SKKN Một số biện pháp giáo dục học sinh cá biệt ở trường thpt Triệu Sơn 5
Sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước đặt ra nhiều yêu cầu to lơn về nguồn lực con người – yếu tố cơ bản nhất. Bởi vậy phát triển toàn diện về trí tuệ, đạo đức, sức khỏe, thẩm mĩ cho con người Việt Nam và thế hệ trẻ nói riêng là trách nhiệm trước hết của ngành GD&ĐT. Trước tình hình đó, bản thân là một người chỉ đạo trực tiếp công tác nề nếp của nhà trường cần gắn trách nhiệm của mình nhiều hơn đối với học sinh. Trong khi ngày nay Nhà nước ta rất quan tâm và đầu tư cho giáo dục, bằng nhiều giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục. Trong toàn ngành giáo dục đang thực hiện cuộc vận phong trào thi đua “Mỗi thầy cô giáo là tấm gương đạo đức, tự học, sáng tạo”, phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện học sinh tích cực”.
Công tác giáo dục giáo dục học sinh cá biệt. Mỗi thầy cô giáo với tinh thần trách nhiệm và lương tâm nghề nghiệp của mình bằng mọi biện pháp giúp các em có được nhận thức đúng đắn trong lao động, học tập, phải uốn nắn các em từ người “xấu” trở thành người “tốt”. Nếu không sẽ làm hỏng cả một thế hệ của các em, đồng thời cũng là một gánh nặng cho gia đình và xã hội.
Với những lý do trên, bằng những kinh nghiệm tích lũy của bản thân, tôi viết sáng kiến kinh nghiệm với đề tài “ Một số biện pháp giáo dục học sinh cá biệt ở Trường THPT Triệu Sơn 5”, với đề tài này hy vọng ít nhiều sẽ góp phần thêm vào công tác giáo dục học sinh cá biệt. Để ngày càng lành mạnh và trong sạch hóa môi trường giáo dục trong quá trình xây dựng sự nghiệp giáo dục chung.
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ TRƯỜNG THPT TRIỆU SƠN 5 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÁO DỤC HỌC SINH CÁ BIỆT Ở TRƯỜNG THPT TRIỆU SƠN 5 Người thực hiện: Hồ Thanh Sơn Chức vụ: Phó Hiệu trưởng SKKN thuộc lĩnh mực : Quản lý THANH HOÁ NĂM 2017 MỤC LỤC Nội dung Trang 1. Mở đầu 1 1.1. Lí do chọn đề tài 1 1.2. Mục đích nghiên cứu 1 1.3. Đối tượng nghiên cứu 1 1.4. Phương pháp nghiên cứu 1 2. Nội dung 2 2.1. Cơ sở lí luận 2 2.2. Thực trạng 2 2.3. Một số biện pháp giáo dục học sinh cá biệt 4 2.3.1. Tiếp tục nâng cao vai trò lãnh đạo của Chi bộ Đảng. 4 2.3.2. Tăng cường vai trò lãnh đạo của cán bộ quản lý trong công tác giáo dục học sinh cá biệt. 4 2.3.3. Phát huy vai trò trách nhiệm của đội ngũ giáo viên chủ nhiệm và đội ngũ giáo viên bộ môn trong công tác giáo dục học sinh cá biệt. 5 2.3.4. Phát huy vai trò xung kích sáng tạo của Đoàn thanh niên tổ chức các hoạt động và duy trì kỷ cương nề nếp. 8 2.3.5. Kết hợp với gia đình cha mẹ học sinh cá biệt và chính quyền địa phương nơi học sinh cư trú. 10 2.4. Kết quả của giáo dục học sinh cá biệt. 10 3. Kết luận, kiến nghị 11 3.1. Kết luận 11 3.2. Kiến nghị 13 Tài liệu tham khảo 15 1. MỞ ĐẦU 1.1. Lí do chọn đề tài. Sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước đặt ra nhiều yêu cầu to lơn về nguồn lực con người – yếu tố cơ bản nhất. Bởi vậy phát triển toàn diện về trí tuệ, đạo đức, sức khỏe, thẩm mĩ cho con người Việt Nam và thế hệ trẻ nói riêng là trách nhiệm trước hết của ngành GD&ĐT. Trước tình hình đó, bản thân là một người chỉ đạo trực tiếp công tác nề nếp của nhà trường cần gắn trách nhiệm của mình nhiều hơn đối với học sinh. Trong khi ngày nay Nhà nước ta rất quan tâm và đầu tư cho giáo dục, bằng nhiều giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục. Trong toàn ngành giáo dục đang thực hiện cuộc vận phong trào thi đua “Mỗi thầy cô giáo là tấm gương đạo đức, tự học, sáng tạo”, phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện học sinh tích cực”. Công tác giáo dục giáo dục học sinh cá biệt. Mỗi thầy cô giáo với tinh thần trách nhiệm và lương tâm nghề nghiệp của mình bằng mọi biện pháp giúp các em có được nhận thức đúng đắn trong lao động, học tập, phải uốn nắn các em từ người “xấu” trở thành người “tốt”. Nếu không sẽ làm hỏng cả một thế hệ của các em, đồng thời cũng là một gánh nặng cho gia đình và xã hội. Với những lý do trên, bằng những kinh nghiệm tích lũy của bản thân, tôi viết sáng kiến kinh nghiệm với đề tài “ Một số biện pháp giáo dục học sinh cá biệt ở Trường THPT Triệu Sơn 5”, với đề tài này hy vọng ít nhiều sẽ góp phần thêm vào công tác giáo dục học sinh cá biệt. Để ngày càng lành mạnh và trong sạch hóa môi trường giáo dục trong quá trình xây dựng sự nghiệp giáo dục chung. 1.2. Mục đích nghiên cứu. Trên cơ sở nghiên cứu lí luận, khảo sát thực trạng quản lý GD học sinh cá biệt ở trường THPT Triệu Sơn 5 từ đó đề xuất một số biện pháp giáo dục học sinh cá biệt ở trường THPT Triệu Sơn 5 nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. 1.3. Đối tượng nghiên cứu. Học sinh trường THPT Triệu Sơn 5 1.4. Phương pháp nghiên cứu. - Phương pháp tổng kết các kinh nghiệm - Phương pháp quan sát: Thông qua các hoạt động của nhà trường, của tập thể lớp, các hoạt động ngoài giờ, mối quan hệ học sinh với nhà trường và cha mẹ học sinh nhằm tìm hiểu tâm lý, biểu hiện cách ứng xử của các em học sinh. - Phương pháp phỏng vấn, trò chuyện với hội cha mẹ học sinh, giáo viên, cán bộ đoàn thể để thu thập thông tin. 2. NỘI DUNG 2.1. Cơ sở lí luận. + Về tâm lí lứa tuổi: Theo tổ chức y tế thế giới độ tuổi vị thành niên là từ 10 – 19 tuổi, ở Việt nam độ tuổi này được quy định từ 10 tuổi đến dưới 18 tuổi. Như vậy học sinh THPT đang ở lứa tuổi vị thanh niên, ở giai đoạn này các em đang phát triển mạnh về thể chất và tâm lí. Đây là thời kỳ chuyển tiếp từ trẻ em sang người lớn, các em có xu hướng muốn khẳng định mình, các em cũng có ý thức vươn lên làm chủ bản thân. Đây cũng là thời kì các em thích tìm tòi khám phá những cái mới mẻ của cuộc sống nhưng ở lứa tuổi này mọi suy nghĩ của các em không phải lúc nào cũng chín chắn và các em có xu hướng muốn thoát ra khỏi sự kiểm soát của bố mẹ. + Về góc độ xã hội Ở lứa tuổi này, sự giao tiếp với bạn bè là nhu cầu rất lớn. Các em thích tụ tập thành từng nhóm có cùng sở thích để vui chơi đùa nghịch. Có lúc, có nơi các em có những hành vi không đúng, không phù hợp với lứa tuổi. Ở lứa tuổi này các em dễ bị lôi kéo, kích động, lòng kiên trì và khả năng tự kiềm chế còn yếu, tính cách chưa ổn định, dễ nổi cáu. Bản chất con người - học sinh là lương thiện, nhưng do nhiều yếu tố khác nhau đã làm ảnh hưởng đến đời sống, tâm lý của học sinh nên các em có những biểu hiện khác nhau như vậy. Ở lứa tuổi các em cần có sự hỗ trợ, tư vấn của người lớn hay nói cách khác các em cần có sự giáo dục và các em rất cần đến chúng ta, không việc gì phải bi quan về hiệu quả giáo dục của mình, muốn đạt được hiệu quả cao chúng ta cần có tâm huyết, năng động sáng tạo đồng thời có sự kiên trì, nhất định chúng ta sẽ thành công. 2.2. Thực trạng. Từ thực tiễn của nhà trường, hiện nay học sinh cá biệt, học sinh chưa ngoan không phải là phổ biến nhưng ở trường nào cũng chịu ảnh hưởng bởi đối tượng học sinh này đối với phong trào chung của lớp, chúng gây ảnh hưởng thường xuyên đến kết quả thi đua của bạn bè toàn lớp. Nhìn chung những biểu hiện của các em là chưa có sự kết hợp chặt chẽ giữa gia đình – nhà trường – xã hội. Bên cạnh còn có nhiều nguyên nhân khác gây ra: + Nguyên nhân từ phía gia đình Có nhiều bậc cha mẹ lo làm ăn, kinh doanh buôn bán chưa có sự quan tâm đến việc học tập, rèn luyện, tu dưỡng của con cái. Cá biệt có những gia đình thả nổi con cái, trông nhờ cả ở thầy cô và nhà trường. Một số gia đình nhận thức còn phiến diện, lệch lạc, thiếu kiến thức và phương pháp nuôi dạy con cái. Có cha mẹ không phải là tấm gương cho con cái, lời nói không đi đôi với việc làm, làm cho con cái mất niềm tin, mất phương hướng. Có những gia đình cha mẹ ly hôn, vi phạm pháp luật. + Nguyên nhân từ phía nhà trường Đây là ngôi nhà thứ hai của các em, nơi để phụ huynh gửi gắm niềm tin vào việc giáo dục con em của họ, từ đây các em được học tập, được hiểu biết, được lớn lên về mọi mặt. Nhưng để đạt được đúng như điều vừa nêu cũng không phải là dễ, trong thực tế còn có một và nhà trường chưa thực hiện được chức năng là ngôi nhà thứ hai của các em, bởi vẫn còn đâu đó có những thầy cô giáo chưa nhiệt tình, chưa thật sự yêu nghề, chưa tâm huyết với sự nghiệp giáo dục nên chưa nhiệt tình với các em, chưa thật sự là nơi đáng tin cậy, là nơi các em có thể gửi trọn niềm tin sẻ chia. Cũng có một vài thầy cô giáo do cách cư xử chưa phù hợp nên đâu đó còn có những hành động, lời nói xúc phạm đối với học sinh, đối xử thiếu công bằng với các em, ngại khó khi phải giáo dục những học sinh cá biệt đã làm mất đi lòng tin ở các em, tạo ra một khoảng cách không đáng có giữa thầy và trò và chính điều này đã dẫn đến biểu hiện chống đối lại từ phía học sinh + Nguyên nhân về phía môi trường xã hội: Ngoài môi trường gia đình và nhà trường ra, học sinh còn phụ thuộc rất lớn vào môi trường xã hội. Hiện nay do sự phát triển kinh tế - xã hội, sự phát triển của mạng lưới thông tin hiện đại, sự du nhập của nhiều loại hình văn hoá khác nhau đã ảnh hưởng không ít đến tầng lớp thanh thiếu niên. Các loại hình dịch vụ như Internet, bi da, caraoke... đã lôi kéo không ít học sinh vào đam mê những trò chơi vô bổ. Hiện tượng học sinh trốn học để chơi điện tử, bi da, đánh bạc... là chuyện thường ngày, có cả em hết tiền nảy sinh hành vi trộm cắp, cướp giật. + Nguyên nhân chủ quan về phía bản thân các em Do đặc điểm tâm sinh lý của học sinh, lứa tuổi mà nhiều người cho rằng "Ăn chưa no, lo chưa đến", suy nghĩ còn non nớt, nhận thức chưa cao chính vì thế các em có những hành vi thiếu chuẩn xác là điều không thể tránh khỏi. Những học sinh cá biệt ta thường gặp phần lớn là những em có năng lực học tập yếu kém, điều đó cũng hoàn toàn dễ hiểu bởi nhận thức của các em kém thì làm sao có hành động tốt được. Việc hạn chế trong tiếp thu kiến thức của các em cũng dẫn đến sự lười biếng, chán nản, muốn phá phách, nhất là đối với học sinh nam. Xét ở một khía cạnh khác thì cũng có thể các em vì tự ái về sự chê cười của thầy cô và bè bạn, các em muốn chứng minh cho mọi người thấy rằng mình học không tốt nhưng mình có thể nổi trội hơn về mặt khác, hoặc các em muốn thầy cô chú ý đến mình hơn chẳng hạn, chính vì thế mà các em có những hành động vượt ra khỏi những quy định chung. Từ việc nghiên cứu các đối tượng học sinh cá biệt và những nguyên nhân dẫn đến tình trạng học sinh không nghe lời thầy cô, bố mẹ, tôi đưa ra một số biện pháp để từng bước giáo dục các em. Sau đây là một vài kinh nghiệm của bản thân trong việc giáo dục học sinh cá biệt mà tôi muốn trao đổi cùng đồng nghiệp qua đề tài này: 2.3. Một số biện pháp giáo dục học sinh cá biệt. 2.3.1. Tiếp tục nâng cao vai trò lãnh đạo của Chi bộ Đảng. Điều 54, chương III, Luật giáo dục 2005 quy định: “Tổ chức Đảng CSVN trong nhà trường lãnh đạo nhà trường và hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và Pháp luật” [1] Trong nhà trường THPT, chi bộ là tổ chức cơ sở Đảng, là trung tâm chính trị tập hợp các lực lượng quần chúng nhằm thực hiện tốt các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Để nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng trong trường THPT, chi bộ phải có những phương thức chỉ đạo phù hợp với tình hình hiện nay và thực hiện cơ chế; “Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Chi bộ đưa ra những chủ trương giáo dục phù hợp, hiệu quả như: Tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng nhằm nâng cao nhận thức, phát huy tính dân chủ, tự giác, chủ động, sáng tạo của cán bộ, giáo viên, học sinh trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của mình. Nâng cao chất lượng sinh hoạt Chi bộ, xây dựng Chi bộ trong sạch vững mạnh, thực hiện nghiêm túc phê và tự phê, tăng cường tính thống nhất trong Đảng. Thường xuyên giáo dục, rèn luyện và quản lý cán bộ, giáo viên nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng, tính chiến đấu, trình độ năng lực công tác để làm gương giáo dục cho học sinh. Chi bộ có chủ trương chỉ đạo công tác giáo dục toàn diện, chú trọng giáo dục đạo đức. Phân công các Đảng viên tham gia vào từng hoạt động giáo dục một cách cụ thể. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát để có những điều chỉnh kịp thời trong công tác chỉ đạo giáo dục học sinh. 2.3.2. Tăng cường vai trò lãnh đạo của cán bộ quản lý trong công tác giáo dục học sinh cá biệt. Điều 16, chương I, Luật giáo dục 2005 quy định về vai trò và trách nhiệm của cán bộ quản lý giáo dục. “Cán bộ quản lý giáo dục giữ vai trò quan trọng trong việc tổ chức, quản lý, điều hành các hoạt động giáo dục. Cán bộ quản lý giáo dục phải không ngừng học tập, rèn luyện, nâng cao phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn, năng lực quản lý và trách nhiệm cá nhân” [1] Cán bộ quản lý phải nắng vững Luật giáo dục, Điều lệ trường THPT nắm vững các Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng và nhà nước về công tác giáo dục. Để lập kế hoạch năm học trong đó có kế hoạch quản lý giáo dục học sinh. Cán bộ quản lý phải ý thức sâu sắc: Hoạt động giáo dục học sinh trong nhà trường là bộ phận quan trọng trong toàn bộ hệ thống kế hoạch quản lý trường học. Kế hoạch phải đảm bảo tính thống nhất giữa mục tiêu giáo dục học sinh với mục tiêu giáo dục toàn diện, phối hợp chặt chẽ, hữu cơ với kế hoạch dạy và học, chọn lựa nội dung, hình thức hoạt động đa dạng, thiết thực, phù hợp hoạt động tâm sinh lý học sinh để có hiệu quả giáo dục cao, thành lập ban chỉ đạo đạo đức để chỉ đạo, theo dõi, giám sát, kiểm tra đánh giá. Cán bộ quản lý huy động các lực lượng; Công đoàn, Đoàn thành niên, giáo viên chủ nhiệm, hội đồng giáo dục, ban đại diện cho mẹ học sinh. Vào công tác giáo dục học sinh. 2.3.3. Phát huy vai trò trách nhiệm của đội ngũ giáo viên chủ nhiệm và đội ngũ giáo viên bộ môn trong công tác giáo dục học sinh cá biệt. Đội ngũ giáo viên chủ nhiệm: Là lực lượng nòng cốt trong công tác giáo dục học sinh. Giáo viên chủ nhiệm trực tiếp quản lý học sinh, gần gũi găn bó với lớp, với học sinh, nắm được tâm tư nguyện vọng và hoàn cảnh của các em, là người mà các em thấy thân thiết như người bạn lớn, người mẹ, người chị, người thân có thể thổ lộ giải bày, chia sẻ. Bởi vậy người cán bộ quản lý phải chỉ đạo giáo viên chủ nhiệm làm tốt các công việc như: nắm vững lý lịch, hoàn cảnh của từng học sinh để từ đó có kế hoạch, biện pháp giáo dục phù hợp, giúp các em rèn luyện, học tập và phấn đấu để đáp ứng yêu cầu của xã hội. Giáo viên chủ nhiệm phải tổ chức tốt các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp do nhà trường tổ chức. Giáo viên chủ nhiệm chỉ đạo, kiểm tra, đánh giá học sinh từng tuần, từng tháng để kịp thời điều chỉnh các biện pháo giáo dục phù hợp. Ngoài những thông tin mà giáo viên chủ nhiệm tìm hiểu về học sinh cá biệt, bên cạnh cần phải tìm hiểu mối quan hệ bè bạn của học sinh đó để biết những đối tượng mà học sinh này đang chơi chung họ như thế nào. Có thể giáo viên chủ nhiệm tìm hiểu thông qua lớp trưởng, các học sinh khác trong lớp, thông qua phiếu khảo sát. Có những học sinh ít giao tiếp với bạn bè chỉ thích chơi game mà học tập giảm sút, nên khuyến khích các học sinh khác trong lớp thường xuyên tiếp xúc để có biện pháp giúp đỡ bạn, giúp các em sống trong môi trường đoàn kết, gắn bó giúp đỡ lẫn nhau trong bất kỳ trường hợp nào. Giáo viên chủ nhiệm có thể giáo dục các em bằng cách nêu gương, điểm hình giúp các em tự nhận thấy những khuyết điểm của mình để từng bước sửa chữa. Giáo viên chủ nhiệm nên gặp riêng từng học sinh để trao đổi, giải thích cho các em hiểu những sai trái của mình để các em có hướng khắc phục, không nên làm các em cảm thấy mặc cảm trước lớp. Thường giáo viên chủ nhiệm không giao nhiệm vụ cho những học sinh cá biệt, vì cho rằng những học sinh này sẽ không làm được gì, coi thường các em mà chỉ luôn la rầy, nêu tên là chính. Điều đó không khéo dễ làm hỏng các em hơn. Cho nên đối với những đối tượng này, giáo viên chủ nhiệm nên tạo cho các em một cơ hội để các em thấy được vai trò của mình trong tập thể, đồng thời phát huy tính làm chủ của các em và nhận thấy rằng mình không bị lạc lỏng, không bị bỏ rơi. Như tham gia các hoạt động văn hóa văn nghệ, tham gia các trò chơi dân gian, các hoạt động thể thao, tham gia làm báo tường, cắm trại nhân các ngày lễ hội của trường tổ chứcKhi hoàn thành nhiệm vụ giáo viên chủ nhiệm phải đánh giá kết quả bằng cách nêu gương trước tập thể lớp Gặp riêng học sinh cá biệt bằng tình cảm chân thành của mình, Giáo viên chủ nhiệm bình tĩnh, nhẹ nhàng, tế nhị, phân tích có lý, có tình, mức độ nguy hại của khuyết điểm. Giáo viên thức tỉnh học sinh bằng những câu chuyện đạo đức để cảm phục học sinh. Giáo dục đạo đức là nền tảng để giáo dục tri thức, tài năng cho học sinh, nhất là những học sinh cá biệt. Tin tưởng giao công việc tập thể phù hợp với khả năng của học sinh cá biệt. Đây là việc làm mang tính 2 mặt, đòi hỏi giáo viên chủ nhiệm phải thường xuyên giám sát, kiểm tra và động viên kịp thời khi học sinh đạt được thành tích dù là nhỏ nhất. Tổ chức hoạt động tập thể, hoạt động nhân đạo để tạo điều kiện cho học sinh cá biệt, tham gia, xây dựng môi trường lành mạnh, tích cực, để các em có cơ hội tự thể hiện mình. Công tác này thực sự đặc biệt có ý nghĩa đối với học sinh trầm cảm, tự ti. Các em sẽ mạnh bạo, tích cực hơn trong học tập và rèn luyện. Cho các em tham gia và thực hiện tốt các chuyên đề ngoại khoá, rèn luyện kỹ năng sống để các em tiến bộ. Tổ chức cho tập thể lớp quan tâm tận tình giúp đỡ dưới mọi hình thức như: thăm hỏi, đôi bạn, nhóm bạn cùng tiến. Giáo viên chủ nhiệm có thể lấy tấm gương tốt trong tập thể, hoặc chính một học sinh cá biệt đã tiến bộ để cảm hoá học sinh cá biệt. Áp dụng quy định thưởng, phạt “phân minh, nghiêm túc, công bằng” để học sinh cá biệt có động lực mục tiêu phấn đấu. Thầy cô luôn là tấm gương về đạo đức, về lối sống, về trình độ chuyên môn. Đồng thời thầy cô chủ nhiệm phải luôn có tình cảm yêu thương, niềm tin động viên học sinh bởi “Chỉ có tấm lòng mới đánh thức được tấm lòng”. Giáo viên cần phải khéo léo, linh hoạt, trong mỗi trường hợp cụ thể, biết tập hợp và sử dụng sức mạnh của các yếu tố giáo dục nhằm rèn luyện cho học sinh cá biệt. Giáo viên chủ nhiệm cần tuyệt đối tránh tư tưởng định kiến cách cư xử thiếu sư phạm đối với học sinh. Giáo viên chủ nhiệm công tác chặt chẽ với cha mẹ học sinh, chủ động phối hớp với các giáo viên dạy bộ môn, Đoàn thanh niên, các tổ chức xã hội có liên quan trong hoạt động giảng dạy và giáo dục học sinh, Nhận xét, đánh giá và xếp loại học sinh, xây dựng tập thể lớp thành một tập thể phát triển toàn diện, tự quản để trở thành phương tiện giáo dục học sinh. Giáo viên chủ nhiệm giáo dục cho các em động cơ học tập đúng đắn , chăm chỉ, say mê học tập, biết trân trọng những kiến thức được tiếp thu, không ỉ lại, có nghị lực vượt qua mọi khó khăn, có thái độ trung thực trong học tập, giáo dục các em đức khiêm tốn, tinh thần tập thể, tình đoàn kết thương yêu, giúp đỡ trong học tập và trong cuộc sống. Giáo viên chủ nhiệm phải vận dụng nhiều biện pháp tâm lý để tạo cho các em một niềm tin, một tinh thần phấn đấu. Đặc biệt rèn luyện cho học sinh đức kiên trì, tính tự giác, chủ động sáng tạo, khả năng vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn. Giáo dục cho các em quan điểm học tập tiến bộ và đúng đắn; học để biết, học để làm, học để làm người, học để chung sống cộng đồng. Đội ngũ giáo viên bộ môn: Điều 29 chương IV điều lệ trường phổ thông: “ Giữ gìn phẩm chất danh dự, uy tín của nhà giáo, gương mẫu trước học sinh, thương yêu tôn trọng học sinh đối xử công bằng với học sinh” và khẩu hiệu “ Mỗi thầy giáo, cô giáo là một tấm gương sáng cho học sinh noi theo”. [2] Thực hiện mục tiêu của giáo dục, phát triển toàn diện nhân cách của học sinh, những kỹ năng cơ bản cho các em. Vì vậy cán bộ quản lý phải xây dựng một tập thể sư phạm đoàn kết, nhất trí, chăm lo công tác bồi dưỡng thường xuyên về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và phẩm chất đạo đức để mỗi thây cô giáo là một tấm gương sáng cho học sinh noi theo. Thầy cô lấy cái tâm của nhà giáo làm gốc, lấy cái nhân của con người làm trọng. Mỗi giáo viên phải quán triệt nhiệm vụ giáo dục học sinh mà mục tiêu giáo dục đã đề ra để lồng ghép trong quá trình lên lớp và giảng dạy bộ môn của mình. Giáo viên bộ môn phải kết hợp chặt chẽ với giáo viên chủ nhiệm lớp để có nội dung phương pháp giảng dạy phù hợp, để cùng với giáo viên chủ nhiệm và các lực lượng khác nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh. 2.3.4. Phát huy vai trò xung kích sáng tạo của Đoàn thanh niên tổ chức các hoạt động và duy trì kỷ cương nề nếp. Điều 57, chương III, Luật giáo dục 2005 quy định: “ Đoàn thể, tổ chức xã hội trong nhà trường hoạt động theo quy định của pháp luật và có trách nhiệm góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục của luật này” [1] Trong công cuộc đổi mới đất nước, vai trò của Đoàn thanh niên vô cùng quan trọng. Trường THPT hầu hết là thanh niên, đoàn viên. Đây là lực lượng xung kích trong mọi hoạt động; “ Đâu cần thanh niên có, đâu khó có thanh niên”. Chính vì vậy việc giáo dục, bồi dưỡng, phát huy lý tưởng đạo đức các mạng cho học sinh thanh niên trong nhà trường thông qua các hoạt động của tổ chức đoàn là vô cùng quan trọng. Thực hiện Nghị quyết của chi bộ đầu năm và thường kỳ hàng tháng trong năm học – Nhà trường cần phối hợp tốt với Đoàn thanh niên để thực hiện giáo dục đạo đức học sinh có kết quả. Bởi qua các hoạt động của Đoàn thanh niên trong nhà trường là nơi để thanh niên học sinh trong trường có điều kiện để thực hiện và tự khẳng định mình – là nơi để thanh niên học sinh rèn luyện, tu dưỡng, phấn đấu vươn lên, thậm chí có thể vượt qua được những khó khăn thử thách đời thường trưởng thành về mọi mặt. Chi bộ Đảng – BGH và giáo viên chủ nhiệm cùng với Đoàn thanh niên xây dựng được nguồn cán bộ có phẩm chất đạo đức tốt, năng lực, nhiệt tình, năng động sáng tạo tham gia vào BCH Đoàn trường đặc biệt là Ban tài vụ Đoàn trường để đủ năng lực điều hành các hoạt động của Đoàn. Nhà trường tạo mọi điều kiện cả về tinh thần và kinh phí cho c
Tài liệu đính kèm:
- skkn_mot_so_bien_phap_giao_duc_hoc_sinh_ca_biet_o_truong_thp.doc