Sáng kiến kinh nghiệm Chi tiết nghệ thuật trong truyện ngắn tự sự

Sáng kiến kinh nghiệm Chi tiết nghệ thuật trong truyện ngắn tự sự

Chi tiết trong tác phẩm văn học

Chi tiết là một từ ngữ quen thuộc trong giao tiếp hàng ngày. Theo Từ điển Tiếng Việt (NXB Khoa học xã hội Hà Nội 1988) thì Chi tiết là: Phần rất nhỏ, điểm nhỏ trong nội dung sự việc hoặc hiện tượng (Ví dụ: Kể rành rọt từng chi tiết). Là thành phần riêng rẻ hoặc tổ hợp đơn giản nhất của chúng có thể tháo lắp được (Ví dụ: Chi tiết máy).

Như vậy trong đời sống hàng ngày từ “Chi tiết” được hiểu và dùng như là một thành tố, một bộ phận nhỏ của một sự việc, tổng thể. Chi tiết được hiểu như là một thành phần thuộc về cấu tạo.

Trong văn học, chi tiết theo định nghĩa của nhóm tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, 1997) là: Các tiểu tiết của tác phẩm mang sức chứa lớn về cảm xúc và tư tưởng và họ gọi chung là chi tiết nghệ thuật. Cũng theo nhóm tác giả này thì: Tuỳ theo sự thể hiện cụ thể, chi tiết nghệ thuật có khả năng thể hiện, giải thích, làm minh xác cấu tứ nghệ thuật của nhà văn, trở thành tiêu điểm, điểm hội tụ của tư tưởng tác giả trong tác phẩm. Chi tiết nghệ thuật gắn với “quan niệm nghệ thuật” về thế giới con người, với truyền thống văn hoá nghệ thuật nhất định. Chi tiết nghệ thuật là những yếu tố nhỏ lẻ của tác phẩm nhưng mang sức chứa lớn về cảm xúc và tư tưởng. Sức chinh phục của hình tượng nghệ thuật là ở sự truyền cảm thì góp phần quyết định tạo ra sức truyền cảm hấp dẫn, lôi cuốn người đọc là nhờ chi tiết. Tất nhiên không phải mọi chi tiết trong tác phẩm đều có vai trò, vị trí và giá trị như nhau. Có chi tiết chỉ đóng vai trò vật liệu xây dựng, làm tiền đề cho cốt truyện phát triển thuận lợi và hợp lý, nhưng cũng có không ít chi tiết thể hiện tập trung cho cấu tứ của tác giả

Chi tiết nghệ thuật trước hết mang bản chất sáng tạo của người nghệ sĩ, bản chất văn hóa của một cộng đồng. Chúng ta đều thấy chỉ qua một vài con chữ trong Truyện Kiều, như chữ “tót” (Ghế trên ngồi tót sỗ sàng), chữ “cò kè” (Cò kè bớt một thêm hai) mà thi hào Nguyễn Du đã lật tẩy cả một chân dung kẻ con buôn, vô học, thô lỗ của nhân vật Mã Giám Sinh, hay một chữ “lẻn” làm lộ ra một tính cách mờ ám, lén lút, tráo trở của Sở Khanh, hay hai chữ “mặt sắt” đã gọi ra một chân dung tính cách lạnh lùng, hiểm độc, tàn nhẫn của Hồ Tôn Hiến Các chữ “tót”, “cò kè”, “mặt sắt” được gọi là những chi tiết đắt giá làm nổi lên hồn cốt nhân vật.

Chi tiết hàm chứa nhiều nét nghĩa, nhiều giá trị được gọi là tín hiệu nghệ thuật. Đã gọi là tín hiệu thì luôn mang một mã, để giải mã thì phải nhờ đến cả một chiều sâu văn hóa. Ví dụ để hiểu bài thơ Mời trầu của Hồ Xuân Hương phải có vốn văn học dân gian nhất định: Quả cau nho nhỏ, miếng trầu hôi/ Này của Xuân Hương mới quệt rồi/ Có phải duyên nhau thì thắm lại/ Đừng xanh như lá, bạc như vôi. Để cắt nghĩa được văn bản người đọc buộc phải liên tưởng về câu chuyện cổ Trầu cau, lại phải đặt bài thơ vào quan niệm truyền thống phương Đông trong tình yêu hôn nhân: Cái duyên và màu sắc đỏ Như vậy nếu dịch bài thơ này sang một ngôn ngữ khác là cực khó, không muốn nói là không thể.

Chi tiết gắn với quan niệm nghệ thuật về con người và cuộc sống của nhà văn. Chỉ cần đọc một câu thơ Bố cu lổm ngổm bò trên bụng của “Bà Chúa thơ Nôm” cũng cho thấy cả một cái nhìn coi thường, khinh miệt giới đàn ông trong xã hội phong kiến hà khắc vốn luôn coi phụ nữ chỉ là đồ chơi. Động từ “lổm ngổm” thường để chỉ những con vật loài cua cáy, đặt trong văn cảnh bài thơ nó toát lên một tiếng cười mỉa: Tưởng cái anh đàn ông phải là “Làm trai cho đáng lên trai/ Xuống đông đông tĩnh, lên đoài đoài yên”, nhưng thực ra cũng chỉ là thứ cua cáy mà “bò” trên sự vĩ đại của người phụ nữ Chi tiết này còn cho thấy một sự nổi loạn, sự đối chọi với cả một ý thức hệ hẹp hòi, ích kỷ, phản nhân văn lỗi thời.

 

doc 23 trang cuonglanz2a 9481
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Chi tiết nghệ thuật trong truyện ngắn tự sự", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO LÀO CAI
***o0o***
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
CHI TIẾT NGHỆ THUẬT
TRONG TRUYỆN NGẮN TỰ SỰ
 - Họ và tên tác giả: Bùi Thị Thanh Hoa
 - Chức vụ: Giáo viên
 - Tổ chuyên môn: Ngữ văn
 - Đơn vị công tác: Trường THPT chuyên tỉnh Lào Cai
*******
LÀO CAI, THÁNG 04 NĂM 2015
MỤC LỤC
Trang
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1
1. Lí do chọn đề tài
1
2. Thực trạng vấn đề
1
3. Phạm vi đề tài
1
4. Cấu trúc bài viết
1
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
2
1. Cơ sở lý luận của vấn đề: Chi tiết nghệ thuật và việc khai thác chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm văn chương tự sự
2
1.1. Chi tiết trong tác phẩm văn học
2
1.2. Khai thác chi tiết trong truyện ngắn tự sự
4
1.3 Đặc điểm và vai trò của chi tiết trong tác phẩm tự sự
5
2. Thực trạng vấn đề: Khai thác chi tiết qua một số truyện ngắn tự sự trong chương trình Ngữ văn 12
8
2.1. Truyện “Vợ nhặt” (Kim Lân):
9
2.2. Truyện “Vợ chống A Phủ” (Tô Hoài):
11
2.3. Truyện “Rừng xà nu” (Nguyễn Trung Thành)
13
3. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề: Cách cảm nhận chi tiết trong tác phẩm tự sự. 
15
3. 1 Các bước cảm nhận chi tiết
15
3. 2 Cách làm bài văn cảm nhận chi tiết.
15
3.3. Hướng dẫn luyện tập một số đề văn
16
4. Hiệu quả của SKKN: Thống kê kết quả kiểm tra đánh giá chất lượng học sinh:
20
III. KẾT LUẬN
21
TÀI LIỆU THAM KHẢO
21
CHI TIẾT NGHỆ THUẬT 
TRONG TRUYỆN NGẮN TỰ SỰ
I. ĐẶT VẤN ĐỀ:
1. Lý do chọn vấn đề
 Đọc hiểu và cảm thụ được vẻ đẹp của tác phẩm văn học vốn không phải là một công việc mang tính khuôn mẫu, bởi mỗi văn bản có một chìa khóa riêng để giải mã chiều sâu cảm xúc và nội hàm giá trị nhân văn, nhân sinh của nó. Để làm được công việc mang tính thẩm mĩ này, cần căn cứ vào đặc trưng thể loại, khuynh hướng nghệ thuật của tác giả, giai đoạn văn học và quan trọng hơn hết là bản thân ngôn từ của tác phẩm văn chương. Với tác phẩm tự sự, ngôn từ tạo nên chi tiết, từ chi tiết mà cấu thành sự kiện, cảnh huống; kết nối sự kiện, cảnh huống thì tạo nên cốt truyện; từ chi tiết mà xây dựng chân dung nhân vật; từ chi tiết mà sắc thái thẩm mỹ độc đáo của mỗi thiên truyện được bộc lộ. Mỗi chi tiết như một tế bào cấu thành sự sống của tác phẩm văn chương. Theo các tác giả cuốn Lí luận văn học (NXB Giáo dục - 1997): yếu tố có ý nghĩa quan trọng bậc nhất của truyện ngắn là chi tiết có dung lượng lớn và hành văn mang ẩn ý. Nhiều khi, truyện ngắn sống được là nhờ vào những chi tiết hay, chi tiết phát sáng, chi tiết đắt giá. “Ở truyện ngắn, mỗi chi tiết đều có vị trí quan trọng như mỗi chữ trong bài thơ tứ tuyệt. Trong đó những chi tiết đóng vai trò đặc biệt như những nhãn tự trong thơ vậy”. (Nguyễn Đăng Mạnh – Trong cuộc tọa đàm về cuốn sách Chân dung và đối thoại của Trần Đăng Khoa báo Văn nghệ số 14, 4/1999)
Một thói quen của nhiều người viết khi tiếp cận văn bản tự sự là chỉ quan tâm đến cốt truyện, nhân vật, tình huống và những đề kiểm tra của học sinh cũng thường xoay quanh các vấn đề trên, đó đã là nguyên nhân làm cho bài viết của học sinh trở nên ít mới mẻ và sâu sắc. Trong khi đó các chi tiết trong mỗi tác phẩm mới thực sự là tế bào, là mạch máu tạo nên sức sống và vẻ đẹp của từng thiên truyện. Những bài viết biết khai thác chi tiết thường tạo nên những nét riêng, nét mới mẻ và cá tính vì trong mỗi chi tiết luôn chứa đựng những lớp trầm tích càng khai thác càng thấy giá trị.
2. Thực trạng vấn đề
Có nhiều công trình nghiên cứu đã đưa ra phương pháp tiếp cận tác phẩm đúng hướng, chú trọng chi tiết nghệ thuật như: Vấn đề giảng dạy tác phẩm văn học theo loại thể (Nhiều tác giả - NXB Giáo dục 1978), Những bài giảng văn ở Đại học (Lê Tri Viễn - NXB Giáo dục 1982), Giảng văn I. II (Nhiều tác giả - NXB ĐH & THCN 1982) v.v...Từ sau cải cách giáo dục, ngoài sách giáo khoa và sách tham khảo chính thức của Bộ Giáo dục (sách giáo viên) nhiều nhà nghiên cứu, phê bình văn học, nhiều nhà giáo đã tham gia viết các công trình nghiên cứu và phân tích về các tác phẩm văn học được giảng dạy trong Nhà trường. Các công trình này cũng đã giúp rất nhiều cho cả giáo viên và học sinh trong việc tìm hiểu, nhận thức và cảm thụ tác phẩm văn học. Nhưng cũng có nhiều bài viết khi nghị luận về một tác phẩm tự sự cụ thể chỉ giúp học sinh tiếp thu một cách
thụ động theo lối học vẹt, học theo, chưa nói có không ít bài viết chất lượng chưa cao còn nặng về diễn nôm hoặc tóm lược tác phẩm văn chương là chính.
3. Phạm vi vấn đề
Chuyên đề không đi sâu vào từng tác phẩm cụ thể mà chỉ đưa ra một số cách thức khai thác chi tiết của một số tác phẩm tự sự trong chương trình Ngữ văn, giúp cho đối tượng học sinh trong quá trình tiếp cận tác phẩm. 
4. Cấu trúc bài viết
Chuyên đề gồm 4 phần chính: Đặt vấn đề, Giải quyết vấn đề, Kết luận, Tài liệu tham khảo, phần Giải quyết vấn đề có cấu trúc 2 phần cụ thể như sau:
1. Chi tiết và việc khai thác chi tiết trong truyện ngắn tự sự
2. Hướng dẫn học sinh khai thác chi tiết qua một số truyện ngắn tự sự trong chương trình và một số đề luyện tập.
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Cơ sở lý luận của vấn đề: Chi tiết nghệ thuật và việc khai thác chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm văn chương tự sự
1.1. Chi tiết trong tác phẩm văn học
Chi tiết là một từ ngữ quen thuộc trong giao tiếp hàng ngày. Theo Từ điển Tiếng Việt (NXB Khoa học xã hội Hà Nội 1988) thì Chi tiết là: Phần rất nhỏ, điểm nhỏ trong nội dung sự việc hoặc hiện tượng (Ví dụ: Kể rành rọt từng chi tiết). Là thành phần riêng rẻ hoặc tổ hợp đơn giản nhất của chúng có thể tháo lắp được (Ví dụ: Chi tiết máy).
Như vậy trong đời sống hàng ngày từ “Chi tiết” được hiểu và dùng như là một thành tố, một bộ phận nhỏ của một sự việc, tổng thể. Chi tiết được hiểu như là một thành phần thuộc về cấu tạo.
Trong văn học, chi tiết theo định nghĩa của nhóm tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, 1997) là: Các tiểu tiết của tác phẩm mang sức chứa lớn về cảm xúc và tư tưởng và họ gọi chung là chi tiết nghệ thuật. Cũng theo nhóm tác giả này thì: Tuỳ theo sự thể hiện cụ thể, chi tiết nghệ thuật có khả năng thể hiện, giải thích, làm minh xác cấu tứ nghệ thuật của nhà văn, trở thành tiêu điểm, điểm hội tụ của tư tưởng tác giả trong tác phẩm. Chi tiết nghệ thuật gắn với “quan niệm nghệ thuật” về thế giới con người, với truyền thống văn hoá nghệ thuật nhất định. Chi tiết nghệ thuật là những yếu tố nhỏ lẻ của tác phẩm nhưng mang sức chứa lớn về cảm xúc và tư tưởng. Sức chinh phục của hình tượng nghệ thuật là ở sự truyền cảm thì góp phần quyết định tạo ra sức truyền cảm hấp dẫn, lôi cuốn người đọc là nhờ chi tiết. Tất nhiên không phải mọi chi tiết trong tác phẩm đều có vai trò, vị trí và giá trị như nhau. Có chi tiết chỉ đóng vai trò vật liệu xây dựng, làm tiền đề cho cốt truyện phát triển thuận lợi và hợp lý, nhưng cũng có không ít chi tiết thể hiện tập trung cho cấu tứ của tác giả
Chi tiết nghệ thuật trước hết mang bản chất sáng tạo của người nghệ sĩ, bản chất văn hóa của một cộng đồng. Chúng ta đều thấy chỉ qua một vài con chữ trong Truyện Kiều, như chữ “tót” (Ghế trên ngồi tót sỗ sàng), chữ “cò kè” (Cò kè bớt một thêm hai) mà thi hào Nguyễn Du đã lật tẩy cả một chân dung kẻ con buôn, vô học, thô lỗ của nhân vật Mã Giám Sinh, hay một chữ “lẻn” làm lộ ra một tính cách mờ ám, lén lút, tráo trở của Sở Khanh, hay hai chữ “mặt sắt” đã gọi ra một chân dung tính cách lạnh lùng, hiểm độc, tàn nhẫn của Hồ Tôn Hiến Các chữ “tót”, “cò kè”, “mặt sắt” được gọi là những chi tiết đắt giá làm nổi lên hồn cốt nhân vật.
Chi tiết hàm chứa nhiều nét nghĩa, nhiều giá trị được gọi là tín hiệu nghệ thuật. Đã gọi là tín hiệu thì luôn mang một mã, để giải mã thì phải nhờ đến cả một chiều sâu văn hóa. Ví dụ để hiểu bài thơ Mời trầu của Hồ Xuân Hương phải có vốn văn học dân gian nhất định: Quả cau nho nhỏ, miếng trầu hôi/ Này của Xuân Hương mới quệt rồi/ Có phải duyên nhau thì thắm lại/ Đừng xanh như lá, bạc như vôi. Để cắt nghĩa được văn bản người đọc buộc phải liên tưởng về câu chuyện cổ Trầu cau, lại phải đặt bài thơ vào quan niệm truyền thống phương Đông trong tình yêu hôn nhân: Cái duyên và màu sắc đỏ Như vậy nếu dịch bài thơ này sang một ngôn ngữ khác là cực khó, không muốn nói là không thể.
Chi tiết gắn với quan niệm nghệ thuật về con người và cuộc sống của nhà văn. Chỉ cần đọc một câu thơ Bố cu lổm ngổm bò trên bụng của “Bà Chúa thơ Nôm” cũng cho thấy cả một cái nhìn coi thường, khinh miệt giới đàn ông trong xã hội phong kiến hà khắc vốn luôn coi phụ nữ chỉ là đồ chơi. Động từ “lổm ngổm” thường để chỉ những con vật loài cua cáy, đặt trong văn cảnh bài thơ nó toát lên một tiếng cười mỉa: Tưởng cái anh đàn ông phải là “Làm trai cho đáng lên trai/ Xuống đông đông tĩnh, lên đoài đoài yên”, nhưng thực ra cũng chỉ là thứ cua cáy mà “bò” trên sự vĩ đại của người phụ nữ Chi tiết này còn cho thấy một sự nổi loạn, sự đối chọi với cả một ý thức hệ hẹp hòi, ích kỷ, phản nhân văn lỗi thời.
Hãy nhìn vào những so sánh của bài ca dao sau ta thấy người Việt xưa yêu quý cái đẹp lắm, nhất là cái đẹp thuộc về con người: Cổ tay em trắng như ngà/ Đôi mắt em sắc như là dao cau/ Miệng cười như thể hoa ngâu/ Cái khăn đội đầu như thể hoa sen. Và cái đẹp của người con gái xứ Kinh Bắc trong Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm không chỉ là cái đẹp trần thế mà còn là cái đẹp mang tầm vĩnh cửu của tạo hóa tỏa ánh sáng và sự sống xuống cõi trần gian: Những cô hàng xén răng đen/ Cười như mùa thu tỏa nắng.
Chi tiết đóng vai trò làm tiền đề cho sự phát triển của cốt truyện. Hẳn chúng ta không ai quên cái hình dáng “ngật ngưỡng” của nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nam Cao: “Hắn vừa đi vừa chửi, bao giờ cũng vậy, cứ rượu xong là hắn chửi. Bắt đầu hắn chửi trời”. Đây là chi tiết mở đầu tác phẩm, ngoài sự khơi gợi hấp dẫn lôi kéo bạn đọc, nó vừa có tác dụng gián tiếp giới thiệu thân thế, tiểu sử nhân vật vừa có chức năng mở ra một trường không - thời gian trong quá khứ rồi tiếp đến thì tương lai trong cuộc đời ngắn ngủi của Chí Phèo. Dưới góc độ xã hội học, cũng chi tiết này còn mở ra một ý nghĩa về thân phận con người trong xã hội cũ. Bản chất của xã hội là giao tiếp. Không có giao tiếp thì không có xã hội, mà xét đến cùng chửi nhau cũng là một cách giao tiếp, có điều là giao tiếp trong thế đối lập. Kênh giao tiếp sẽ bị đóng băng hoàn toàn khi cả hai bên không thèm để sức, có hơi và nhiệt tình để mà chửi nhau nữa. Thế cho nên khi Chí chửi cả làng Vũ Đại tức là Chí khát khao được giao tiếp với mọi người. Cả làng Vũ Đại không ai thèm “ra nhời” với Chí vì Chí không còn xứng đáng là người để họ chửi. Tức là dân làng Vũ Đại đã coi Chí ở một thế giới khác, thế giới của thân phận loài vật, có lẽ chính xác hơn là thân phận loài chó, mà bằng chứng là có chi tiết: “Thành thử chỉ có ba con chó dữ với một thằng say rượu”. Giả sử Chí Phèo không có chi tiết “bát cháo hành” thì truyện sẽ rất bình thường, nhưng nhờ có nó mà cốt truyện như đào sâu thêm vào cái bi kịch không được làm người của một kẻ khát khao lương thiện, nhờ đó ý nghĩa truyện nâng thêm một tầm cao.
Chi tiết thể hiện tập trung cho cấu tứ. Trường hợp này thường để nhà thơ cấu trúc tác phẩm và người bình thơ nương theo đó mà tìm ra tứ thơ. Xin ví dụ bằng bài thơ Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng (Tại lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng) của đại thi sĩ Lý Bạch:
Cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâu
Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu
Cô phàm viễn ảnh bích không tận
Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu
(Bạn từ lầu Hạc lên đường
Giữa mùa hoa khói, Châu Dương xuôi dòng.
Bóng buồm đã khuất bầu không
Trông theo chỉ thấy dòng sông bên trời
-Bản dịch của Ngô Tất Tố)
Hai câu đầu nói tới người đi (Mạnh Hạo Nhiên) với không gian chia ly: Tại lầu Hoàng Hạc, thời gian chia ly: Giữa mùa hoa khói. Nơi đến: Dương Châu. Như vậy Lý Bạch không tiễn bạn nơi quê nhà mà ở nơi đất khách: Lầu Hạc - một địa danh gắn liền với truyền thuyết vị tiên cưỡi hạc vàng bay đi. Dương Châu thời điểm bấy giờ là một thành phố nổi tiếng sầm uất nhất vùng Giang Nam mà Lý Bạch đã từng đến. Thế cho nên đằng sau những chi tiết địa danh này còn ẩn một lý do nào đó mà Lý Bạch không thể đi cùng bạn. Điều này cắt nghĩa hai câu sau với những chi tiết đặc sắc càng làm cho tứ thơ tiễn bạn thật nặng tình, chất chứa tâm trạng. Tình lồng trong cảnh: Chiếc buồm cô đơn cũng là người bạn cô đơn đang xa dần rồi mất hút vào màu xanh vô tận của sông nước bao la. Thuyền đi đã khuất bóng mà người đưa tiễn vẫn còn đứng trên lầu cao để trông theo. Chi tiết cô phàm (cánh buồm cô đơn) cho thấy nhà thơ không chỉ nhìn theo bằng mắt mà còn nhìn bằng cả tấm lòng.
Như vậy trong phép làm văn, sự dụng công hướng vào việc tìm ra chi tiết. Chi tiết càng có sức biểu hiện càng góp phần nâng cao giá trị tác phẩm. Không bao giờ có một tác phẩm hay mà chi tiết lại nhạt nhẽo, nông cạn, thiếu sức sống.
1.2. Khai thác chi tiết trong truyện ngắn tự sự
Chi tiết phong phú và đa dạng như thế khi phân tích tác phẩm văn học, tác phẩm tự sự, đặc biệt là truyện ngắn chúng ta cần phải cân nhắc cẩn thận trong việc lựa chọn chi tiết phù hợp. Trong bài viết này tôi quan tâm hơn về truyện ngắn vì kì thực trong chương trình Ngữ văn 12, các tác phẩm tự sự chủ yếu thuộc thể loại truyện ngắn. Và ở một phạm vi nhất định truyện ngắn có những điểm khác với các thể loại tự sự khác, nhất là tiểu thuyết. Thế nhưng, trong quá trình lựa chọn chi tiết để phân tích truyện ngắn nhiều người viết đã cho rằng các chi tiết tự sự (các tình tiết) là những bộ phận thuộc về kết cấu cốt truyện, thể hiện diễn biến của cốt truyện nên đã không chú ý.
Chúng ta đều biết truyện ngắn khác với tiểu thuyết không chỉ vì số lượng trang, chữ, dài ngắn mà còn chính là khác về nội dung, kết cấu cốt truyện. Tiểu thuyết (truyện dài) vừa dài và dày về số trang, số chữ mà còn miêu tả cuộc sống đầy đủ về không gian và thời gian (dung lượng). Tiểu thuyết phản ánh hiện thực cuộc sống theo một thời gian dài, xẩy ra ở nhiều nơi khác nhau với nhiều nhân vật, thể hiện nhiều vấn đề. Vì vậy cốt truyện cũng phức tạp, đan chéo, quyện lẫn vào nhau. Do đó, khi phân tích tiểu thuyết nhà nghiên cứu không thể nêu hết và phân tích hết được các chi tiết biểu hiện của tác phẩm. Ngược lại truyện ngắn là tác phẩm tự sự cỡ nhỏ, diễn tả một cái khoảnh khắc, chốc lát của cuộc sống vì vậy chi tiết phải cô đúc, ngôn ngữ mang nhiều ẩn ý, tạo ra cho tác phẩm những chiều sâu về nội dung và nghệ thuật cần phải tìm hiểu.
Nhiều nhà văn đã có những phát biểu cụ thể về truyện ngắn như nhà văn Vũ Thị Thường: “Viết truyện dài như làm một căn nhà đồ sộ, còn bắt tay viết truyện ngắn là nhận lấy việc chạm trổ một cái khay, một tấm tranh khắc gỗ. Ở truyện dài có thể có những chương “độn” nhưng ở truyện ngắn chỉ cần viết một nữa trang lỏng lẻo là truyện đổ liền. Những chi tiết hay đến mấy đi chăng nữa mà không phục vụ chủ đề, thì cũng trở nên vô ích” (Kinh nghiệm viết truyện ngắn - Vương Trí Nhàn - NXB Tác phẩm mới). Hoặc như ý kiến của cố nhà văn Nguyễn Công Hoan: “Truyện ngắn và truyện dài phải khác nhau ở tính chất. Truyện ngắn không phải là truyện mà là một vấn đề được xây dựng bằng chi tiết với sự bố trí chặt chẽ và bằng thái độ với cách đặt câu dùng tiếng có cân nhắc.
	Muốn truyện là truyện ngắn, chỉ nên lấy một ý chính làm chủ đề cho truyện. Những chi tiết trong truyện chỉ nên xoay quanh chủ đề ấy. Không có chi tiết thừa, rườm rà, miên man.
	Mỗi truyện cần có một ý, một ý thôi. Ý ấy là ý chính của chuyện nhưng thật ra đó là ý định của tác giả ... làm nổi được ý ấy cho độc giả hiểu thì truyện sẽ hay” (Kinh nghiệm viết truyện ngắn - Vương Trí Nhàn - NXB Tác phẩm mới).
Một số nhà văn như Tô Hoài, Bùi Hiển, Nguyễn Thành Long, Nguyễn Kiên, Nguyễn Quang Sáng, Đỗ Chu, Ma Văn Kháng v.v.. cũng đã có rất nhiều ý kiến xoay quanh đặc điểm về chuyện “bếp núc” của truyện ngắn. Nói chung theo ý họ có thể có nhiều tác phẩm viết chưa hay, nhưng truyện ngắn phải khác truyện dài, khác tiểu thuyết. Có thể lấy thêm một ý kiến nữa của nhà văn Ma Văn Kháng: “Theo tôi hiểu, một tác phẩm dưới mười ngàn chữ không nên ngổn ngang quá. Tôi thích những truyện tình, trọn vẹn ... Như người ta vẫn nói:toàn truyện phải là một cái vòng khép kín, không dài quá, không ngắn quá, không xô đẩy xộc xệch, thậm chí không thừa một chi tiết nào. Khi đã vào truyện cái xà tích của một cô gái hay một chút ánh trăng thượng tuần cũng phải có ý nghĩa, cái nọ nương tựa cái kia, chi tiết này soi rọi cho chi tiết khác” (Kinh nghiệm viết truyện ngắn - Vương Trí Nhàn - NXB Tác phẩm mới)
Nhiều nhà văn khác cũng đã có những nhận định tương tự như vậy. Nói chung, tất cả mọi người đều cho rằng truyện ngắn là một khối thống nhất, hoàn chỉnh, chặt chẽ từ nội dung, tư tưởng chủ đề đến hình thức diễn đạt, ở truyện ngắn không có một cái gì là thừa. Vì vậy, viết truyện ngắn là một điều vô cùng khó khăn. Nhà văn Nguyễn Ngọc đã từng so sánh việc viết truyện kí “Đất nước đứng lên” và truyện ngắn “ Rừng xà nu” của ông, ông tâm sự “Trước hết tôi nghĩ có lẽ ở thời “Đất nước đứng lên”, chắc tôi sẽ không thể viết được, viết nổi “Rừng xà nu”. Riêng tôi cảm thấy điều đó rất rõ”. (Nguyên Ngọc - Về một truyện ngắn - Rừng xà nu- Trích trong Để dạy tốt Văn học Việt Nam lớp 12 - NXB Giáo dục 1996) và ông đã giải thích lý do vì sao: Truyện ngắn tuy ngắn nhưng nhiều chi tiết, người viết phải biết rất nhiều, rất dài, phải có vốn sống, biết cách chọn tình huống, cách xử lý bố cục, cách dựng truyện, dựng người, cách nói, giọng nói, lời kể, lời văn v.v...Những khả năng đó thì thời viết “Đất nước đứng lên” ông chưa đủ độ chín.
Như vậy, khác với truyện dài, truyện ngắn tuy nhỏ bé hơn nhiều về số lượng trang, chữ, về đối tượng phản ánh (cái chốc lát, cái khoảnh khắc của cuộc sống, một ý tưởng v.v...) nhưng lại đòi hỏi, yêu cầu rất cao về nghệ thuật diễn đạt. Ở truyện ngắn dĩ nhiên là truyện ngắn hay - không có những yếu tố thừa. Cho nên khi phân tích truyện ngắn, chúng ta cần phải lựa chọn các chi tiết biểu hiện, là những chi tiết tiêu biểu quan trong để thể hiện đúng và đầy đủ giá trị nội dung và nghệ thuật tác phẩm. Bỏ qua hoặc quên đi một số chi tiết dù chỉ nhỏ bé nhưng lại có ý nghĩa quan trọng và sẽ làm hạn chế giá trị biểu hiện của tác phẩm.
1.3 Đặc điểm và vai trò của chi tiết trong tác phẩm tự sự.
1. 3. 1 Tính tạo hình của chi tiết nghệ thuật.
Hình tượng nghệ thuật cụ thể, gợi cảm, sống động nhờ các chi tiết về môi trường, phong cảnh chân dung, nội thất, cử chỉ, phản ứng nội tâm, hành vi lời nói.Trong tác phẩm tự sự chi tiết có khả năng gợi ra hình ảnh về sự vật, cảnh vật, con người đặc biệt là vai trò khắc hoạ tính cách nhân vật. Nhà văn sử dụng rất nhiều chi tiết- những nét cụ thể để miêu tả ngoại hình, nội tâm, hành động của nhân vật, cũng như cảnh vật, sự kiện có liên quan đến nhân vật đó. Đan dệt hàng loạt các chi tiết với nhau mới có được một bức tranh bằng ngôn ngữ có thể tạo nên một ấn tượng tương đối xác định về nhân vật. 
 Ví dụ:- Chi tiết đồ vật tàn trong “Hai đứa trẻ”- Thạch Lam hiện ra chân thực với chiếc chõng tre, cửa hàng tạp hoá “nhỏ xíu”, gánh hàng nước của mẹ con chị Tí, manh chiếu rách, chiếc thau sắt rúm ró, cây đàn bầu cũ kĩgóp phần làm nên bức tranh phố huyện nghèo nàn héo hắt tiêu điều mà trong đó cuộc sống của con người cứ lay lắt héo mòn từng ngày.
 - Trong truyện ngắn “Chí Phèo”-Nam Cao, nhân vật Chí được hiện ra sinh động với các chi tiết về ngoại hình ngôn ngữ và nội tâm.
 +Sự tha hoá của Chi được khắc hoạ bằng những chi tiết về ngoại hình và ngôn ngữ, hành động của nhân vật.
 +Sự thức tỉnh với chi tiết miêu tả nội tâm của Chí Phèo từ sau khi gặp Thị Nở. 
Không chỉ gợi ra hình ảnh về sự vật, khắc hoạ tính cách nhân vật mà chi tiết nghệ thuật còn có vai trò cá biệt hoá nhân vật. Nhờ những chi tiết đắt giá sắc nét được tạo nên bởi tài năng của nhà văn mà các nhân vật văn học trở thành những gương mặt “quen mà lạ”, “con người này” không hề trộn lẫn mặc dù xuất hiện giữa đám đông cùng loại. Đều là những người nông dân nhưng Chí Phèo khác hẳn với Tràng. Bá Kiến cũng rất khác với Nghị Quế mặc dù đều là điển hình cho bọn cường hào ác bá.
1.3.2- Chi tiết gắn với quan niệm nghệ thuật về con người.
Trong truyện cổ tích nhân vật được xây dựng theo kiểu chức năng theo hai tuyến thiện ác. Nhân vật không có tâm lí chỉ 

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_chi_tiet_nghe_thuat_trong_truyen_ngan.doc
  • docMẫu báo cáo tóm tắt hiệu quả sáng kiến.doc