SKKN Một số biện pháp chỉ đạo dạy học theo mô hình trường học mới Việt Nam (VNEN) nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện ở trường Tiểu học Đông Cương Thành phố Thanh Hóa

SKKN Một số biện pháp chỉ đạo dạy học theo mô hình trường học mới Việt Nam (VNEN) nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện ở trường Tiểu học Đông Cương Thành phố Thanh Hóa

 Giáo dục là nền tảng của xã hội, là cơ sở tiền đề để quyết định sự phồn vinh của đất nước. Giáo dục cung cấp những hiểu biết về kho tàng tri thức của nhân loại cho biết bao thế hệ, giúp cho các em những hiểu biết cơ bản cần thiết về khoa học và cuộc sống. Mặt khác, giáo dục còn góp phần hình thành và bồi dưỡng nhân cách tốt đẹp cho học sinh, đặc biệt là Giáo dục Tiểu học, đây là bậc học mang tính chất nền móng để các em học tiếp các bậc học cao hơn. Vậy để GD có hiệu quả và đạt chất lượng cao đòi hỏi chúng ta phải Đổi mới PPDH. Đổi mới phương pháp dạy học hiện nay không chỉ là phong trào mà còn là một yêu cầu bắt buộc với mọi giáo viên. Bộ GD&ĐT cũng đã đưa ra định hướng chỉ đạo, phát động và triển khai mạnh mẽ tại hầu khắp địa phương trên cả nước. Tuy nhiên, thực tế cho thấy giai đoạn hiện nay nhiều nhà trường, giáo viên đã đổi mới PPDH nhằm đem đến cho các em học sinh những giờ học thực sự bổ ích, lý thú.

 Dự án mô hình trường học mới (VNEN) đã được lựa chọn là Dự án về sư phạm với trọng tâm đổi mới phương pháp, tổ chức lớp học và đánh giá học sinh theo xu hướng của giáo dục hiện đại.

Mô hình VNEN là mô hình thực hiện đổi mới phương pháp dạy học theo nguyên tắc lấy học sinh làm trung tâm, giáo viên là người đóng vai trò tổ chức hoạt động, hướng dẫn các em hoạt động để thu nhận kiến thức. Giáo viên không trực tiếp cung cấp kiến thức có sẵn trong sách. Học sinh tự thảo luận theo nhóm, phân công nhiệm vụ cho nhau và khi gặp vấn đề khó không giải đáp được mới yêu cầu sự trợ giúp của giáo viên bằng thẻ cứu trợ.

 

doc 23 trang thuychi01 7270
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số biện pháp chỉ đạo dạy học theo mô hình trường học mới Việt Nam (VNEN) nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện ở trường Tiểu học Đông Cương Thành phố Thanh Hóa", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1.MỞ ĐẦU
1.1.Lí do chọn đề tài.
	Giáo dục là nền tảng của xã hội, là cơ sở tiền đề để quyết định sự phồn vinh của đất nước. Giáo dục cung cấp những hiểu biết về kho tàng tri thức của nhân loại cho biết bao thế hệ, giúp cho các em những hiểu biết cơ bản cần thiết về khoa học và cuộc sống. Mặt khác, giáo dục còn góp phần hình thành và bồi dưỡng nhân cách tốt đẹp cho học sinh, đặc biệt là Giáo dục Tiểu học, đây là bậc học mang tính chất nền móng để các em học tiếp các bậc học cao hơn. Vậy để GD có hiệu quả và đạt chất lượng cao đòi hỏi chúng ta phải Đổi mới PPDH. Đổi mới phương pháp dạy học hiện nay không chỉ là phong trào mà còn là một yêu cầu bắt buộc với mọi giáo viên. Bộ GD&ĐT cũng đã đưa ra định hướng chỉ đạo, phát động và triển khai mạnh mẽ tại hầu khắp địa phương trên cả nước. Tuy nhiên, thực tế cho thấy giai đoạn hiện nay nhiều nhà trường, giáo viên đã đổi mới PPDH nhằm đem đến cho các em học sinh những giờ học thực sự bổ ích, lý thú. 
	Dự án mô hình trường học mới (VNEN) đã được lựa chọn là Dự án về sư phạm với trọng tâm đổi mới phương pháp, tổ chức lớp học và đánh giá học sinh theo xu hướng của giáo dục hiện đại.
Mô hình VNEN là mô hình thực hiện đổi mới phương pháp dạy học theo nguyên tắc lấy học sinh làm trung tâm, giáo viên là người đóng vai trò tổ chức hoạt động, hướng dẫn các em hoạt động để thu nhận kiến thức. Giáo viên không trực tiếp cung cấp kiến thức có sẵn trong sách. Học sinh tự thảo luận theo nhóm, phân công nhiệm vụ cho nhau và khi gặp vấn đề khó không giải đáp được mới yêu cầu sự trợ giúp của giáo viên bằng thẻ cứu trợ. 
 Mô hình này vừa kế thừa những mặt tích cực của mô hình trường học truyền thống, vừa có sự đổi mới căn bản về mục tiêu đào tạo, tài liệu học tập, phương pháp dạy học, cách đánh giá, cách tổ chức quản lí lớp học, cơ sở vật chất phục vụ cho dạy học 
 Đặc biệt, ở mô hình này các em sẽ được học 2 buổi trên ngày và học theo một chương trình sách giáo khoa riêng (Tài liệu hướng dẫn học tập). Tài liệu hướng dẫn học tập (TLHDHT) được thiết kế theo kiểu 3 trong 1, nghĩa là TLHDHT dùng cho học sinh, giáo viên và phụ huynh. 
 Với nhiều ưu điểm nổi trội của chương trình, qua 5 năm thực hiện mô hình VNEN và đang triển khai ở năm học 2017- 2018. Đơn vị chúng tôi đã nhận được sự quan tâm sâu sắc của lãnh đạo ngành, lãnh đạo địa phương, sự ủng hộ nhiệt tình của phụ huynh học sinh. Đặc biệt là sự nhiệt huyết của Ban Giám hiệu và đội ngũ giáo viên trong nhà trường. Hầu hết giáo viên dạy VNEN đã thực hiện thành công việc chuyển đổi từ vai trò giảng giải, truyền thụ kiến thức sang tổ chức, hướng dẫn học sinh cách học, theo dõi kiểm soát học sinh tự học; đa số giáo viên VNEN đã tập trung vào nghiên cứu nội dung bài học, hoạt động học trong tài liệu hướng dẫn học để điều chỉnh, dự kiến tình huống sư phạm, chuẩn bị đồ dùng dạy học nhằm đạt được hiệu quả bài học cao nhất.
	Sau thời gian thực hiện và phát huy hiệu quả của Mô hình trường học mới tại đơn vị, bản thân đã mạnh dạn viết lại những kinh nghiệm đã được áp dụng để mong được chia sẻ cùng đồng nghiệp. Đồng thời với mong muốn làm thế nào để có thể duy trì và phát huy hiệu quả của mô hình trường học mới trong những năm học tới vì năm học 2017-2018 này là năm tiếp tục thực hiện thí điểm mô hình trường học mới (VNEN) tại Trường Tiểu học Đông Cương chúng tôi. Đó chính là lý do bản thân tiếp tục chọn đề tài:“Một số biện pháp chỉ đạo dạy học theo mô hình trường học mới Việt Nam (VNEN) nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện ở trường Tiểu học Đông Cương Thành phố Thanh Hóa". 
	1.2. Mục đích nghiên cứu
	Đây là mô hình thí điểm, mọi điều còn rất mới mẻ từ cách thức tổ chức đến thực hiện dạy và học. Phải thực hiện mô hình này thành công và được xã hội chấp nhận là mô hình dạy học tiên tiến nhất từ trước đến nay. Thay đổi cách làm, cách nghĩ của giáo viên, thay đổi cách học của học sinh, thay đổi cách nhìn nhận của cha mẹ học sinh. Phải thực sự đổi mới để người học thật sự là học, thật sự tìm tòi, khám phá để lĩnh hội tri thức một cách chủ động. 
 1.3. Đối tượng nghiên cứu
 	Nghiên cứu giải pháp và biện pháp chỉ đạo và tổ chức dạy và học mô hình trường học mới (VNEN) nhằm năng cao chất lượng dạy và học tại trường Tiểu học Đông Cương – Thành phố Thanh Hóa.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
Phương pháp quan sát.
Phương pháp khảo sát.
1.5. Những điểm mới của SKKN.
Dựa vào kết quả đạt được từ những giải pháp của SKKN đã đạt loai C cấp Tỉnh năm học 2015 - 2016, năm học 2017-2018, bản thân đã vận dụng và bổ sung thêm một số các giải pháp sau để chỉ đạo dạy học theo mô hình trường học mới Việt Nam (VNEN). Nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện ở trường Tiểu học Đông Cương Thành phố Thanh Hóa.
	- Nâng cao năng lực cho CBGV thông qua việc tổ chức các hoạt động tập thể.	- Nâng cao năng lực cho CBGV thông qua việc tăng cường CSVC, trang thiết bị phục vụ dạy và học, đưa UDCNTT vào dạy học một cách đồng bộ.
- Khuyến khích cách làm sáng tạo của giáo viên, động viên khen thưởng kịp thời.
	- Tăng cường sự tham gia của cộng đồng nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh theo mô hình trường học mới VNEN.
	2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
	2.1. Cơ sở lý luận của việc dạy học theo mô hình trường học mới (VNEN)
	Dự án Mô hình trường học mới tại Việt Nam (Dự án GPE-VNEN, Global Partnership for Education – Viet Nam Escuela Nueva) là một Dự án về sư phạm nhằm xây dựng và nhân rộng một kiểu mô hình nhà trường tiên tiến, hiện đại, phù hợp với mục tiêu phát triển và đặc điểm của giáo dục Việt Nam.
Mô hình trường học mới khởi nguồn từ Côlômbia từ những năm 1995-2000 để dạy học trong những lớp ghép ở vùng miền núi khó khăn, theo nguyên tắc lấy học sinh làm trung tâm. Từ năm 2012, Dự án Mô hình trường học mới đã triển khai áp dụng mô hình VNEN trong 5 năm học liên tiếp, gây dựng được niềm tin cho giáo viên, cha mẹ học sinh, đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam. 
So với mô hình truyền thống nặng về truyền thụ kiến thức có tính áp đặt, mô hình VNEN khắc phục được nhược điểm này, đảm bảo sự hài hòa giữa dạy chữ và dạy làm người. Có thể thấy sự khác biệt trên nhiều phương diện. Thứ nhất, tài liệu dạy và học trong mô hình VNEN không phải sách giáo khoa mà là tài liệu “hướng dẫn học” dùng chung cho giáo viên, học sinh và phụ huynh. Thứ hai, mô hình VNEN lấy “hoạt động học” làm trung tâm, giáo viên không giảng giải, không truyền thụ kiến thức một chiều cho cả lớp nghe, mà tập trung theo dõi, hướng dẫn học sinh tự học và hỗ trợ kịp thời từng nhóm học sinh khi gặp khó khăn. Thứ ba, tổ chức lớp học thay đổi căn bản, các em ngồi học theo nhóm, có nhóm trưởng luân phiên điều hành. Bên cạnh đó, mô hình này chú trọng hoạt động tự giáo dục của học sinh, bao gồm tự quản, tự học, tự đánh giá.
2.2. Thực trạng về việc dạy dạy học theo mô hình trường học mới VNEN ở trường Tiểu học Đông Cương – Thành phố Thanh Hóa.
	2.2.1.Vài nét khái quát về tình hình địa phương, tình hình nhà trường.
 a, Thuận lợi:
	 Trường tiểu học Đông Cương là trường nằm ở vùng ven về phía Bắc thành phố Thanh Hóa. Đông Cương là một phường có số dân đông với 1876 hộ dân và hơn 8365 khẩu. Người dân nơi đây sống chủ yếu bằng nghề nông chăn nuôi, trồng trọt và buôn bán nhỏ lẻ. Điều kiện kinh tế không đồng đều, tỉ lệ hộ đói nghèo chiếm tỷ lệ 2,8 %. Chính vì vậy, việc đầu tư cho con cái đi học còn nhiều hạn chế. Trong những năm gần đây, phần đông phụ huynh cũng đã dần nhận thức đúng đắn về công tác giáo dục và đã có ý thức quan tâm đến con em nhiều hơn. Mặt khác, được sự quan tâm của Đảng uỷ, chính quyền địa phương, của ngành Giáo dục; tranh thủ được sự hỗ trợ từ các chương trình dự án, nên CSVC trang thiết bị, khuôn viên nhà trường ngày càng xanh sạch, đẹp. Trường được công nhận là trường chuẩn Quốc gia mức độ 1 vào tháng 10 năm 2007 đây cũng là điều kiện thuận lợi để nhà trường thực hiện hoạt động chuyên môn cũng như các hoạt động giáo dục khác trong nhà trường.
	Tập thể cán bộ giáo viên có trình độ đạt chuẩn 100%, trên chuẩn 93%, có năng lực chuyên môn vững vàng, nhiệt tình, có tinh thần ham học hỏi, có chí phấn đấu, dễ tiếp cận với các PPDH mới, hiện đại. Có tinh thần trách nhiệm với học sinh, phụ huynh. Có đội ngũ giáo viên trẻ, cốt cán là những nòng cốt trong các hoạt động giảng dạy của trường. 
	b, Khó khăn: 
	Địa bàn quản lý học sinh của nhà trường rộng. Trường có 22 lớp, số học sinh/lớp đông vượt quá quy định (Trung bình 37 HS/lớp). CSVC còn thiếu các phòng học như: phòng đọc, phòng giáo dục nghệ thuật, phòng giáo dục âm nhạc, phòng đa năng... 
	 Sự quan tâm, chăm lo của 1 số bậc cha mẹ đối với việc học tập của con em mình chưa được đúng mức như: trang bị chưa đầy đủ các điều kiện, đồ dùng học tập cần thiết, phần nào đã ảnh hưởng đến chất lượng học tập của học sinh. 	 Về đội ngũ giáo viên, hiện tại nhà trường vẫn còn thiếu 03 giáo viên đặc thù (nhà trường phải tự hợp đồng), 
	Một bộ phận nhỏ GV năng lực còn hạn chế, thích kê bàn ghế và dạy theo chương trình đại trà, một số giáo viên mới chuyển công tác về trường, chưa tiếp cận nhanh với cách dạy học theo mô hình mới VNEN. Chưa ƯDCNTT thường xuyên vào dạy học theo chương trình VNEN với cách nghĩ " Học sinh học nhóm là chủ yếu - không cần máy chiếu". Nên cũng ảnh hưởng đến công tác chỉ đạo hoạt động dạy – học chung ở nhà trường. 	
	2.2.2.Thực trạng chung.
 	Năm đầu tiên tiếp cận với Mô hình trường học mới VNEN, mọi cái đều mới lạ, bỡ ngỡ đối với giáo viên và học sinh. Giáo viên chưa nắm rõ bản chất, đặc trưng của Mô hình trường học mới VNEN, lúng túng trong việc tổ chức lớp học, cảm xúc hồi hộp, lo lâu và có đôi chút ái ngại. Bởi lẽ, giáo viên đã quen thuộc với phương pháp dạy học trước đây, giờ mọi thứ dường như thay đổi, liệu có đạt được những thành công? Hơn nữa, học sinh lớp 2, 3 còn nhỏ, khả năng đọc hiểu còn hạn chế, trình độ nhận thức của học sinh không đồng đều. Việc bầu chọn Hội đồng tự quản, các ban trong lớp và các nhóm trưởng cũng như việc thực hiện nhiệm vụ của các thành viên này là vô cùng khó khăn, bởi các em chưa có kỹ năng điều hành nhóm, kỹ năng tổ chức trò chơi, chưa biết hợp tác trong học tập, chưa mạnh dạn trình bày ý kiến của mình. Không khí lớp học nặng nề, căng thẳng. Phần ứng dụng học tập ở nhà học sinh không tự giải quyết được vì không có sự hướng dẫn của phụ huynh. Phụ huynh học sinh thiếu quan tâm đến con em, còn phó mặc cho nhà trường. Cơ sở vật chất chưa đáp ứng được với mô hình này vì học sinh trong một lớp quá đông, vượt xa so với quy định của mô hình. Đón đoàn Tư vấn giám sát của Sở giáo dục và PGD về khảo sát sau một năm thực hiện dự án với nhận xét về nhà trường: " Học sinh thụ động trong học tập, rụt dè trong giao tiếp, giáo viên tổ chức lớp học, truyền đạt kiến thức chưa đúng tinh thần VNEN. CSVC lớp học, nhà trường chưa đảm bảo cho việc dạy theo mô hình VNEN" Xuất phát từ thực trạng đáng lo ngại trên, Ban Giám hiệu đã triệu tập cuộc họp cùng với các tổ trưởng chuyên môn trong nhà trường đề ra một số giải pháp nhằm từng bước tháo gỡ những khó khăn để thực hiện thành công mô hình này.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
	2.3.1. Nêu cao vai trò, trách nhiệm của người Hiệu trưởng, của BGH, tổ chuyên môn trong công tác chỉ đạo dạy học theo Mô hình trường học mới Việt Nam (VNEN) nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện ở nhà trường.
	a, Vai trò “đầu tàu” của Hiệu trưởng nhà trường. 
	Là cán bộ quản lý, về nhận nhiệm vụ khi nhà trường đang áp dụng Dự án Mô hình trường học mới Việt Nam VNEN. Khi dự án được thực hiện 1 năm, kết quả nhà trường được đoàn tư vấn giám của SGD, PGD đánh giá: " Học sinh e dè, nhút nhát, giáo viên chưa mạnh dạn, chưa sáng tạo, cơ sở vật chất còn thiếu, không đủ phòng học cho việc dạy 2 buổi/ngày". 
	Ngay sau khi nhận nhiệm vụ, là người đứng đầu đơn vị chịu trách nhiệm trước cơ quan quản lý cấp trên (Phòng Giáo dục và Đào tạo, Ủy ban nhân phường Đông Cương) về mọi hoạt động giáo dục của nhà trường, bản thân đã xác định: phải cố gắng bằng mọi giá để tiếp tục thực hiện thành công mô hình trường học mới. Tôi bắt đầu nghiên cứu, tìm hiểu, đọc tài liệu để sớm tiếp cận với mô hình, dần từng bước áp dụng mô hình vào thực tiễn công tác, phù hợp với đặc trưng, điều kiện kinh tế - xã hội của địa phương, đơn vị. 
	Bám sát các dấu hiệu đặc trưng của mô hình trường học mới, mạnh dạn tổ chức lớp học theo mô hình trường học mới, hướng dẫn, giúp đỡ giáo viên để các đồng chí nắm chắc nhiệm vụ, phối hợp tổ chức triển khai thực hiện. Bản thân phải là nòng cốt trong các hoạt động chuyên môn của nhà trường, phải nắm rõ bản chất, nội dung, phương pháp, cách tổ chức dạy học theo Mô hình trường học mới VNEN. Làm tốt công tác tuyên truyền tới phụ huynh học sinh, tổ chức các đợt tập huấn cho giáo viên về Mô hình trường học mới Việt Nam (VNEN). 	Đặc biệt, có vai trò quan trọng trong việc lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo thực hiện và kiểm tra đánh giá chất lượng hoạt động dạy học theo mô hình trường học mới Việt Nam (VNEN) trong nhà trường. Những hoạt động chỉ đạo của bản thân sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động giáo dục trong nhà trường như: hoạt động dạy học của GV và HS, sử dụng thiết bị, đồ dùng dạy học, các lần hội giảng, các cuộc thi, viết sáng kiến kinh nghiệm, tổ chức các hoạt động GDNGLL,  Chú trọng xây dựng cảnh quan môi trường, lớp học.
	- Năm học 2017 - 2018 này, bản thân đã mạnh dạn bàn bạc thống nhất làm tốt công tác XHHGD, phấn đấu có đủ các thiết bị dạy học hiện đại, đưa ứng dụng CNTT vào dạy học Mô hình VNEN trong toàn trường.
	- Chỉ đạo tổ chức học theo mô hình VNEN thì phải trung thành, thực hiện đúng yêu cầu nội dung chương trình, không sa vào cách tổ chức dạy học chương trình hiện hành. Quán triệt kịp thời tới những giáo viên có tư tưởng không ổn định, bắt trước các trường bạn, tự ý sắp xếp bàn ghế mà không xin phép BGH, muốn thay đổi, tổ chức lớp học không đúng với yêu cầu của Mô hình.
	b, Đối với Ban giám hiệu:
	Ngay vào đầu năm học, nhà trường tổ chức các cuộc họp với chính quyền địa phương, ban đại diện Cha mẹ học sinh và toàn thể phụ huynh học sinh của các lớp tham gia thí điểm mô hình trường học mới (VNEN) nhằm tuyên truyền, triển khai nội dung và cách thức thực hiện chương trình. Từ đó, mọi người sẽ nắm bắt và đồng tình ủng hộ. Nắm được tình hình trên, BGH nhà trường đã họp bàn lên kế hoạch cụ thể trong việc chỉ đạo chuyên môn như :
	- Quan tâm, chỉ đạo sát sao việc chọn cử giáo viên đi tập huấn chuyên đề mô hình trường học mới Việt Nam (VNEN)  cấp Tỉnh, cấpTP. Tổ chức tập huấn chuyên đề cấp trường trong hè và bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên.
- Tăng cường dự giờ, tư vấn, rút kinh nghiệm.
- Tổ chức tốt các buổi sinh hoạt chuyên môn cấp trường vào thứ 7, giao lưu chuyên môn Cụm (3 trường dạy thí điểm mô hình trường học mới VNEN trong thành phố: Đông Hải 1, Hoằng Quang, Đông Cương) theo kế hoạch, các chuyên đề sinh hoạt chuyên môn dựa trên giờ dạy cho toàn giáo viên trong đơn vị tham gia, thảo luận rút kinh nghiệm về phương pháp dạy học, kỹ năng điều hành lớp của Chủ tịch Hội đồng Tự quản, của nhóm trưởng, trang trí lớp học, cách sử dụng các công cụ học tập ở các góc học tập
- Sắp xếp thời khóa biểu phù hợp, đảm bảo tính sư phạm, khoa học.
- Khuyến khích giáo viên chăm chuyên, linh hoạt, sáng tạo trong dạy học.
- Yêu cầu mỗi giáo viên phải viết nhật kí giảng dạy những vấn đề bất cập về sách, những khó khăn của học sinh, những giải pháp thực hiện đạt hiệu quả, nhật ký đánh giá học sinh.
- Chỉ đạo cho giáo viên Tổng phụ trách Đội nghiên cứu, triển khai tổ chức các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, các trò chơi, tiểu phẩm trong sinh hoạt tập thể, sinh hoạt dưới cờ, trong giờ học thể dục, múa hát sân trường, các trò chơi dân gianđể làm phong phú các hoạt động trong nhà trường, tạo không khí vui tươi, thoải mái cho các em vào học kiến thức và để mỗi học sinh thực sự cảm nhận được “Mỗi giờ đến trường là một giờ khám phá, mỗi ngày đến trường là một ngày vui”.
- Thường xuyên kiểm tra giáo viên về: Sổ nhật kí giảng dạy và nhật ký đánh giá học sinh theo TT30, sửa đổi theo TT22 của Bộ GD&ĐT để tư vấn điều chỉnh kịp thời.
- Đăc biệt, đầu năm học Ban Giám hiệu kiểm tra chất lượng học tập, nắm chắc tên từng em, số lượng học sinh đọc chưa thông, viết chưa thạo của từng lớp, rồi phân đều cho mỗi giáo viên đứng lớp chịu trách nhiệm hướng dẫn, kèm cặp bao nhiêu em cụ thể, hằng tháng BGH phối hợp với các tổ trưởng chuyên môn dự giờ kiểm tra đánh giá sự tiến bộ của những em này và đưa vào đánh giá giáo viên.
- Ưu tiên những lớp học chương trình VNEN được học 10 buổi/tuần. Các môn học đặc thù, học sinh được học với giáo viên chuyên trách.
c. Đối với Tổ chuyên môn:
Các tổ chuyên môn là tổ chức quan trọng và nòng cốt trong các nhà trường nói chung, trường Tiểu học nói riêng. Bởi các hoạt động chủ yếu của nhà trường là hoạt động chuyên môn và tổ chuyên môn là nơi thực hiện hóa mọi chủ trương, đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước, địa phương, nhà trường về giáo dục đào tạo. 
- Chủ động lên kế hoạch sinh hoạt chuyên môn trong tổ, nội dung sinh hoạt đi vào chiều sâu và có chất lượng, mỗi lần sinh hoạt nêu lên được những tồn tại, khó khăn bất cập, những vướng mắc gặp phải trong quá trình dạy học. Tổ chức thảo luận và thống nhất trong tổ những điều chỉnh, những giải pháp khắc phục tồn tại trong thời gian tới.
- Tăng cường dự giờ, tư vấn cho giáo viên trong tổ để trao đổi thống nhất về phương pháp, cách thức tổ chức lớp học, cách điều hành của nhóm trưởng cũng như việc học sinh có thực sự tự học, tự giác, tích cực trong giờ học và thực hiện đúng 10 bước lên lớp hay hoàn thành các hoạt động theo yêu cầu của bài học. Bên cạnh còn chú trọng về sự giúp đỡ lẫn nhau của các bạn trong nhóm, của giáo viên với học sinh yếu, câu lệnh cùng những ngữ điệu của giáo viên trong các tiết dạy. 
Ảnh: 10 bước học tập theo mô hình trường học mới (VNEN)
 - Ngoài ra, còn tổ chức các chuyên đề ở các môn học, hoạt động giáo dục chưa có tài liệu hướng dẫn học mà giáo viên còn lúng túng (Giáo dục Âm nhạc, Mỹ thuật, Thể dục, Đạo đức, Thủ công (Kỹ thuật) rút kinh nghiệm trong tổ để có phương pháp giảng dạy tốt.
- Thường xuyên kiểm tra Sổ nhật kí giảng dạy và nhật ký đánh giá học sinh của giáo viên để tư vấn điều chỉnh kịp thời. Đồng thời đề xuất với nhà trường những khó khăn bất cập và xin ý kiến chỉ đạo để triển khai điều chỉnh nhằm giúp giáo viên trong tổ thực hiện tốt hơn sổ nhật kí dạy học.
	2.3.2. Tiếp tục bồi dưỡng cho giáo viên về bản chất của mô hình trường học mới VNEN.
	- GV cần hiểu thấu đáo cơ sở khoa học và thực tiễn, ý đồ soạn thảo và vận dụng của tài liệu Hướng dẫn học.
	- Bồi dưỡng cho GV ý thức sâu sắc về sự tự học, tự bồi dưỡng, tích cực học hỏi kinh nghiệm đồng nghiệp.
- Nghiên cứu kĩ bài dạy (mục tiêu cần đạt, câu lệnh, lôgô...) để trao đổi với các giáo viên trong khối, điều chỉnh cho phù hợp; nắm chắc 5 bước giảng dạy và 10 bước học tập để tổ chức dạy học trên lớp đạt hiệu quả.
- Thời gian đầu khi học sinh chưa quen cách học, trước khi tổ chức cho học sinh trải nghiệm, phân tích khám phá, rút ra kiến thức mới, giáo viên cần linh hoạt kết hợp tính kế thừa của phương pháp dạy học truyền thống để giao nhiệm vụ rõ ràng cho các nhóm thực hiện. 
- Cập nhật vào nhật kí giảng dạy và nhật ký đánh giá học sinh những khó khăn, những giải pháp thực hiện đạt hiệu quả trong quá trình giảng dạy.
- Hướng dẫn học sinh lựa chọn và bình bầu những bạn mạnh dạn, nhanh nhẹn, học lực khá, giỏi vào Hội đồng tự quản và làm nhóm trưởng. 
- Tập huấn cho nhóm trưởng và Hội đồng tự quản kỹ năng điều hành nhóm học tập cũng như tổ chức các hoạt động vui chơi khi khởi động.
- Tăng cường kiểm tra bài tập ứng dụng. Tăng cường (phần đọc và viết) vào đầu buổi học. 
- Phân nhóm nhiều đối tượng để học sinh hỗ trợ nhau trong học tập.
- GV quan tâm, giúp đỡ nhiều hơn đối với những học sinh yếu, nhẹ nhàng, tôn trọng, gần gũi, giải thích từ từ, lôgic các kiến thức có liên quan để học sinh hiểu ra vấn đề, không nổi nóng, quát tháo học sinh. Thường xuyên động viên, khuyến khích khi các em có tiến bộ.
- Trong dạy học phải bao quát lớp, quy định các kí hiệu để học sinh thực hiện theo lệnh và kiểm tra giám sát, giúp đỡ các nhóm kịp t

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_bien_phap_chi_dao_day_hoc_theo_mo_hinh_truong_ho.doc