SKKN Một số biện pháp chỉ đạo giáo viên dạy bồi dưỡng học sinh năng khiếu môn Toán về Tính diện tích, tính tổng độ dài hai cạnh đáy, tính chiều cao hình thang của học sinh lớp 5
Văn kiện Đại hội XII khẳng định, kế thừa quan điểm chỉ đạo của nhiệm kỳ trước, Đảng ta đưa ra đường lối đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực. Đồng thời, khẳng định: Giáo dục, đào tạo và khoa học, công nghệ là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục, đào tạo và khoa học, công nghệ là đầu tư cho phát triển. Phát triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, với tiến bộ khoa học, công nghệ, yêu cầu phát triển nguồn nhân lực và thị trường lao động. Chuyển mạnh quá trình giáo dục chủ yếu từ trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học; học đi đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn. Đây là tiêu điểm của sự phát triển, mang tính đột phá, khai mở con đường phát triển nguồn nhân lực Việt Nam trong thế kỷ XXI, khẳng định triết lý nhân sinh mới của nền giáo dục nước nhà “dạy người, dạy chữ, dạy nghề”.
Qua việc dự giờ giáo viên dạy những tiết về các yếu tố hình học, tôi thấy đa số giáo viên đã xác định được mục tiêu tiết học, cung cấp đúng, đủ nội dung mà sách giáo khoa cung cấp. Tuy nhiên cá biệt vẫn còn một số giáo viên khi hình thành kiến thức mới cho học sinh học thường chuyển tải rất khó hiểu. Sở dĩ như vậy là vì họ chưa nắm được cấu trúc chương trình, chưa xác định được mục tiêu của bài học đó trong toàn bộ mạch kiến thức về hình học. Đối với học sinh, đại đa số các em rất thích học phần hình học, các em chăm chú nghe giảng, say xưa trong các giờ thực hành, song việc tiếp thu của học sinh còn nhiều hạn chế. Thực tế cho thấy học sinh Tiểu học còn yếu trong việc giải các bài toán về hình học. Đặc biệt là những bài có nội dung khó liên quan đến các bài toán tính diện tích, tính tổng độ dài hai đáy, tính chiều cao của hình thang và ngay cả đối với học sinh năng khiếu môn Toán khi gặp những bài toán khó này cũng làm cho các em phải mất rất nhiều thời gian, công sức để tìm ra đáp số. Vậy tại sao học sinh thường lúng túng khi gặp các bài tập đó? Phải chăng những bài tập này là quá sức đối với học sinh? Không phải như vậy mà vì lứa tuổi học sinh Tiểu học trí tưởng tư¬ợng của các em còn hạn chế. Thêm vào đó lượng kiến thức mà sách giáo khoa cung cấp chưa nhiều nên phần nào đã hạn chế phư¬ơng pháp tính diện tích, tính tổng độ dài hai đáy, tính chiều cao của hình thang của các em.
MỤC LỤC Nội dung: Trang 1 Mở đầu: 1 1.1. Lí do chọ đề tài. 1 1.2. Mục đích nghiên cứu. 2 1.3. Đối tượng phạm vi nghiên cứu. 2 1.4. Phương pháp nghiên cứu. 2 1.5. Những điểm mới của sáng kiến 2 2. Nội dunh sáng kiến kinh nghiệm: 2 2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm. 2 2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm. 3 2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề. 6 2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường. 15 3. Kết luận, kiến nghị: 16 3.1. Kết luận. 16 3.2. Kiến nghị. 17 1. Mở đầu 1.1. Lí do chọn đề tài: Văn kiện Đại hội XII khẳng định, kế thừa quan điểm chỉ đạo của nhiệm kỳ trước, Đảng ta đưa ra đường lối đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực. Đồng thời, khẳng định: Giáo dục, đào tạo và khoa học, công nghệ là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục, đào tạo và khoa học, công nghệ là đầu tư cho phát triển. Phát triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, với tiến bộ khoa học, công nghệ, yêu cầu phát triển nguồn nhân lực và thị trường lao động. Chuyển mạnh quá trình giáo dục chủ yếu từ trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học; học đi đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn. Đây là tiêu điểm của sự phát triển, mang tính đột phá, khai mở con đường phát triển nguồn nhân lực Việt Nam trong thế kỷ XXI, khẳng định triết lý nhân sinh mới của nền giáo dục nước nhà “dạy người, dạy chữ, dạy nghề”. Qua việc dự giờ giáo viên dạy những tiết về các yếu tố hình học, tôi thấy đa số giáo viên đã xác định được mục tiêu tiết học, cung cấp đúng, đủ nội dung mà sách giáo khoa cung cấp. Tuy nhiên cá biệt vẫn còn một số giáo viên khi hình thành kiến thức mới cho học sinh học thường chuyển tải rất khó hiểu. Sở dĩ như vậy là vì họ chưa nắm được cấu trúc chương trình, chưa xác định được mục tiêu của bài học đó trong toàn bộ mạch kiến thức về hình học. Đối với học sinh, đại đa số các em rất thích học phần hình học, các em chăm chú nghe giảng, say xưa trong các giờ thực hành, song việc tiếp thu của học sinh còn nhiều hạn chế. Thực tế cho thấy học sinh Tiểu học còn yếu trong việc giải các bài toán về hình học. Đặc biệt là những bài có nội dung khó liên quan đến các bài toán tính diện tích, tính tổng độ dài hai đáy, tính chiều cao của hình thang và ngay cả đối với học sinh năng khiếu môn Toán khi gặp những bài toán khó này cũng làm cho các em phải mất rất nhiều thời gian, công sức để tìm ra đáp số. Vậy tại sao học sinh thường lúng túng khi gặp các bài tập đó? Phải chăng những bài tập này là quá sức đối với học sinh? Không phải như vậy mà vì lứa tuổi học sinh Tiểu học trí tưởng tượng của các em còn hạn chế. Thêm vào đó lượng kiến thức mà sách giáo khoa cung cấp chưa nhiều nên phần nào đã hạn chế phương pháp tính diện tích, tính tổng độ dài hai đáy, tính chiều cao của hình thang của các em. Trong quá trình chỉ đạo giáo viên dạy học sinh năng khiếu môn Toán, tôi đã được tham gia các buổi hội thảo về các chuyên đề bồi dưỡng giáo viên, học sinh năng khiếu do Sở giáo dục, Phòng giáo dục và nhà trường tổ chức tôi nhận thấy những bài tập về “Tính diện tích, tính tổng độ dài hai đáy, tính chiều cao của hình thang” rất lí thú, nó có sức lôi cuốn rất lớn kể cả đối với giáo viên. Mặc dù đó là những bài toán khó nhưng nếu chúng ta biết cách giải, biết vận dụng linh hoạt mối quan hệ giữa tính diện tích tam giác và tính diện tích hình thang thì việc giải các bài toán về tính diện tích hình thang sẻ dễ dàng hơn rất nhiều đối với các em chứ không phải là quá sức như chúng ta tưởng.Vậy làm sao để các em có thể vận dụng, giải các bài toán liên quan đến tính diện tích, tính tổng độ dài hai đáy, tính chiều cao của hình thang? Vấn đề này đã làm tôi suy nghĩ và trăn trở rất nhiều vì nó là động lực giúp tôi học hỏi, tìm tòi, nghiên cứu. Qua quá trình nghiên cứu và chỉ đạo giáo viên giảng dạy, tôi muốn chia sẻ với các bạn đồng nghiệp:“Một số biện pháp chỉ đạo giáo viên dạy bồi dưỡng học sinh năng khiếu môn Toán về Tính diện tích, tính tổng độ dài hai cạnh đáy, tính chiều cao hình thang của học sinh lớp 5”. Với sáng kiến này tôi chỉ đi sâu nghiên cứu một góc rất nhỏ của phần hình học. Mong rằng sẽ nhận được sự góp ý chân thành của các cấp quản lí và các bạn đồng nghiệp, để đề tài của tôi được hoàn chỉnh và áp dụng chỉ đạo chuyên môn trong giảng dạy. 1.2. Mục đích nghiên cứu. 1.2.1. Thực tế tôi chỉ đạo chuyên môn trong việc dạy và học có liên quan đến rèn kỹ năng luyện tập thực hành về tính diện tích, tính tổng độ dài hai cạnh đáy, tính chiều cao hình thang của học sinh lớp 5. Từ đó giáo viên giúp học sinh tìm ra các sai lầm thường gặp khi thực hiện tính diện tích, tính tổng độ dài hai cạnh đáy, tính chiều cao của hình thang. 1.2.2. Tìm ra một số biện pháp rèn kỹ năng luyện tập thực hành tính diện tích, tính tổng độ dài hai cạnh đáy, tính chiều cao của hình thang cho học sinh lớp 5. 1.2.3. Tìm hiểu thực trạng việc dạy và học, xác định một số khó khăn hạn chế trong quá trình dạy học . 1.2.4. Trau dồi thêm kiến thức cho giáo viên và làm tài liệu tham khảo cho đồng nghiệp. 1.3. Đối tượng phạm vi nghiên cứu. 1.3.1. Giáo viên, học sinh về việc dạy luyện tập thực hành về tính diện tích, tính tổng độ dài hai cạnh đáy, tính chiều cao của hình thang cho học sinh lớp 5. 1.3.2. Thời gian nghiên cứu: Năm học 2016 - 2017; 2017 - 2018. 1.4. Phương pháp nghiên cứu. 1.4.1. Phương pháp điều tra: Tìm hiểu thực trạng dạy và học phần tính diện tích hình thang. 1.4.2. Phương pháp thực nghiệm: Thực hành qua các tiết dạy học, tổ chức kiểm tra đánh giá và chấm chữa bài cho học sinh. 1.4.3. Tổng kết rút kinh nghiệm. 1.5. Những điểm mới của sáng kiến. 1.5.1. Nghiên cứu nội dung dạy học về tính diện tích, tính tổng độ dài hai cạnh đáy, tính chiều cao hình thang của học sinh lớp 5 qua sách giáo khoa, sách giáo viên, vở bài tập và các tài liệu tham khảo khác. 1.5.2. Phân tích đánh giá, làm rõ nguyên nhân học sinh thường mắc sai lầm trong việc vận dụng luyện tập thực hành tính diện tích, tính tổng độ dài hai cạnh đáy, tính chiều cao của hình thang. 1.5.3. Giáo viên định hướng học sinh tư duy, tưởng tượng vẽ hình, nhìn hình và biết vận dụng qui tắc, công thức cách tính diện tích, tính tổng độ dài hai cạnh đáy, tính chiều cao của hình thang. 2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm 2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm: Qua việc nghiên cứu chương trình sách giáo khoa môn Toán lớp 5 tôi thấy rằng chương 3 phần hình học nói chung, tính diện tích hình thang nói riêng về phần hình thang có 4 tiết. + Tiết 1: Hình thang (Trang 91). + Tiết 2: Diện tích hình thang (trang 93). + Tiết 3: Luyện tập (trang 94). + Tiết 4: Luyện tập chung (trang 95). + Toán bồi dưỡng học sinh lớp 5: (trang 39 đến trang 40) Tác giả Dương Quốc Ấn, Hoàn Thị Phước Hảo, Phan Thị Nghĩa. Học sinh lớp 5 ở lứa tuổi 10,11 tuổi các em còn ham chơi tư duy trừu tượng cụ thể phát triển ở giai đoạn chưa hoàn chỉnh; nhận thức của các em đã mang tính qui luật song khả năng tư duy, tưởng tượng của các em chưa cao. Trong khi đó “Tính diện tích, tính tổng độ dài hai đáy, tính chiều cao của hình thang’’ là khái niệm hoàn toàn mới vừa mang tính tư duy trừu tượng, tưởng tượng, suy luận logic đối với học sinh. Vì vậy đòi hỏi người giáo viên cần nhận thức rõ khái niệm, tính chất cơ bản, công thức tính diện tích, tổng độ dài hai đáy và chiều cao của hình thang. Vì vậy khi dạy tính diện tích, tính tổng độ dài hai cạnh đáy, chiều cao của hình thang. Giáo viên phải có biện pháp để giúp các em hiểu rõ khái niệm, tính chất cơ bản, qui tắc, công thức và vận dụng kỹ năng thực hành thành thạo. 2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm. 2.2.1. Thực tiễn dạy học “tính diện tích, tính tổng độ dài hai cạnh đáy, tính chiều cao của hình thang cho học sinh lớp 5”. Qua thực tế chỉ đạo giảng dạy ở lớp 5 cùng với việc dự giờ, trao đổi với đồng nghiệp và kiểm tra chất lượng lần 3 của nhà trường thì học sinh học xong nội dung phần tính diện tíc, tính tổng độ dài hai cạnh đáy, tính chiều cao của hình thang trường tôi trong năm học (2016 - 2017). Tôi nhận thấy rằng. Những sai lầm học sinh lớp 5 thường mắc phải trong quá trình luyện tập thực hành tính diện tích, tính tổng độ dài hai đáy, tính chiều cao của hình thang: Sau khi học về tính diện tích, tính cạnh đáy, tính chiều cao của hình tam giác. Sau đó chuyển sang học phần tính diện tích, tính tổng độ dài hai đáy, tính chiều cao của hình thang. Nên học sinh thường nhầm lẫn công thức tính diện tích, tính tổng độ dài hai đáy, tính chiều cao của hình thang với tính diện tích, tính cạnh đáy, tính chiều cao của hình tam giác. Ví dụ 1: Tính diện tích hình thang có: Độ dài hai đáy lần lượt là 0,7dm và 0,6dm ; chiều cao là 0,4dm. một số học sinh thường mắc sai lầm khi thực hành như sau: Diện tích của hình thang là. 0,7 0,4 : 2 = 0,14 dm2. Hoặc diện tích hình thang là. 0,60,4 : 2 = 0,12 dm2. *Nguyên nhân: Sai lầm như ví dụ trên do học sinh tính diện tích hình thang lấy cạnh đáy lớn nhân với chiều cao rồi chia cho 2; hoặc lấy cạnh đáy bé nhân với chiều cao rồi chia cho 2. Ví dụ 2: Tính tổng độ dài hai đáy: Diện tích hình thang là 42,6 m2, chiều cao của hình thang là 6dm. một số học sinh thường mắc sai lầm khi thực hành như sau: Tổng độ dài hai cạnh đáy của hình thang. 42,6 2 : 6 = 14,2 m. hoặc đổi 6dm = 0,6m. hoặc 42,60,6 : 2 = 12,78m * Nguyên nhân: Sai lầm như ví dụ 2 do học sinh không đổi cùng đơn vị đo là m. Sai lầm ở ví dụ 2 là học sinh đổi cùng đơn vị đo là 6dm = 0,6m khi vận dụng công thức lấy diện tích nhân với chiều cao rồi chia cho 2. Ví dụ 3: Một thửa ruộng hình thang có diện tích 361,8m2. Đáy lớn hơn đáy nhỏ 13,5m. Hãy tính chiều cao của hình thang. Biết rằng nếu tăng đáy lớn lên 5,6m thì diện tích thửa ruộng sẽ tăng thêm 33,6m2. Chiều cao của hình thang là: 361,8 2: 13,5 = 53,6m A B E D H C *Nguyên nhân: Sai lầm như ví dụ 3 do học sinh chưa tìm được tổng độ dài hai cạnh đáy. 2.2.2. Một số nguyên nhân sau. * Nguyên nhân từ phía giáo viên: Giáo viên dạy phần tính diện tích, tính tổng độ dài hai cạnh đáy, tính chiều cao hình thang chưa vận dụng được qui tắc, công thức tính diện tích, tính tổng độ dài hai cạnh đáy, tính chiều cao của hình thang. Giáo viên chưa chú ý rèn luyện cho học sinh cách vẽ hình, nhìn hình và xác định cạnh đáy lớn, cạnh đáy bé, chiều cao của hình thang. Giáo viên chưa có sự sáng tạo trong việc lựa chọn phương pháp và hình thức tổ chức dạy học. Một số giáo viên vẫn đề cao vai trò trung tâm của người thầy mà chưa thực sự chú trọng tới vai trò“Lấy học sinh làm trung tâm“. Mặt khác, khi soạn bài giáo viên chưa đi sâu xác định được kiến thức trọng tâm, kỹ năng vẽ hình, nhìn hình cho học sinh, chưa có sự mở rộng để nâng cao kiến thức cho học sinh mà chỉ bó hẹp trong phạm vi SGK và phụ thuộc vào sách giáo viên. Thậm chí khi gặp bài tập khó, giáo viên không hướng dẫn học sinh vẽ hình mà giải luôn. Chính vì thế mà kết quả dạy học chưa phát huy được tư duy sáng tạo cho học sinh năng khiếu, còn học sinh yếu thì không chủ động học tập, còn ỷ lại vào sự hướng dẫn của thầy cô. Giáo viên không khuyến khích, động viên học sinh trong cách vẽ hình, nhìn hình, vận dụng qui tắc, công thức tính diện tích, tính tổng độ dài hai cạnh đáy, tính chiều cao của hình thang mà chỉ quan tâm đến kết quả của bài toán. *Nguyên nhân từ phía học sinh: Khi làm bài chưa có sự độc lập, sáng tạo còn phụ thuộc vào bài làm mẫu của giáo viên một cách máy móc. Các em chưa quan tâm đến cách vẽ hình, nhìn hình, vận dụng qui tắc, công thức tính diện tích, tính tổng độ dài hai đáy, tính chiều cao của hình thang. Một số học sinh lĩnh hội kiến thức một cách thụ động không có kỹ năng vận dụng qui tắc, công thức tính diện tích, tổng độ dài hai đáy, tính chiều cao của hình thang. Do đặc điểm của lứa tuổi nên năng lực tư duy của các em chưa cao. Do đó khi gặp những bài toán hình học khó yêu cầu phải có sự tư duy, tưởng tượng vẽ hình, nhìn hình thì các em thường gặp khó khăn hầu như không biết vẽ hình, nhìn hình nên học sinh không làm được bài. Do đa phần học sinh vùng nông thôn sự quan tâm của gia đình đối với các em còn hạn chế, hầu như phó mặc lại cho thầy cô giáo. Vì vậy việc rèn luyện học tập cho các em còn gặp nhiều khó khăn. Trong quá trình chỉ đạo giáo viên bồi dưỡng học sinh năng khiếu, tôi thường ra các đề thi tổng hợp để rèn kĩ năng làm bài cho học sinh, đo độ kiến thức của các em và để kiểm tra cả phương pháp của giáo viên bồi dưỡng. Cấu trúc của đề kiểm tra đó bao giờ cũng có một bài tập hình học, và dạng bài liên quan đến tính diện tích, tính tổng độ dài hai cạnh đáy, tính chiều cao của hình thang thường hay được đề cập nhất. Để kiểm tra kĩ năng giải toán liên quan đến tính diện tích, tính tổng độ dài hai cạnh đáy, tính chiều cao của hình thang, trước khi bước vào ôn luyện phần hình học tôi thường xuyên ra một số bài kiểm tra khảo sát chất lượng cho học sinh vào cuối kì. Trong số các bài mà học sinh đã làm có 3 bài có bài toán về tính diện tích, tính tổng độ dài hai cạnh đáy, tính chiều cao của hình thang như sau: Ví dụ 1: Tính diện tích hình thang có độ dài hai đáy lần lượt là 0,7dm và 0,6dm ; chiều cao là 0,4dm. Ví dụ 2: Tính tổng độ dài hai đáy biết diện tích hình thang là 42,6 m2, chiều cao của hình thang là 6dm. Ví dụ 3: Một thửa ruộng hình thang có diện tích 361,8m2. Đáy lớn hơn đáy nhỏ 13,5m. Hãy tính chiều cao của hình thang. Biết rằng nếu tăng đáy lớn lên 5,6m thì diện tích thửa ruộng sẽ tăng thêm 33,6m2. A B E D H C Kết quả khảo sát 25 em học sinh năng khiếu môn toán như sau: Số HS làm đúng Số HS làm sai Số HS không làm Bài số 1 18 em 5 em 2 em Bài số 2 16 em 5 em 4 em Bài số 3 13 em 7 em 5 em Từ kết quả trên, tôi nhận thấy khả năng vận dụng qui tắc, công thức về tính diện tích, tổng độ dài hai cạnh đáy, tính chiều cao hình thang, học sinh còn nhiều hạn chế. Các em chưa thực sự yêu thích học hình, chưa biết cách vẽ hình, chưa có sự ham mê cần thiết. Trước thực trạng đó, tôi băn khoăn, suy nghĩ bằng cách nào đó tôi phải hướng dẫn chỉ đạo và đưa ra một số biện pháp giúp giáo viên xây dựng được phong trào học tập và yêu thích học môn toán nói chung phần hình học nói riêng, phải khơi dậy được lòng đam mê học hình cho từng học sinh. Khi đã yêu thích, các em sẽ học tự giác hơn, sẽ khám phá và tìm ra nhiều cách giải hay. Để có cách dạy phù hợp với học sinh, tôi đã yêu cầu giáo viên khối 5 thảo luận chương trình bồi dưỡng theo các chuyên đề. Trong chương trình đó, tôi đã hướng dẫn giải các bài toán khó theo từng chuyên đề. Sau đó tôi giúp giáo viên bồi dưỡng phân tích đề, nêu giả thiết, kết luận và biết được cách giải hay nhất, để tìm ra được cách dạy cho học sinh giải các bài toán liên quan đến tính diện tích, tính tổng độ dài hai cạnh đáy, tính chiều cao hình thang. Với cách dạy này, học sinh của trường tôi đã yêu thích học hình hơn, các em không còn lung túng khi thấy bài hình như trước nữa.Vậy tôi đã chỉ đạo giáo viên dạy các em giải các bài tập hình về tính diện tích, tính tổng độ dài hai cạnh đáy, tính chiều cao của hình thang. Sau đây tôi xin trình bày các giải pháp mà tôi đã chỉ đạo thực hiện. 2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề. Từ thực trạng trên, để có được kết quả như mong muốn tôi đã đưa ra các giải pháp sau: 2.3.1. Lập kế hoạch bồi dưỡng học sinh năng khiếu (xây dựng khung chương trình). 2.3.2. Kế hoạch chỉ đạo dạy bồi dưỡng học sinh năng khiếu. 2.3.3. Thực hiện chương trình (thời gian thực hiện chương trình). 2.3.4. Yêu cầu giáo viên bồi dưỡng theo các chuyên đề của trường. Nghiên cứu về nội dung chương trình mà học sinh đã được học. Trao đổi với đồng nghiệp để xây dựng chương trình dạy phù hợp. 2.3.5. Hệ thống lại những kiến thức cơ bản học sinh đã học trong SGK. 2.3.6. Cung cấp hệ thống lí thuyết nâng cao và bài tập thực hành. 2.3.7. Nghiên cứu ra đề thi để củng cố rèn luyện học tập cho học sinh. 2.3.8. Đánh giá nhận xét kết quả bồi dưỡng của giáo viên, học tập của học sinh. 2.3.9. Giúp giáo viên tự học tự bồi dưỡng để nâng cao chuyên môn nghiệp vụ. Để chỉ đạo giáo viên bồi dưỡng học sinh năng khiếu có hiệu quả phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố: đó là học sinh có thông minh, chăm chỉ không? Phụ huynh học sinh có nhiệt tình ủng hộ không?Những yếu tố quan trọng và quyết định đến chất lượng học sinh đó là giáo viên. Ngoài sự tâm huyết, lòng nhiệt tình thì giáo viên phải có phương pháp tốt, trình độ chuyên môn giỏi. Ý thức được điều này bản thân tôi đã lập kế hoạch, khung chương trình, thời gian thực hiện chương trình chỉ đạo cụ thể để giáo viên tự hoàn chỉnh kĩ năng giải toán của mình, để chuyển tải đến học sinh tốt hơn. Hằng ngày, ngoài công việc chuẩn bị cho những giờ lên lớp, giáo viên thường phải nghiên cứu, tự giải các bài tập trong chương trình bồi dưỡng học sinh năng khiếu ở các tài liệu tham khảo. Ngoài ra, tôi thường sưu tầm và giải đề thi giao lưu học sinh năng khiếu môn Toán của các tỉnh qua những số báo Toán tuổi thơ, tham khảo các đề thi trên mạng Internet, thư viện đề thi Violet Đặc biệt vào đầu năm học tôi đã tổ chức hội thảo chuyên đề cho giáo viên về phương pháp dạy bồi dưỡng học sinh năng khiếu môn Toán và Tiếng Việt của các lớp 4,5. Ngoài ra, tôi còn tổ chức cho giáo viên, học sinh thi giải toán, Tiếng Việt theo từng kỳ. Sau mỗi lần kiểm tra, bài kiểm tra của giáo viên cũng như của học sinh đều được đánh giá nhận xét. Kết quả đã từng bước được nâng lên. Song song với những việc làm trên, tôi tiến hành nghiên cứu chương trình học sinh đã được học, tham khảo ý kiến của những giáo viên đã từng dạy học sinh trong những năm trước, trên cơ sở đó tôi chỉ đạo giáo viên xây dựng kế hoạch bồi dưỡng học sinh năng khiếu môn toán nói chung và phần hình học nói riêng, trong đó là phần về tính diện tích, tính tổng độ dài hai cạnh đáy, tính chiều cao của hình thang. 2.3.10. Chỉ đạo giáo viên hệ thống cũng cố lại kiến thức cơ bản đã học. Mặc dù chỉ học trong 4 tiết học, lượng kiến thức về hình thang không nhiều nhưng đây lại là những kiến thức cơ bản. Những kiến thức này rất cần thiết đối với các em, bởi các em có vững kiến thức cơ bản thì mới có thể tiếp thu kiến thức nâng cao. Vậy những kiến thức đó là gì, sách giáo khoa đã cung cấp ở mức độ nào? a. Những kiến thức cần ghi nhớ. * Những kiến thức học sinh được học trong sách giáo khoa là: Bước 1: Nhận diện hình, xác định đường cao và cạnh đáy bé, cạnh đáy lớn, quy tắc, công thức tính. Bất kì biện pháp dạy học nào cũng phải dựa trên khái niệm, quy tắc, công thức. Giáo viên cần nắm chắc khái niệm, qui tắc, công thức tính diện tích, tính tổng độ dài hai cạnh đáy, tính chiều cao của hình thang. Trên cơ sở đó giáo viên yêu cầu nhận diện hình thang, đường cao cạnh đáy bé, cạnh đáy lớn. *Hình thang (Học sinh nhận diện hình, cạnh đáy lớn, cạnh đáy bé, cạnh bên và chiều cao hình thang). A B D C H Hình thang ABCD có: - Cạnh đáy AB và cạnh đá
Tài liệu đính kèm:
- skkn_mot_so_bien_phap_chi_dao_giao_vien_day_boi_duong_hoc_si.doc