vi bảo vệ tài nguyên và môi trường biển, hải đảo.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lí do chọn đề tài. Mỗi người dân Việt Nam đều biết đến câu thành ngữ “Rừng vàng biển bạc”. Câu nói của ông cha chỉ sự giàu có, trù phú và niềm tự hào của tất cả chúng ta đối với tài nguyên thiên nhiên đất nước. Thật tự hào biết bao khi nước ta có các vùng biển và thềm lục địa với diện tích khoảng 1 triệu km gần gấp 3 lần diện tích đất liền, có bờ biển dài 3260 km với hàng nghìn đảo lớn nhỏ đặc biệt có 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm án ngữ trên biển đông. Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, biển, đảo có vai trò, vị trí quan trọng, gắn bó mật thiết, ảnh hưởng to lớn và đã có những đóng góp quan trọng vào sự tăng trưởng kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường theo hướng phát triển bền vững của quốc gia. Tuy nhiên trong những năm gần đây vấn đề chủ quyền dân tộc và bảo vệ tài nguyên biển, hải đảo trở thành vấn đề mang tính thời sự quốc tế. Vì vậy, bảo vệ tài nguyên và môi trường biển, hải đảo có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Mọi người dân trong nước đều phải có trách nhiệm tham gia và bảo vệ tài nguyên và môi trường biển, hải đảo phù hợp với điều kiện và môi trường sống. Trẻ mầm non là thời kỳ mà nhân cách bắt đầu hình thành và phát triển. Các nhà tâm lý học đã khẳng định“giai đoạn này trẻ phát triển rất nhanh cả về thể chất và trí tuệ, những thói quen, hành vi, tính cách của trẻ được hình thành sẽ là cơ sở, là tiền đề cho giai đoạn phát triển kế tiếp và mai sau”. Điều đó có nghĩa là nếu trẻ được trang bị đầy đủ hành trang về kiến thức, những kỹ năng bảo vệ tài nguyên và môi trường biển, hải đảo ở giai đoạn này thì trong tương lai trẻ sẽ là những chủ nhân của đất nước, là lực lượng hùng hậu trong mọi hoạt động tuyên truyền bảo vệ tài nguyên và môi trường biển, hải đảo. Việc đưa nội dung giáo dục về tài nguyên và môi trường biển, hải đảo vào cấp học mầm non có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sự phát triển và hình thành nhân cách của trẻ. Trẻ được làm quen, nhận biết về biển đảo Việt Nam trên cơ sở đó giáo dục trẻ tình yêu quê hương đất nước, niềm tự hào dân tộc và hình thành những thói quen, hành vi bảo vệ tài nguyên và môi trường biển, hải đảo. Thực tế cho thấy hiện nay ở trường mầm non việc giáo dục về tài nguyên và môi trường biển, hải đảo mới chỉ dừng lại ở một số tiết học hoặc hoạt động lồng ghép sơ bộ thông qua một số hoạt động giáo dục hoặc một số chủ đề. Giáo viên chưa thực sự quan tâm đến vấn đề này đồng thời chưa có nhiều kiến thức, kỹ năng và khéo léo trong việc lồng ghép thường xuyên vấn đề giáo dục về tài nguyên và môi trường biển, hải đảo vào các hoạt động giáo dục của các chủ đề cũng như hoạt động hàng ngày của trẻ. Do đó trẻ chưa có nhiều cơ hội được làm quen tìm hiểu về biển, hải đảo, ý thức, thói quen, hành vi bảo vệ môi trường chưa hình thành rõ nét, thường xuyên ở trẻ. Là một giáo viên mầm non tôi nhận thức sâu sắc và xác định rõ trách nhiệm của mình là “người thầy đầu tiên” người mang đến cho trẻ những kiến thức ban đầu về biển, đảo Việt Nam. Với nhiệm vụ trọng tâm là chăm sóc giáo dục trẻ chúng ta không chỉ cung cấp và truyền đạt kiến thức mà còn bồi dưỡng, hun đúc cho thế hệ sau tình yêu thắm thiết đối với những vùng biển đảo của tổ quốc. Bản thân tôi luôn băn khoăn, trăn trở và đặt câu hỏi mình cần phải làm gì và làm như thế nào để có thể giáo dục về tài nguyên và môi trường biển, hải đảo cho trẻ 5 – 6 tuổi đảm bảo tính khoa học, hợp lý và đạt hiệu quả cao nhất. Đứng trước thực tế của vấn đề với lòng đam mê, nhiệt huyết, yêu nghề, sự tìm tòi sáng tạo và thực tiễn giảng dạy tôi mạnh dạn đúc rút đề tài sáng kiến kinh nghiệm: “Một số biện pháp giáo dục về tài nguyên và môi trường biển, đảo cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi”. 2. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu và đề xuất một số biện pháp giáo dục về tài nguyên và môi trường biển, hải đảo cho trẻ Mẫu giáo 5 – 6 tuổi nhằm: - Bước đầu cho trẻ nhận biết một số vùng biển và hải đảo Việt Nam - Giúp trẻ nhận biết được vai trò của tài nguyên biển, hải đảo đối với đời sống con người, sự phát triển kinh tế, an ninh quốc phòng và những tác động của con người đối với tài nguyên biển, hải đảo. - Giáo dục trẻ tình yêu quê hương đất nước, từng bước hình thành cho trẻ thói quen, những hành vi văn minh và tham gia các hoạt động bảo vệ tài nguyên và môi trường biển, hải đảo. - Thông qua trẻ để tuyên truyền nội dung giáo dục về tài nguyên và môi trường biển, hải đảo đến các bậc phụ huynh. - Giúp cho đồng nghiệp và các bậc phụ huynh có thêm tài liệu và kinh nghiệm để giáo dục trẻ bảo vệ tài nguyên và môi trường biển, hải đảo đạt hiệu quả. 3. Đối tượng nghiên cứu - Nghiên cứu một số biện pháp giáo dục về tài nguyên và môi trường biển, hải đảo cho trẻ Mẫu giáo 5 – 6 tuổi 4. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện tốt nội dung, nhiệm vụ của đề tài tôi đã sử dụng các nhóm phương pháp nghiên cứu sau: - Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận: đọc và phân tích những vấn đề lý luận có liên quan đến đề tài thông qua các nguồn tư liệu từ sách báo và tài liệu Giáo dục Mầm non. - Nhóm phương pháp tìm hiểu thực tiễn: Tìm hiểu thực trạng của đề tài. + Phương pháp quan sát + Phương pháp đàm thoại + Phương pháp hướng dẫn thực hành, luyện tập. - Nhóm phương pháp hỗ trợ: Thống kê, xử lý số liệu. II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 1. Cơ sở lý luận Biển, hải đảo – một vấn đề mang tính thời sự quốc tế được các quốc gia có biển đặc biệt quan tâm trong đó có Việt Nam. Vấn đề chủ quyền biển đảo cũng như bảo vệ tài nguyên biển, hải đảo không còn là vấn đề của một quốc gia, một dân tộc mà là vấn đề chung của cộng đồng quốc tế. Trong những năm gần đây dư luận thế giới đặc biệt quan tâm đến vấn đề này bởi sự xuất hiện của các thế lực có tham vọng bá quyền và độc chiếm biển đông. Đồng thời vấn đề ô nhiễm, cạn kiệt tài nguyên biển, hải đảo đang ở mức báo động và Việt Nam là một trong những quốc gia đang đối mặt với các vấn đề đó. Trên thực tế từ nhiều năm nay chúng ta đã có những biện pháp bảo vệ tài nguyên và môi trường biển, hải đảo song kết quả còn nhiều hạn chế. Đã đến lúc chúng ta cần nhìn lại vấn đề bảo vệ tài nguyên biển, hải đảo một cách toàn diện, khoa học để từ đó định hướng thúc đẩy công tác giáo dục môi trường, đặc biệt là ý thức bảo vệ tài nguyên và môi trường biển, hải đảo một cách hệ thống, cơ bản và thiết thực đáp ứng những đòi hỏi hiện tại và đảm bảo sự phát triển bền vững của đất nước. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề chủ quyền đất nước, chủ quyền biển, đảo của Việt Nam cũng như vấn đề giáo dục về tài nguyên và môi trường biển, hải đảo năm 2010, Thủ tướng chính phủ đã ký quyết định số 373/QĐ-TTg về việc phê duyệt đề án “ Đẩy mạnh công tác tuyên truyền về quản lý, bảo vệ và phát triển bền vững biển và hải đảo Việt Nam”. Thực hiện quyết định số 373/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ Bộ trưởng Bộ giáo dục và đào tạo đã ban hành quyết định số 1461/QĐ-BGDDT về việc giao nhiệm vụ “Xây dựng và thực hiện đề án tăng cường công tác giáo dục về tài nguyên và môi trường biển, hải đảo vào chương trình học của các cấp học và các trình độ đào tạo trong hệ thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2010 – 2015”. Việc đưa nội dung giáo dục về tài nguyên và môi trường biển, hải đảo vào chương trình giáo dục cho trẻ 5 - 6 tuổi được xác định là nhiệm vụ trọng tâm của năm học 2012 – 2013 và những năm tiếp theo. Việc giáo dục về tài nguyên biển, hải đảo cho trẻ Mẫu giáo 5 – 6 tuổi có ý nghĩa quan trọng góp phần giáo dục trẻ tình yêu quê hương đất nước gắn liền với tình yêu biển, đảo quê hương. Hình thành ở trẻ thói quen, hành vi văn minh. Tuy nhiên việc giáo dục về tài nguyên biển, hải đảo cho trẻ Mẫu giáo 5 – 6 tuổi cần được tiến hành theo quan điểm tích hợp. Quan điểm tích hợp trong giáo dục mầm non được hiểu là một phương pháp liên kết, xâm nhập đan xen những quá trình sư phạm tạo thành một thể thống nhất tác động đến trẻ như một chỉnh thể toàn diện. Tùy theo từng chủ đề, điều kiện nhóm, lớp mà giáo viên tự lựa chọn nội dung giáo dục về tài nguyên và môi trường biển, hải đảo vào quá trình chăm sóc giáo dục trẻ cho phù hợp và đạt hiệu quả cao nhất. 2. Thực trạng của vấn đề Trường Mầm non Xuân Hòa có hơn 241 cháu được chia làm 9 nhóm lớp trong đó có 2 lớp Mẫu giáo lớn. Năm học 2015 – 2016 tôi được phân công là tổ trưởng chuyên môn và phụ trách lớp mẫu giáo 5 – 6 tuổi. Qua quá trình xây dựng và thực hiện kế hoạch giáo dục tôi nhận thấy hiệu quả của việc lồng ghép chuyên đề “giáo dục tài nguyên và môi trường biển hải đảo” vào các hoạt động giáo dục đạt hiệu quả chưa cao. Trên thực tế đa số trẻ vần chưa có hiểu biết về các vùng biển, đảo nổi tiếng, chưa nhận thức được ích lợi của tài nguyên biển, hải đảo đối với con người và lợi ích quốc gia và những hành vi, thái độ trong việc bảo vệ tài nguyên và môi trường biển, hải đảo đang mới dừng lại ở mức độ đơn giản. 2.1. Thuận lợi - Trường Mầm non Xuân Hòa là trường chuẩn quốc gia nên cơ sở vật chất tương đối đầy đủ, lớp học sạch sẽ, thoáng mát được nhà trường đầu tư một số trang thiết bị, dụng cụ phục vụ cho công tác dạy và học như Tivi, máy tính, bộ Đĩa DVD về các chủ đề, các chuyên đề. - Lớp Mẫu giáo A2 của tôi gồm có 30 cháu phát triển tốt và tương đối đồng đều về thể chất và trí tuệ. Lớp học luôn nhận được sự quan tâm ủng hộ của phụ huynh học sinh. Bên cạnh đó phụ huynh học sinh nhiệt tình tham gia các hoạt động của lớp học, tích cực trao đổi với giáo viên để thống nhất các biện pháp chăm sóc giáo dục trẻ nói chung và các biện pháp giáo dục về tài nguyên và môi trường biển hải đảo nói riêng. - Bản thân là một giáo viên trẻ, nhiệt tình, tâm huyết với nghề. Tích cực tham gia dạy mẫu chuyên đề, dự giờ đồng nghiệp để trau dồi kiến thức và kinh nghiệm chăm sóc giáo dục trẻ nhất là kinh nghiệm giáo dục về tài nguyên và môi trường biển hải đảo cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi. 2.2. Khó khăn - Đa số trẻ là con em nông thôn bố mẹ đi làm ăn xa ở nhà với ông bà nên một số phụ huynh chưa quan tâm đúng mức hoặc thiếu những hiểu biết về sự cần thiết của việc giáo dục tài nguyên và môi trường biển, hải đảo cho trẻ mẫu giáo 5 tuổi do đó chưa thực sự là tấm gương cho trẻ học tập trong việc bảo vệ môi trường. - Nhận thức của trẻ về kiến thức môi trường biển, hải đảo không có sự đồng đều, có những cháu khi cô truyền đạt thì nắm bắt rất nhanh nhưng có những cháu cô phải nhắc lại nhiều lần các cháu mới chú ý và tiếp thu. Trẻ chưa bao giờ được trải nghiệm mà chỉ thông qua tranh ảnh, ti vi - Về cơ sở vật chất: Đồ dùng đồ chơi chưa phong phú, đồng bộ, chưa đảm bảo tính thẫm mĩ và thể hiện nội dung về giáo dục tài nguyên và môi trường biển, hải đảo. Tài liệu tham khảo còn hạn chế. 2.3. Khảo sát thực trạng Qua khảo sát đầu năm trên trẻ về nhận thức và hành động đối với tài nguyên và môi trường biển, hải đảo, kết quả thu được cho thấy rất nhiều vấn đề đáng quan tâm: Tiêu chí đánh giá Tốt Khá Trung bình Yếu SL % SL % SL % SL % 1.Tiêu chí 1: Nhận biết các vùng biển, đảo nổi tiếng của đất nước thông qua tên gọi, vị trí địa lý và một vài đặc điểm nổi bật của một số bãi biển và đảo lớn ở Việt Nam. 2 6,6 4 13,3 6 20 18 60,1 2. Tiêu chí 2: Ích lợi của biển, đảo. 3 10 4 13,3 10 33,3 13 43,4 3. Tiêu chí 3: Một số nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường biển, hải đảo 3 10 5 16,6 9 30 13 43,4 4. Tiêu chí 4: Tham gia bảo vệ tài nguyên và môi trường biển, hải đảo. 4 13,3 5 16,6 10 33,3 11 36,8 3. Các biện pháp giáo dục về tài nguyên và môi trường biển, hải đảo cho trẻ Mẫu giáo 5 – 6 tuổi. 3.1. Biện pháp 1: Tự học để nâng cao hiểu biết về giáo dục tài nguyên và môi trường biển, hải đảo. Để có kiến thức về giáo dục tài nguyên và môi trường biển, hải đảo cho trẻ Mẫu giáo 5 – 6 tuổi tôi đã thực hiện các hoạt động sau: - Trước hết tôi tìm đọc các tài liệu trên sách "Tài liệu bồi dưỡng chuyên đề năm học 2012 - 2013", sách “Hướng dẫn tích hợp nội dung giáo dục về tài nguyên và môi trường biển, hải đảo”, tạp chí giáo dục mầm non cũng như tìm hiểu trên mạng Internet các thông tin về tài nguyên và môi trường biển, hải đảo. - Tham gia đầy đủ các buổi tập huấn chuyên đề “Giáo dục tài nguyên và môi trường biển, hải đảo” do phòng giáo dục tổ chức. Ghi chép đầy đủ các thông tin đồng thời tham gia dạy mẫu, dự giờ các tiết thực hành của các bạn đồng nghiệp điều này sẽ giúp tôi có thêm kiến thức, kinh nghiệm và những kỹ năng trong quá trình giáo dục tài nguyên và môi trường biển, hải đảo cho trẻ. - Thường xuyên theo dõi, cập nhật các thông tin thời sự về vấn đề biển, hải đảo đang diễn ra trong cuộc sống qua các phương tiện thông tin đại chúng đặc biệt là chương trình “Biển, đảo Việt Nam” được phát sóng trên đài tiếng nói Việt Nam vào lúc 5 giờ 20 phút mỗi sáng. 3.2. Biện pháp 2: Nắm vững nội dung giáo dục, các nguyên tắc khi xây dựng đảm bảo nội dung phù hợp với trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi. Chúng ta biết rằng giáo dục về tài nguyên biển, hải đảo cho trẻ không phải là một hoạt động chủ đạo trong chương trình giáo dục mầm non mà là một hoạt động tích hợp. Vì vậy đòi hỏi giáo viên phải linh hoạt, sáng tạo, khéo léo khi lựa chọn nội dung tích hợp. Để làm được điều này trước hết là một giáo viên chúng ta nắm vững nội dung và các nguyên tắc giáo dục về tài nguyên và môi trường biển, hải đảo cho trẻ. Tôi nhận thấy giáo dục tài nguyên và môi trường biển, hải đảo cho trẻ cần đảm bảo các nội dung và nguyên tắc như sau: 3.2.1 Nội dung giáo dục về tài nguyên và môi trường biển, hải đảo cho trẻ mẫu giáo 5 tuổi. - Nội dung 1: Nhận biết một số vùng biển và hải đảo Việt Nam. Dạy trẻ nhận biết một số vùng biển, đảo nổi tiếng của Việt Nam thông qua tên gọi, vị trí địa lí và một vài đặc điểm nổi bật của một số bãi biển nổi tiếng ở Việt Nam. Nội dung 2: Lợi ích của biển, hải đảo + Cung cấp thức ăn giàu dinh dưỡng cho con người như: cá thu, mực, tôm, cua + Cung cấp nguyên liệu để làm thuốc chữa bệnh cho con người như: rong biển, tảo.. + Biển, hải đảo là khu du lịch để tham quan, nghỉ ngơi, tắm mát. + Giao thông vận tải biển giúp cho mọi người và tàu thuyền đi lại dễ dàng, cảng biển là nơi bốc dỡ hàng hóa và nơi neo đậu của tàu thuyền khi có bão hoặc đi xa về. + Biển, hải đảo cung cấp nguồn năng lượng sạch như sức gió giúp tàu thuyền chạy trên biển. Thềm lục địa có các mỏ dầu có giá trị kinh tế cao. + Biển, hải đảo là nơi phát triển một số nghề như nghề nuôi tôm, cá, cua nghề đánh bắt thủy, hải sản, nghề chế biến nước mắm và các sản phẩm tôm, cá đông lạnh, nghề làm muối Nội dung 3: Một số nguyên nhân gây ô nhiễm/làm ảnh hưởng đến biển, hải đảo. + Do rác thải: Rác thải của các khu công nghiệp, rác thải sinh hoạt của người dân không được xử lý đổ thẳng ra biển, rác thải của mọi người đi du lịch + Do tràn dầu: Tàu bè đi lại trên biển làm tràn dầu hoặc những vụ chìm tàu do bão + Do chặt phá cây: Con người chặt phá cây trồng trên biển như phi lao + Do con người khai thác cạn kiệt tài nguyên biển: Đánh bắt thủy, hải sản có tính chất hủy diệt như dùng mìn, sung điện. Khai thác các loài rong, tảo biển quá mức làm cho một số loài thực vật biển có nguy cơ tuyệt chủng. 3.2.2. Các nguyên tắc khi xây dựng nội dung giáo dục và tích hợp nội dung giáo dục về tài nguyên và môi trường biển, hải đảo cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi. - Thứ nhất: Khi xây dựng nội dung giáo dục về tài nguyên và môi trường biển, hải đảo cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi cần đảm bảo các nguyên tắc sau: + Nguyên tắc 1: Đảm bảo tính mục tiêu. Nội dung giáo dục về tài nguyên và môi trường biển, hải đảo phải đảm bảo góp phần giáo dục trẻ tình yêu, lòng tự hào và ý thức bảo vệ, giữ gìn biển, đảo quê hương Việt Nam, hướng đến mục tiêu giáo dục mầm non, phát triển nhân cách toàn diện, hài hòa ở trẻ. + Nguyên tắc 2: Đảm bảo tính khoa học Nội dung giáo dục về tài nguyên và môi trường biển, hải đảo được xây dựng phù hợp với đặc điểm lứa tuổi, nhu cầu và kinh nghiệm của trẻ. Nội dung giáo dục về tài nguyên và môi trường biển, hải đảo được xây dựng theo hướng tích hợp nhẹ nhàng, hợp lí trong các chủ đề, các hoạt động không gây quá tải, nặng nề. + Nguyên tắc 3: Đảm bảo tính hệ thống. Nội dung giáo dục đảm bảo tính phát triển, mở rộng dần theo hướng đồng tâm phát triển từ gần đến xa, từ đơn giản đến phức tạp gắn với thực tế địa phương nơi trẻ sống. * Thứ hai: Khi tích hợp nội dung giáo dục về tài nguyên và môi trường biển, hải đảo vào chương trình giáo dục cho trẻ 5 tuổi cần đảm bảo các nguyên tắc sau: + Nguyên tắc 1: Nội dung giáo dục về tài nguyên và môi trường biển, hải đảo được tích hợp trong tất cả các lĩnh vực giáo dục: Giáo dục phát triển thể chất, Giáo dục phát triển nhận thức, Giáo dục phát triển ngôn ngữ, Giáo dục phát triển Tình cảm và kỹ năng xã hội. + Nguyên tắc 2: Nội dung giáo dục về tài nguyên và môi trường biển, hải đảo tích hợp vào các hoạt động phải từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp, phù hợp với đặc điểm lứa tuổi của trẻ. Các hoạt động phải gần gũi, không xa lạ, gắn với thực tế địa phương, đảm bảo tự nhiên, nhẹ nhàng +Nguyên tắc 3: Nội dung giáo dục về tài nguyên và môi trường biển, hải đảo có thể tích hợp trong cả một hoạt động hoặc trong một phần của hoạt động. 3.3. Biện pháp 3: Lựa chọn và tích hợp nội dung giáo dục về tài nguyên và môi trường biển, hải đảo vào một số chủ đề trong chương trình giáo dục trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi. Căn cứ vào các nguyên tắc khi tích hợp nội dung giáo dục về tài nguyên và môi trường biển, hải đảo cho trẻ tôi đã lựa chọn các nội dung tích hợp vào một số chủ đề như sau: CHỦ ĐỀ NỘI DUNG HOẠT ĐỘNG Chủ đề: Nghề Nghiệp * Trẻ nhận biết tên gọi, công cụ, công việc, sản phẩm và ý nghĩa của một số nghề: - Chú bộ đội hải quân. - KPKH: Bé yêu chú bộ đội hải quân + Trò chuyện với trẻ về chú bộ đội hải quân (tên gọi, trang phục, công việc, ý nghĩa) - Cho trẻ hát múa, đọc thơ, kể chuyện về chú bộ đội hải quân. VD Thơ: Chú hải quân, Bố là lính hải quân - Tạo hình: Vẽ, tô màu, cắt dán trang phục của chú bộ đội hải quân. - Nghề nuôi trồng và đánh bắt thủy, hải sản. - KPKH: Tìm hiểu về nghề nuôi trồng và đánh bắt thủy hải sản + Trò chuyện, cho trẻ xem tranh ảnh về công việc, sản phẩm ý nghĩa của nghề nuôi trồng và đánh bắt thủy hải sản. - Nghề chế biến hải sản thành nước mắm, tôm, cá đông lạnh - KPKH: Chế biến hải sản thành nước mắm, tôm, cá đông lạnh. + Trò chuyện, xem tranh ảnh, vi deo về quy trình làm nước mắm, chế biến tôm, cá đông lạnh. + Trò chơi: Xếp tranh quy trình chế biến nước mắm, tôm cá đông lạnh. - Nghề làm muối - KPKH: Bé yêu nghề làm muối. + Trò chuyện, xem tranh ảnh về công việc của người làm muối, quy trình sản xuất muối, ý nghĩa của muối đối với sức khỏe con người và phát triển kinh tế. + Trò chơi: Xếp tranh quy trình sản xuất muối + Thơ: Hạt muối. Biển và muối * Một số nguyên nhân gây ô nhiễm biển, hải đảo. - Do con người khai thác cạn kiệt tài nguyên biển. - Do rác thải từ hoạt động của các nghề đánh bắt và nuôi trồng thủy hải sản không được xử lý đổ ra biển * Quan tâm đến bảo về môi trường: Nhận xét và tỏ thái độ đối với hành vi “tốt” , “xấu”, “đúng”, “sai”. - Trò chơi: Gạch hành vi sai và tô màu hành vi đúng, Chọn hình ảnh đúng, sai về các hành động bảo vệ tài nguyên và môi trường biển hải đảo. - Trò chơi: Ai nhanh hơn Cách chơi: Trẻ sẽ giơ khuôn mặt cười hoặc mếu tương ứng với các hành động đúng và sai về bảo vệ tài nguyên và môi trường biển hải đảo. - Tạo hình: Vẽ tranh về ước mơ của bé. 2. Chủ đề: Thế giới thực vật * Tên gọi một số thực vật sống ở biển: Rong biển, tảo biển - KPKH: Du lịch dưới lòng đại dương. - Hoạt động tạo hình: Ghép hình các con vật ở biển bé thích bằng lá cây. + Tạo thảm cỏ, vườn hoa trên bờ biển * Ích lợi của thực vật biển - Cung cấp nguyên liệu để làm thuốc chữa bệnh cho con người. - Nghe kể chuyện, đọc thơ, hát các bài hát về các cây sống ở biển. VD: Thơ: Rong và cá - Xem phim tài liệu về thực vật sống dưới biển Ý thức giữ gìn bảo vệ môi trường biển đảo. - Trò chơi: Gạch hành vi sai và tô màu hành vi đúng, Chọn hình ảnh đúng, sai về các hành động bảo vệ tài nguyên và môi trường biển hải đảo. - Trò chơi: Ai nhanh hơn Cách chơi: Trẻ sẽ giơ khuôn mặt cười hoặc mếu tương ứng với các hành động đúng và sai về các hành vi giữ gìn biển, đảo trong lành, tạo
Tài liệu đính kèm:
- skkn_mot_so_bien_phap_giao_duc_ve_tai_nguyen_va_moi_truong_b.doc